Tài liệu Yếu tố nước trong lễ Chôl Chnăm Thmây của người Khmer Trà Vinh – Tiếp cận lý thuyết văn hóa sinh thái: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 30 (55) - Thaùng 7/2017
98
Yếu tố nước trong lễ Chôl Chnăm Thmây của
người Khmer Trà Vinh – Tiếp cận lý thuyết văn hóa sinh thái
Water in Chol-Chnam-Thmay festival of Khmer people in Tra Vinh –
From the approach of ecological culture
ThS. Lê Thúy An,
Trường Đại học Trà Vinh
Le Thuy An, M.A.,
Tra Vinh University
Tóm tắt
Nước là một dạng vật chất đặc biệt. Trong một số nền văn hóa, nước vừa có giá trị vật chất vừa mang ý
nghĩa tinh thần. Nước vừa phục vụ cho nhu cầu ăn uống, sản xuất, kinh tế và đồng thời cũng mang ý
nghĩa thiêng trong một số nghi thức tôn giáo. Nước lại càng có ý nghĩa đối với người Khmer ở Trà Vinh
nói riêng và Nam Bộ nói chung. Người Khmer Trà Vinh sinh sống trên những vùng đất giồng cao (nơi
vừa thừa nước vừa thiếu nước) nên văn hóa ứng xử của người Khmer với nước vô cùng đặc biệt.
Bài báo nhằm giới thiệu văn hóa ứng xử với nước trong lễ Chôl Chnăm Thmây của người Khmer Trà
Vinh. Trong lễ nà...
7 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 515 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Yếu tố nước trong lễ Chôl Chnăm Thmây của người Khmer Trà Vinh – Tiếp cận lý thuyết văn hóa sinh thái, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 30 (55) - Thaùng 7/2017
98
Yếu tố nước trong lễ Chôl Chnăm Thmây của
người Khmer Trà Vinh – Tiếp cận lý thuyết văn hóa sinh thái
Water in Chol-Chnam-Thmay festival of Khmer people in Tra Vinh –
From the approach of ecological culture
ThS. Lê Thúy An,
Trường Đại học Trà Vinh
Le Thuy An, M.A.,
Tra Vinh University
Tóm tắt
Nước là một dạng vật chất đặc biệt. Trong một số nền văn hóa, nước vừa có giá trị vật chất vừa mang ý
nghĩa tinh thần. Nước vừa phục vụ cho nhu cầu ăn uống, sản xuất, kinh tế và đồng thời cũng mang ý
nghĩa thiêng trong một số nghi thức tôn giáo. Nước lại càng có ý nghĩa đối với người Khmer ở Trà Vinh
nói riêng và Nam Bộ nói chung. Người Khmer Trà Vinh sinh sống trên những vùng đất giồng cao (nơi
vừa thừa nước vừa thiếu nước) nên văn hóa ứng xử của người Khmer với nước vô cùng đặc biệt.
Bài báo nhằm giới thiệu văn hóa ứng xử với nước trong lễ Chôl Chnăm Thmây của người Khmer Trà
Vinh. Trong lễ này, nước mang ý nghĩa về mặt tinh thần là có chức năng thanh tẩy, xua đi những xui
xẻo và muộn phiền trong năm cũ để đón chờ một năm mới thanh sạch và nhiều may mắn hơn.
Từ khóa: nước, Chôl Chnăm Thmây, người Khmer Trà Vinh, văn hóa sinh thái.
Abstract
Water is a special material. In some cultures, water has both materialistic value and spiritual meaning.
In addition to being used for survival needs, production and economic purposes, water also conveys
essential meanings in some religious rituals. Water has more meanings with Khmer people in Tra Vinh
particularly and in Southern areas generally. Khmer people in Tra Vinh have lived in a high mound
(where water abundance and water shortage are co-existent), which results in very special cultural
behavior with water.
This article will introduce cultural behavior with water in Chol-Chnam-Thmay Festival of Khmer
people in Tra Vinh. In this festival, the spiritual meaning of water is cleaning and dismissing unlucky
and depressive things in the past year so as to welcome a new year with more blessings.
