Tài liệu Yếu tố bản địa trong văn hóa Thiên chúa giáo ở Philippines: 63
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, tập 72A, số 3, năm 2012
YẾU TỐ BẢN ĐỊA
TRONG VĂN HÓA THIÊN CHÚA GIÁO Ở PHILIPPINES
Nguyễn Đinh Khương Duy
Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế
Tóm tắt. Văn hóa Thiên Chúa giáo là một yếu tố nổi bật trong tổng thể nền văn
hóa Philippines. Trong suốt gần 500 năm tồn tại, Thiên Chúa giáo đã có nhiều tác
động to lớn đến đời sống xã hội của đất nước này, trong khi đó, những yếu tố bản
địa vẫn được gìn giữ. Với sự có mặt của hai yếu tố bản địa và ngoại lai, văn hóa
Philippines là một sự pha trộn hoàn hảo để rồi tạo nên tính đa dạng cho cư dân
quần đảo. Chính điều này đã làm cho Philippines trở nên khác biệt so với các quốc
gia Đông Nam Á còn lại nhưng vẫn mang tính thống nhất của nền văn hóa khu vực.
Mặc dù bị ảnh hưởng bởi chế độ thuộc địa của Tây Ban Nha và Hoa Kỳ trong hàng
thế kỷ, văn hóa bản địa của Philippines vẫn giữ được bản sắc của nó, và là bằng
chứng để chứng minh rằng quốc gia này thuộc không gian xã hội Đông Nam Á....
8 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 726 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Yếu tố bản địa trong văn hóa Thiên chúa giáo ở Philippines, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
63
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, tập 72A, số 3, năm 2012
YẾU TỐ BẢN ĐỊA
TRONG VĂN HÓA THIÊN CHÚA GIÁO Ở PHILIPPINES
Nguyễn Đinh Khương Duy
Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế
Tóm tắt. Văn hóa Thiên Chúa giáo là một yếu tố nổi bật trong tổng thể nền văn
hóa Philippines. Trong suốt gần 500 năm tồn tại, Thiên Chúa giáo đã có nhiều tác
động to lớn đến đời sống xã hội của đất nước này, trong khi đó, những yếu tố bản
địa vẫn được gìn giữ. Với sự có mặt của hai yếu tố bản địa và ngoại lai, văn hóa
Philippines là một sự pha trộn hoàn hảo để rồi tạo nên tính đa dạng cho cư dân
quần đảo. Chính điều này đã làm cho Philippines trở nên khác biệt so với các quốc
gia Đông Nam Á còn lại nhưng vẫn mang tính thống nhất của nền văn hóa khu vực.
Mặc dù bị ảnh hưởng bởi chế độ thuộc địa của Tây Ban Nha và Hoa Kỳ trong hàng
thế kỷ, văn hóa bản địa của Philippines vẫn giữ được bản sắc của nó, và là bằng
chứng để chứng minh rằng quốc gia này thuộc không gian xã hội Đông Nam Á.
Năm 1521, theo lệnh của nhà vua Tây Ban Nha, nhà thám hiểm Ferdinand
Magellan, trong hành trình vòng quanh thế giới, đã cập bến đảo Cebu ở miền Trung
Philippines. Khi ở đảo Cebu, Magellan cùng hành đoàn của ông đã thực hiện nghi lễ rửa
tội đầu tiên trong lịch sử Thiên Chúa giáo ở Philippines cho quần chúng nơi đây [5;83].
Điều này báo hiệu cho một sự kiện đặc biệt sắp diễn ra trên quần đảo vùng Đông Ấn
này - sự xâm nhập của Thiên Chúa giáo cùng với sự cai trị của thực dân Tây Ban Nha.