Keywords: water, Chol-Chnam-Thmay, Khmer in Tra Vinh, ecological culture.
1. Dẫn nhập
Trà Vinh là tỉnh nằm giữa sông Tiền
và sông Hậu, tiếp giáp với biển Đông thuộc
miền Tây Nam Bộ, có dân số hơn 1 triệu
người, trong đó người Khmer chiếm 30%,
khoảng 300.000 người. Trà Vinh là nơi hội
tụ của 4 dân tộc chính cùng nhau sinh
sống: Kinh, Khmer, Hoa, Chăm. Người
Khmer Trà Vinh là cư dân nông nghiệp và
cư ngụ chủ yếu ở vùng nông thôn, đó là
vùng sản xuất nông nghiệp với cây lương
thực chủ yếu là lúa nước. Bên cạnh đó họ
LÊ THÚY AN
99
còn kết hợp trồng hoa màu, chăn nuôi gia
súc và gia cầm, đánh bắt thủy hải sản, sản
xuất tiểu thủ công nghiệp, và một bộ phận
người Khmer cũng tham gia buôn bán tại
các chợ thị trấn trong tỉnh. Trong quá trình
sinh sống tại vùng đất này, người Khmer
đã sáng tạo, tích lũy được nhiều tri thức
dân gian trong lao động sản xuất, trong
cuộc sống hằng ngày và họ đã tạo ra một
nền văn hóa mang đậm dấu ấn của dân tộc
mình trên cả hai phương diện văn hóa vật
chất và văn hóa tinh thần.
Cũng như người Khmer ở các tỉnh
đồng bằng sông Cửu Long khác, người
Khmer ở Trà Vinh có đời sống văn hóa
tinh thần vô cùng phong phú. Trong một
năm, ngoài các hoạt động tín ngưỡng dân
gian, người Khmer Trà Vinh có 3 lễ hội
lớn là Chôl Chnăm Thmây; Sen Đôlta và
Ok Om Bok. Mỗi lễ hội hầu như đều
mang dấu ấn văn hóa nông nghiệp và
cách ứng xử với tự nhiên rất rõ nét. Như
lễ Chôl Chnăm Thmây được diễn ra vào
thời điểm chuẩn bị vào một mùa vụ mới,
người nông dân Khmer cần có nước để
làm ruộng. Đây còn là thời điểm có khí
hậu nóng nhất trong năm với những trận
hạn mà người Trà Vinh hay gọi là “hạn
bà chằn”.
Văn hóa sinh thái là sự thích nghi của
con người với môi trường tự nhiên theo
những cách khác nhau và sáng tạo ra
những giá trị văn hóa đa dạng. Julian
Steward
1
cho rằng: “những nền văn hóa
trong cùng môi trường phát triển có xu
hướng theo những chuỗi phát triển giống
nhau và lập thành công thức tương tự nhau
đáp ứng với những thay đổi của môi
trường” [4]. Phương pháp của văn hóa sinh
thái hướng đến việc làm rõ mối quan hệ
giữa văn hóa và môi trường từ quan điểm
coi con người là thể tồn tại thích ứng với
môi trường thông qua văn hóa, đến lượt
mình, văn hóa chịu ảnh tác động lớn của
các loại tài nguyên môi trường do con
người sử dụng. J. Steward cũng quan tâm
đến việc lý giải sự giống nhau giữa các nền
văn hóa trong những khu vực khác nhau.
Theo ông, những khu vực khác nhau nhưng
có môi trường giống nhau và phương pháp
khai thác môi trường giống nhau dễ dẫn
đến có những nền văn hóa giống nhau.