Sau gần một thế kỷ kể từ khi người Tây Ban Nha mang Thiên Chúa giáo vào quần đảo,
hầu hết các vùng đồng bằng, trung du ở Philippines đã bị Thiên Chúa giáo hóa sau các
cuộc nổi loạn với quy mô nhỏ tại nhiều nơi khác nhau. Trong thời gian đó, người Tây
Ban Nha đã sử dụng nhiều chính sách cai trị để hướng người bản địa theo tôn giáo của
mình. Các tu sỹ đã thực hiện thánh lễ rửa tội cho một lượng lớn người dân cùng một lúc
để dễ dàng hướng tất cả theo Thiên Chúa giáo. Điều này sẽ không dễ dàng thực hiện
được nếu người dân nơi đây phân biệt được những nét tương đồng giữa thánh lễ rửa tội
với nghi lễ chữa bệnh bằng nước thánh của mình - một biểu tượng rất đặc trưng của cư
dân trong khu vực. Một chính sách quan trọng nữa mà các linh mục truyền giáo thực
hiện để hướng người dân bản địa theo tôn giáo của họ là tạo ra sự thích ứng và hòa hợp
giữa Thiên Chúa giáo với hoàn cảnh địa phương. Trong quá trình truyền đạo, các giáo
sỹ đã pha trộn những nghi thức thực hành tôn giáo Thiên Chúa với tín ngưỡng bản địa
64
nhằm thu hút sự tham gia của người dân. Đồng thời, họ giới thiệu những nét văn hóa
Thiên Chúa giáo ở phương Tây nhưng rất hài hòa với văn hóa bản địa.
Thuộc không gian xã hội Đông Nam Á, người dân Philippines đã rất quen thuộc
với nền nông nghiệp lúa nước, song song với nó là những hoạt động tín ngưỡng liên
quan đến nông nghiệp. Những phong tục, tập quán, quy tắc ứng xử, cách sống định cư
theo lối phương Đông đã ăn sâu vào tâm thức của người dân nơi đây. Vì vậy, họ mặc
nhiên hoàn toàn xa lạ và khó thích nghi với nền văn hóa mà thực dân Tây Ban Nha
mang vào, nền văn hóa ruộng khô du mục. Sự du nhập một tôn giáo độc thần như Thiên
Chúa giáo đã làm xáo trộn tín ngưỡng linh vật giáo lâu đời của người dân bản xứ nơi
đây và do đó, trong thời gian đầu, người Philippines đã phản kháng rất mạnh mẽ nhằm
loại trừ một thứ xấu xa, tội đồ đang phá vỡ những quy tắc thần thánh từ xưa đến nay họ
vẫn thực hiện [6]. Bên cạnh đó, sự tồn tại của Thiên Chúa giáo và chính sách truyền
giáo của thực dân Tây Ban Nha khiến người dân cảm thấy có tội với thần linh khi họ
không thể thực hiện những nghĩa vụ nông nghiệp thường niên đối với những thần linh
của họ và cũng không thể gắn kết với mảnh đất, cây trồng, con vật mà thần linh đã ban
tặng. Người dân nơi đây nhận thấy thần linh của họ bị xúc phạm nghiêm trọng bởi lẽ
cách thức thực hành tôn giáo của họ khác hoàn toàn so với những gì mà những giáo sỹ
phương Tây truyền bá trên lãnh thổ của họ. Chính vì vậy, họ đã chống trả quyết liệt quá
trình truyền giáo của những giáo sỹ Tây Ban Nha. Họ từ chối tiếp nhận những lối hành
xử tôn giáo mới, cũng như xua đuổi thậm chí giết chết những nhà truyền giáo, trong đó
việc Magellan và nhiều tuỳ tùng của ông bị giết trên đảo Mactan vào tháng 7 năm 1521
là một sự kiện điển hình [7; 72]. Mặc dù đã thực hiện nhiều chính sách khôn ngoan và
đầy bạo lực, thực dân Tây Ban Nha phải mất rất nhiều thời gian để làm cho người dân
địa phương nắm bắt được những khái niệm cơ bản của Thiên Chúa giáo. Qua thời gian,
người dân Philippines đã quen với sự có mặt của những giáo sỹ phương Tây và tôn giáo
mới mà họ mang lại. Với chiêu bài xoa dịu và hòa trộn phong tục của những giáo sỹ,
người dân đã bị lầm tưởng về mục đích của những nghi lễ sùng bái mới nhưng chính
sách đó hoàn toàn không thể thay đổi lối sống bản địa của người dân như những nhà
truyền giáo mong muốn. Bí tích rửa tội của Thiên Chúa giáo thu hút nhiều người tham
gia vì họ tin rằng nó sẽ chữa khỏi bệnh tật, mang lại sức khoẻ cho bản thân và gần gũi
với thần nước. Giải tội là bí tích xưng tội mà mỗi người phải tiến hành mỗi năm một lần.
Điều này đã đánh vào tâm lý của người dân nơi đây về những tội lỗi đối với những thần
linh mà họ nghĩ là đã mắc phải, nên họ dễ dàng tuân thủ những hình thức sám hối từ các
tu sỹ Thiên Chúa giáo mang lại. Đầu tiên, họ cảm thấy sợ hãi về những nội dung mà các
giáo sỹ truyền dạy, nhưng sau đó họ làm quen chúng và sử dụng chúng khá trôi chảy khi
thực hiện nghi thức sám hối đối với thần linh về những việc họ đã sai trái trong suốt
năm qua. Các tu sỹ phương Tây đã tìm cách loại dần những hoạt động mang tính tà giáo
65
ra khỏi tư tưởng của người dân bản xứ, đồng thời hướng họ đi theo con đường đúng đắn
của Thiên Chúa. Tuy nhiên, khi Thiên Chúa giáo đã đi sâu hơn vào đời sống người dân,
khi các nghi lễ Thiên Chúa giáo khá phổ biến trong hoạt động thờ cúng, sùng bái thì
những hình thức thực hành tín ngưỡng truyền thống vẫn còn tồn tại bằng cách hòa trộn
vào những nghi lễ mới nhằm mục đích vừa giữ được bản sắc của mình vừa tiếp thu văn
hóa mới cũng như chống lại sự đàn áp của thực dân Tây Ban Nha.
Trong gần một thế kỷ, nhiều vùng duyên hải từ vùng Mindanao, Visayas cho tới
vùng Luzon gần như đã bị Thiên Chúa giáo hóa và trở thành thần dân của Giáo hoàng
[2; 44]. Tuy nhiên, trong tâm thức của người dân bản xứ, những lề thói cũ xưa, những
nét đồng nhất của cư dân châu Á gió mùa vẫn còn tồn tại. Họ thực hiện cách thức sinh
hoạt đời sống của mình bằng hình thức của Thiên Chúa giáo nhưng nội dung bên trong
của nó vẫn là một Philippines của Đông Nam Á. Người Tây Ban Nha có thể đã thành
công trong việc truyền bá Thiên Chúa giáo, nhưng sẽ không chính xác nếu nói rằng
người dân bản địa hoàn toàn chấp nhận một tôn giáo nước ngoài thông qua việc thực
hiện các nghi lễ Thiên Chúa cũng như tinh thần sùng bái linh vật giáo đã ngấm vào máu
của họ. Thiên Chúa giáo khi đi vào trong đời sống của người dân Philippines đã được
con người nơi đây nhào nặn, hòa quyện với đa thần giáo tạo thành một sản phẩm Thiên
Chúa giáo mới dân dã mà đặc biệt. Đó là một sự pha trộn giữa tín ngưỡng dân gian vạn
vật hữu linh với đạo Thiên Chúa trong đó đạo Thiên Chúa là biểu hiện bên ngoài của
những hoạt động tâm linh của người dân. Việc kết hợp này là điều hiển nhiên trong cuộc
sống hàng ngày của người Philippines bởi lẽ những tư duy tâm linh lâu nay cùng với
điều kiện sống, điều kiện thực hành nghi lễ của họ rất khắt khe trong khi họ không thể
từ bỏ sự tôn kính đối với các vị thần đã che chở cho họ bấy lâu nay. Khi bạo lực thực
dân không còn ảnh hưởng đến ý thức sùng đạo của người dân, cũng là khi tín ngưỡng
của người Philippines đã bị Thiên Chúa giáo hóa, nhiều nhà thờ được người dân xây
dựng để thể hiện sự tôn kính Đức Chúa thay vì trước kia họ thờ cúng thần linh của họ ở
những thánh địa trong tự nhiên. Những công trình mà người Philippines xây nên tuy bề
ngoài mang dáng vẻ là những nhà thờ Thiên Chúa giáo nhưng lại được xây dựng trên
nền tảng của những đền thờ ngoại giáo và vẫn còn được sử dụng cho mục đích tâm linh
đối với linh vật giáo.
Khi đã là tín đồ Thiên Chúa giáo, người Philippines ngoài việc thường xuyên
tham dự các buổi Thánh lễ tại nhà thờ và gửi gắm niềm tin ở Thiên Chúa, họ còn thực
hiện các hoạt động tín ngưỡng vạn vật hữu linh. Họ thường mang trong mình một bùa
hộ mạng được làm từ răng cá sấu, vỏ cây và lông heo kềm với một tấm kim loại khắc
hình một vị thánh để xua đuổi ma quỷ và được nhiều may mắn trong kinh doanh [1; 96].