Hiện nay có rất nhiều quan điểm liên
quan đến thuyết nghiên cứu văn hóa sinh
thái trong giới khoa học. Việc nhận thức
con người là một bộ phận của giới tự
nhiên, sống và tương tác với tự nhiên đã
khiến nhiều nhà nghiên cứu nhân học, văn
hóa học bàn đến về sự ảnh hưởng, tác động
của tự nhiên với văn hóa vật chất, văn hóa
tinh thần của con người. Trong các nghiên
cứu, có thể có những tư duy nghiên cứu
không giống nhau nhưng khi xét mối quan
hệ giữa môi trường và văn hóa, xã hội, các
nhà nghiên cứu đều có cùng quan điểm
điều kiện môi trường nơi tộc người cư trú
thường có những ảnh hưởng đến văn hóa
đời sống của tộc người đó. Từ lý thuyết
này, chúng tôi muốn giải mã điều kiện tự
nhiên sinh sống của người Khmer đã ảnh
hưởng như thế nào đến văn hóa ứng xử với
nước trong lễ Chôl Chnăm Thmây.
2. Ứng xử với nước trong lễ
Chol-Chnam-Thmay của người Khmer
Trà Vinh
Chôl Chnăm Thmây còn gọi là “lễ chịu
tuổi” hay “vào năm mới” của người Khmer
Nam Bộ. Người Khmer mừng năm mới vào
giữa tháng “chét” (tức khoảng giữa tháng 4
dương lịch). Lễ này thường được tổ chức
trong 3 ngày 13, 14, 15 (đối với năm
thường) hoặc 4 ngày 13, 14, 15, 16 (đối với
năm nhuần). Chôl Chnăm Thmây (hoặc
Chaul Chnam Thmay) là lễ mừng năm mới
YẾU TỐ NƯỚC TRONG LỄ CHÔL CHHHNAM THMÂY CỦA NGƯỜI KHMER TRÀ VINH
100
theo lịch cổ truyền của dân tộc Khmer.
Thời gian diễn ra lễ Chôl Chnăm Thmây
của người Khmer Nam Bộ cũng là những
ngày đầu năm mới ở Campuchia, Lào, Thái
Lan, Myanma, Sri Lanka.
Lễ Chôl Chnăm Thmây của người
Khmer Trà Vinh được diễn ra với các nghi
thức: lễ rước Maha Sangkran, lễ dâng cơm,
lễ đắp núi cát, lễ tắm tượng Phật, tắm sư sãi
và lễ cầu siêu. Chôl Chnăm Thmây có ý
nghĩa rất quan trọng đối với người Khmer
vì đây vừa là ngày mở đầu năm mới, mở
đầu thời vụ mới và cũng là ngày hạnh phúc
tươi vui nhất trong năm. Theo quan niệm
của người Khmer, tháng 4 là thời điểm giao
thời giữa mùa khô và mùa mưa. Sự thay
đổi, chuyển mùa của thiên nhiên mang lại
sự tươi tốt cho cây cỏ và cũng có ý nghĩa
khởi nguồn những gì tốt đẹp cho con người.
Lễ Chôl Chnăm Thmây được tổ chức vào
giai đoạn kết thúc mùa khô và chuẩn bị vào
mùa mưa. Đây là giai đoạn những người
nông dân có thời gian nhàn rỗi sau những
ngày đồng áng mệt nhọc. Dịp lễ này cũng
còn là ngày hội để người Khmer có dịp vui
chơi giải trí sau một năm làm ăn vất vả để
họ chuẩn bị cho một vụ mùa mới đạt được
nhiều thành quả hơn.
Người Khmer rất háo hức mong chờ
đón mừng ngày Chôl Chnăm Thmây.
Trong một năm làm lụng, người Khmer
thường dành dụm để sắm sửa cho ngày
năm mới. Với người Khmer, ngày năm mới
này không chỉ sắm sửa quần áo mới cho cá
nhân, trang hoàng nhà cửa cho tươm tất mà
quan trọng hơn hết là phải tu bổ, trang
hoàng cho nhà chùa một cách lộng lẫy.
Người Khmer có cuộc sống tâm linh hướng
về thế tục và có quan niệm rằng cuộc sống
hiện tại chỉ là cõi tạm, con người sống phải
tích phước bằng cách tu bổ, sắm sửa cho
nhà chùa để kiếp sau có cuộc sống an nhàn,
sung túc hơn.
Chôl Chnăm Thmây của người Khmer
thường được tổ chức trong 3 ngày.
Ngày thứ nhất là ngày lễ rước Đại
lịch “Maha Sangkran mới”. Trong ngày
đầu năm mới này, người Khmer chuẩn bị
vật phẩm như nhang, đèn, hoa quả mang
đến chùa. Dưới sự chỉ dẫn của vị Achar2
mọi người xếp thành hàng rồi đi vòng
quanh chánh điện 3 lần để làm lễ đón chào
năm mới. Maha Sangkran được hiểu như vị
hành khiển trong ngày Tết năm mới của
người Việt. Cứ mỗi năm, người Khmer lại
đón 1 vị Maha Sangkran cai quản và trông
coi mọi việc của năm đó.
Ngày thứ hai là ngày Phật tử dâng
cơm cho sư sãi vào buổi sáng và buổi trưa
ở chùa. Sau khi thọ thực, các sư sãi bắt đầu
tụng kinh chúc phúc. Buổi chiều, mọi
người đến chùa để làm lễ đắp núi cát để
mong gặp nhiều điều may mắn. Núi cát
thường được đắp vào những ngày gần Tết.
Vào những ngày giáp Tết, các nhà sư trong
chùa thường tiến hành đắp núi cát (Phnom
– Khsach) theo hình tháp (Sthâup) xung
quanh chính điện. Ngày nay, trong một số
chùa ở Trà Vinh có thay hình thức đắp núi
cát bằng đắp núi lúa. Dù núi cát hay núi lúa
cũng đều là biểu hiện ma thuật nhằm mang
ước vọng những núi cát này sẽ ngăn cản
mây và tạo ra những cơn mưa [2].
Ngày thứ ba: là ngày tắm tượng Phật.
Đây là nghi lễ quan trọng nhất và thiêng
liêng nhất đối với đồng bào Khmer. Nghi
lễ tắm tượng Phật liên quan rất nhiều đến
tâm thức ứng xử với nước của người
Khmer Tây Nam Bộ. Nghi lễ tắm Phật tiến
hành như sau: khi dâng cơm sáng cho các
vị sư xong, mọi người trong phum, sóc
đem nước ướp hương thơm (Tưk-op)3
cùng nhang, đèn đến bàn thờ Phật để cùng
làm lễ tắm tượng Phật. Khi tắm Phật xong
LÊ THÚY AN
101
là đến tắm các vị sư cao niên nhằm rửa
sạch hết những muộn phiền trong năm cũ
để sang năm mới được thanh sạch, vui vẻ
hơn. Hiện nay, việc tắm những nhà sư
không còn phổ biến mà chỉ còn tồn tại ở
một số chùa. Nước thơm sau khi tắm Phật,
người Khmer còn mang về nhà tắm cho
người lớn tuổi để cầu chúc sức khỏe, bình
an và may mắn. Người già khi được tắm
nước thơm trong ngày đầu năm mới sẽ vô
vùng hạnh phúc vì nhận được tấm lòng
hiếu thảo của con cháu.
Trong ngày Tết năm mới này còn có
lễ cầu siêu gọi là “Băng skol”. Các vị sư
sau khi tắm Phật ở chính điện đến các tháp
xung quanh chùa tụng kinh cầu siêu nhằm
chúc phước lành cho người quá cố. Sau khi
tụng kinh cầu siêu, các nhà sư dùng nước
rảy vào ngôi tháp và rảy vào con cháu
người quá cố quỳ dưới chân tháp. Mọi
người rất hoan hỉ khi được rảy nước vào
người. Đó như một lời chúc phước lành
trong ngày đầu năm mới. Với người
Khmer, nước thơm được sư sãi rảy trong
những nghi thức là một thứ nước rất thiêng
liêng. Nó có chức năng thanh tẩy và chúc
phúc. Trong các nghi lễ của người Khmer
thường có nghi thức rảy nước này. Từ nghi
lễ dành cho trẻ nhỏ trong lễ tròn tháng,
nghi lễ dành cho đôi vợ chồng khi làm lễ
kết hôn đến lễ dành cho người chết đều có
sự xuất hiện của dòng nước thanh tẩy này.
Những nghi thức mang ý nghĩa thanh tẩy
của nước nhằm xóa đi những điều không
sạch sẽ đã qua để cầu mong một sự tái sinh
may mắn thanh sạch.
Hiện nay, trong lễ Chôl Chnăm Thmây
của người Khmer ở Trà Vinh thường
ngừng lại ở nghi thức tắm Phật ở chùa rồi
đến tắm ông bà ở nhà và không còn phổ
biến tục té nước. Theo khảo sát của chúng
tôi, chỉ còn lại một vài chùa còn lưu giữu
tục này như một cách bảo tồn văn hóa
truyền thống của người Khmer. Ở Trà Vinh
có chùa Bổn Thanh, tại xã Ngũ Lạc, huyện
Duyên Hải và chùa Ktưng ngụ tại phường
8, thành phố Trà Vinh là vẫn còn tục té
nước. Trong chuyến thực tế điền dã, chúng
tôi đã có dịp chứng kiến một lễ té nước của
người Khmer. Trước khi bắt đầu tắm Phật,
các sư sãi bắt đầu chuẩn bị nước đầy thùng,
thau có rắc cánh hoa tươi dùng để để té
nước. Sau khi tắm Phật xong, bà con cùng
nhau lấy nước tạt vào nhau bất kể người
lớn hay trẻ con. Ai ai cũng vui cười đón
nhận nước. Thậm chí các nhà sư cũng được
té nước để cầu phúc. Không phân biệt tuổi
tác, địa vị, tất cả mọi người đến với ngày
hội té nước là để cầu phúc lành và cùng vui
chơi thỏa thích.
Rảy nước tại chùa Ktưng, Trà Vinh
Nguồn: tư liệu điền dã năm 2014
Không chỉ té nước ở chùa, một số
người còn chạy xung quanh sóc té nước
vào nhau. Chôl Chnăm Thmây diễn ra vào
thời điểm nóng nhất trong năm nên được té
nước vào nhau mọi người càng trở nên vui
thích vì được giải tỏa sức nóng của mặt
trời. Nước đã mang bao ý nghĩa quan trọng
trong ngày Tết vào năm mới của người
Khmer ở TràVinh. Thế nhưng, hiện nay từ
trong nhận thức người Khmer nước đang
mất dần những giá trị linh thiêng. Qua
phỏng vấn sâu của chúng tôi với một số
YẾU TỐ NƯỚC TRONG LỄ CHÔL CHHHNAM THMÂY CỦA NGƯỜI KHMER TRÀ VINH
102
người dân sinh hoạt tôn giáo tại chùa Bổn
Thanh, Duyên Hải thì hiện nay người
Khmer chỉ nghĩ rằng té nước là những thói
quen do tàn tích để lại mà chưa hiểu hết
tầm quan trọng cũng như ý nghĩa sâu xa
của nó. Chẳng hạn như khi chúng tôi
phỏng vấn một số sư sãi chùa Bổn Thanh
tại xã Ngũ Lạc huyện Duyên Hải tỉnh Trà
Vinh (năm 2011) về ý nghĩa của việc nhà
chùa cho nước trong lễ Chôl Chnăm
Thmây thì sư cả cho rằng: té nước vừa để
cho bà con vui chơi vừa để bảo lưu những
giá trị văn hóa của người Khmer. Đây là
một trong các chùa hiếm hoi ở Trà Vinh
còn lưu giữ tục té nước. Như một số nhà sư
cho rằng: do ý thức của một số người dân
khi tham gia té nước có tình trạng một số
người dùng nước bẩn té vào người khác
gây mất vệ sinh... Cũng có ý kiến cho rằng:
té nước làm cho mọi người ướt và không
thể đi chơi hội được nữa. Bởi trong lễ hội
này, sau khi tắm Phật, người Khmer tổ
chức đi đến nhà bạn bè hoặc đi nhiều nơi
khác nữa.
Còn tại chùa Ktưng ở phường 8, thành
phố Trà Vinh, sau nghi thức tắm Phật trong
chính điện chùa sẽ là nghi thức rảy nước
cầu phúc cho bà con Khmer tại sân chùa.
Đây có thể xem vừa là lễ vừa lại mang tính
chất hội. Các sư chuẩn bị một chiếc bàn dài
đặt giữa sân. Phía bên dưới là các ông bà
lão niên được sắp xếp ngồi trên ghế. Còn
những người trung niên và thanh niên thì
được trải chiếu và ngồi trệt ở đất. Sư cả và
các vị sư trong chùa tụng kinh cầu phúc
cho đồng bào Khmer xong sẽ diễn ra nghi
thức rảy nước cầu phúc. Trước tiên là sư cả
dùng nước thơm rảy cho người già rồi dần
dần đến những người trẻ. Càng về sau,
nghi thức càng như ngày hội. Bà con Phật
tử cùng nhau rảy nước như một hành động
cầu chúc điều tốt lành. Kết thúc nghi thức
tất cả bà con đều ướt sũng và ai cũng hân
hoan với nụ cười đầy viên mãn cho một
năm mới được mở ra.
Trước những biến đổi xã hội, thiết
nghĩ những nghi thức này cần được tiếp tục
duy trì và phát huy. Bởi đây là một nghi
thức ý nghĩa rất quan trọng và mang tính
bản sắc trong văn hóa tinh thần của người
Khmer.
3. Lễ Chol-Chnam-Thmay dưới góc
độ tiếp cận văn hóa sinh thái
Nước là một dạng vật chất nhưng lại
mang ý nghĩa tinh thần. Cũng như nhiều
dân tộc khác, người Khmer Trà Vinh nhận
thức về nước ở hai dạng: vừa tôn kính vừa
sợ hãi. Người Khmer tôn kính nước vì
nước mang đến sự sống, nước nuôi dưỡng,
chở che và bao dung con người. Người
Khmer sợ hãi nước bởi nước ngoài mang
đến những lợi ích thì đôi khi nước lại nhấn
chìm sự sống và mang khả năng hủy diệt
dữ dội. Trong tâm thức người Khmer luôn
mang hai trạng thái song song đối với
nước: nước nguồn sống và tái sinh: tôn
kính; nước hủy diệt: sợ hãi. Trong lễ Chôl
Chhhnam Thmây của người Khmer ở Trà
Vinh, yếu tố nước mang tính linh thiêng và
có chức năng thanh tẩy. Nước tắm Phật,
tắm sư sãi trong chùa hay nước tắm ông bà
ở nhà là một loại nước thiêng (tưk-op) có
khả năng hủy diệt những điều không may
và tái sinh những điều mới hạnh phúc, may
mắn trong năm mới. Theo chúng tôi, yếu tố
nước với chức năng thanh tẩy như là một
công cụ để giải tỏa về mặt tâm lí của con
người được thực hiện trong các nghi lễ,
phong tục của cộng đồng dân tộc.
Bên cạnh đó, lý thuyết sinh thái văn
hóa của Julian Steward được chúng tôi vận
dụng nghiên cứu văn hóa ứng xử với nước
trong lễ Chôl Chnăm Thmây của người
Khmer ở Trà Vinh. Điều kiện sinh sống
LÊ THÚY AN
103
của một tộc người có khả năng ảnh hưởng
đến văn hóa ứng xử của tộc người đó.
Người Khmer ở Trà Vinh có quá trình
cộng cư lâu dài trên vùng đất đa dạng tộc
người. Là một dân tộc đến sớm và khai phá
những vùng đất trũng, hoang vu, sình lầy
nhiều hiểm trở nên người Khmer đã sớm
lựa chọn cho mình những giồng đất cao ráo
để làm nơi sinh tụ. Đất giồng là loại phù sa
cổ với đặc tính trên mặt là đất cát pha, dưới
sâu là đất sét nên khô, dễ thoát nước. Có
thể nói cách chọn cứ trú trên đất giồng là
một cách ứng phó với tự nhiên của người
Khmer. Bên cạnh việc cư trú trên đất giồng
cao, người Khmer còn cư trú những vùng
ven biển. Khi cư trú tại vùng đất ven biển
người Khmer đã gặp không ít khó khăn
trong vấn đề nước sạch để ăn uống và trồng
trọt. Vùng đất này thường xuyên nhiễm
mặn nên hàng năm có khoảng 6 tháng thiếu
nước ngọt do hạn hán và nạ nhiễm phèn,
nhiễm mặn. Để ứng phó với môi sinh khắc
nghiệt, người Khmer rất chú trọng đến việc
cải tạo môi trường nước, trong đó công tác
làm thủy lợi được người Khmer đặc biệt
quan tâm như: đắp đê ngăn mặn, đào bờ để
giữ nước ngọt, đào mương đưa nước... mà
vẫn hay được gọi là “dẫn thủy nhập điền”.
Người Khmer Trà Vinh không chỉ ứng
phó với điều kiện đất đai, thổ nhưỡng mà
còn ứng phó với thời tiết và khí hậu nơi
đây. Trà Vinh nằm trong vùng nhiệt đới, ít
bị ảnh hưởng bão lũ và có khi hậu phân
biệt hai mùa rõ rệt: 6 tháng mùa khô và 6
tháng mùa mưa. Chính sự phân bố không
đều này đã dẫn đến cách ứng xử đa dạng và
linh hoạt đối với môi trường tự nhiên.
Người Khmer có những cách ứng xử thể
hiện cách sống ôn hòa và tôn trọng thiên
nhiên trong đó tôn trọng nước được xem là
yếu tố hàng đầu. Người Việt có câu: “Nhất
nước, nhì phân, tam cần, tứ giống” để xếp
mức độ quan trọng các yếu tố cần thiết cho
nghề nông thì người Khmer cũng có câu
“Làm ruộng nhờ nước, đánh giặc nhờ
cơm” để nói lên sự cần thiết của nước
trong sản xuất nông nghiệp.
Tại Trà Vinh, người Khmer làm nông
nghiệp cũng chịu ảnh hưởng tình hình khô
cạn, đồng ruộng nứt nẻ vào mùa nắng. Các
cánh đồng dọc theo các con giồng Duyên
Hải, Tiểu Cần, Châu Thành vào mùa nắng
hầu như không còn sự sống. Người Khmer
ở Duyên Hải - Trà Vinh dùng cụm từ
“đồng khô cỏ cháy’’ để chỉ các con giồng
trước cái nắng hạn tháng 3, tháng 4 như
thiêu như đốt. Không chỉ ứng phó với nắng
hạn, người nông dân Khmer còn chịu ảnh
hưởng bởi triều cường và xâm mặn của
nước biển. Thông thường người nông dân
có thể canh tác 2 đến 3 vụ trong năm
nhưng khi tình trạng nắng kéo dài và
những đợt nhiễm mặn nặng chỉ có thể canh
tác 1 vụ trong năm. Những ảnh hưởng từ
thời tiết, môi trường, đất đai đã ảnh hưởng
nhiều đến sinh kế của người Khmer.
Việc thích nghi với môi sinh đa dạng,
người Khmer Trà Vinh hình thành nên
những những tập quán, phong tục đặc
trưng. Trong đó, để thích ứng và đối phó
với nước là một nét văn hóa được hình
thành từ những ngày đầu tiên người Khmer
đến cư trú trên vùng đất này. Thông qua
cách ứng xử với nước trong lễ Chôl Chnăm
Thmây chính là một biểu hiện của văn hóa
ứng xử với môi trường tự nhiên mang tính
sinh thái văn hóa của người Khmer Trà
Vinh. Vào thời gian diễn ra lễ Chôl Chnăm
Thmây là lúc nắng nóng, khô hạn nhất
trong năm (nằm trong 6 tháng mùa khô ở
Trà Vinh). Cho nên, tắm Phật, tắm sư sãi,
ông bà cha mẹ hay té nước vào nhau của
người Khmer ở Trà Vinh ngoài ý nghĩa
thanh tẩy còn mang ý nghĩa gắn với cách
YẾU TỐ NƯỚC TRONG LỄ CHÔL CHHHNAM THMÂY CỦA NGƯỜI KHMER TRÀ VINH
104
ứng xử sinh thái văn hóa. Thời điểm nắng
gắt, khô hạn cộng thêm với hành vi xối
nước, té nước còn mang ý nghĩa mang đến
sự mát mẻ, thoải mái cũng là một cách ứng
xử hài hòa với tự nhiên của người Khmer
Trà Vinh.
4. Kết luận
Chôl Chnăm Thmây là một lễ hội lớn
và có ý nghĩa về mặt tinh thần đối với đồng
bào Khmer trà Vinh. Từ trước đến này lễ
hội này đã được nghiên cứu dưới các góc
độ khác nhau. Bài viết dưới góc tiếp cận lý
thuyết văn hóa sinh thái đã góp thêm một
nghiên cứu cho hướng tiếp cận liên ngành.
Cách tiếp cận này giúp nhận diện một cách
rõ nét hơn, toàn diện hơn với các ứng xử
với nước như rảy nước cầu phúc, thanh tẩy;
té nước cầu chúc may mắn là một cách ứng
xử hài hòa linh hoạt với môi trường tự
nhiên của người Khmer Nam Bộ nói chung
và người Khmer ở Trà Vinh nói riêng.
Ghi chú:
1
Julian Steward (1902-1972).
2
Achar: người có vai trò quan trọng trong đời sống
văn hóa – xã hội của đồng bào Khmer. Achar
thường là những người đã được tu học ở chùa, có
đạo đức, vốn sống và đặc biệt là có sự am hiểu
sâu sắc về phong tục, tín ngưỡng, lễ hội. Trong
các nghi thức lễ tục của người Khmer, bên cạnh
sự hướng dẫn của nhà sư còn có sự đóng góp rất
lớn của các Achar.
3
Tưk-op: nước thơm (là một thứ nước sạch được
người Khmer ướp thơm bằng hoa vạn thọ, hoa lài
hoặc bằng tinh dầu thơm. Đôi khi nước thơm
được ướp bằng hương nhang đốt lên. Khi chúng
tôi điền dã đã thấy tại một số chùa Khmer tại Trà
Vinh tiến hành làm nước thơm như sau: mỗi
người mang một bình nước sạch đến chùa. Nhà sư
dùng ba cây nhang bẻ cong, đốt cho cháy rồi bỏ
vào ca nước sạch đậy nắp lại. Nước thơm này sẽ
được dùng tắm Phật và sau đó mang về tắm ông
bà ở nhà).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Tri Nguyên (2010), Văn hóa học -
Những phương diện liên ngành và ứng dụng,
Nxb Đại học Công nghiệp - Thành phố Hồ
Chí Minh.
2. Trường Lưu (1993), Văn hóa người Khmer
vùng đồng bằng sông Cửu Long, Nhà xuất
bản Văn hóa Dân tộc, trang 41,42.
3. Trần Ngọc Thêm: Nước, văn hóa và hội nhập,
van-hoa-hoc/van-hoa-va-phat-trien/25-tran-
ngoc-them-nuoc-van-hoa-va-hoi-nhap.html.
4. Phan Thị Yến Tuyết (2009), “Tâm thức ứng
xử với nước của người Khmer qua lễ hội Ok
Angbok – Tiếp cận sinh thái văn hóa”, In
trong kỷ yếu Hội thảo Khoa học Bảo tồn và
phát huy lễ hội Óoc Om Boc – Đua ghe ngo
Sóc Trăng, trang 95.
5. R.Jon Mcgee – Richarrd L. Warms (2010), Lý
thuyết nhân loại học giới thiệu lịch sử (Lê
Sơn Phương Ngọc, Đinh Hồng Phúc dịch),
Nxb Từ điển Bách khoa, trang 319.
6. Cùng tư liệu điền dã của tác giả vào năm
2011, 2014 tại Trà Vinh.
Ngày nhận bài: 12/8/2016 Biên tập xong: 15/7/2017 Duyệt đăng: 20/7/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 73_8242_2215125.pdf