Nhiều bộ tộc cho đến ngày nay vẫn thực hành niềm tin vào những linh vật để chữa bệnh
khi ở địa phương có ai đó bị bệnh, để tránh tà ma, thậm chí còn thực hiện những lễ tế
66
trong rừng sâu trong khi vị thần linh mà họ cúng tế là Đức Chúa Hài đồng của Thiên
Chúa giáo. Người dân nơi đây từ chỗ cưỡng ép tiếp nhận, họ đã khôn ngoan gìn giữ văn
hóa nguồn cội của mình bằng cách tiếp nhận cái mới về hình thức và thực hiện cái mới
đó trên nền tảng của cái cũ. Đó là việc thực hiện sùng bái tín ngưỡng dân gian trên hình
thức các nghi lễ của Thiên Chúa giáo. Từ đó, qua thời gian, tín ngưỡng dân gian và đạo
Thiên Chúa xen lẫn vào nhau một cách hợp lý và hài hòa đến khó tin. Do đó, chẳng có
gì kỳ lạ khi tìm thấy những yếu tố Thiên Chúa giáo trong những thứ vốn được coi là
thuộc về tìn ngưỡng tà giáo, hay những vị thánh của Đức Jesus lại là những vị đỡ đầu
của người dân trong các hoạt động nông nghiệp, trong những chuyến đi biển. Trong tâm
thức của mình, người dân không hề nghĩ rằng họ đã dần quên đi các vị thần mà tổ tiên
của họ đã thờ cúng trước đây, và họ cũng không hề biết các vị thánh trong Thiên Chúa
giáo mà theo lời các giáo sỹ là sẽ cứu độ, bảo vệ cho con người là những vị khách xa lạ
trong tín ngưỡng cổ truyền của họ. Những thế hệ người Philippines đi trước tiếp nhận
tôn giáo mới trong sự trói buộc để rồi những yếu tố ngoại lai đó dần dần thấm vào máu
của con người thế hệ sau khiến cho những yếu tố của đạo Thiên Chúa tồn tại trong cuộc
sống của họ như một lẽ tự nhiên và không phản kháng. Cũng như những gì mà người
Philippines tiền Tây Ban Nha đã cầu xin các thần linh của họ, con cháu sau này của họ
cũng ước nguyện cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, kiếm được vợ chồng, con
cháu đầy đủ và những nhu cầu tâm linh khác nhưng không phải từ những vị thần bản xứ
mà từ các vị thánh đến từ phương Tây xa xôi.
Sự sùng bái Chúa Hài đồng là nét nổi bật trong tín ngưỡng dân gian của người
Philippines. Người dân thờ Chúa bên cạnh bàn thờ tổ tiên như những người Việt thờ
cúng Đức Phật vậy. “Đức Chúa được tắm, được cho ăn, được mặc những bộ quần áo
sang trọng thêu kim tuyến, và được đối xử như một vị hoàng tử tí hon đến thăm nhà.”
[1; 87]. Đối với những con chiên của Thiên Chúa giáo, Đức chúa là biểu hiện của sự
cứu rỗi những tội lỗi mà họ mắc phải để được lên thiên đường sau ngày phán xét, còn
đối với những tín đồ tín ngưỡng dân gian ở Philippines, hình ảnh của Đức Chúa là biểu
hiện của vui vẻ, sung túc và may mắn của mỗi gia đình. Hình tượng Đức mẹ Mary ở
đây không còn là biểu tượng riêng và nguyên bản của Thiên Chúa giáo nữa mà là biểu
tượng chung của những nữ thần trong đời sống tâm linh của con người nơi đây. Không
giống như ở Thiên Chúa giáo ở Tây Ban Nha cũng như ở các nước phương Tây, Đức
Mẹ trên quần đảo này phải đảm đương nhiều nhiệm vụ khác nhau trong mọi khía cạnh
của cuộc sống. Trong những khía cạnh đó, Đức Mẹ sẽ hiện thân ra nhiều phiên bản khác
nhau để có thể giúp đỡ con người trong những chuyến đi xa, trong đấu tranh, trong nông
nghiệp và đặc biệt là trong mùa màng và sự phát triển của muôn loài. Như vậy, sự sùng
bái Đức Mẹ Mary cũng giống như đạo thờ Mẫu của người Philippines nói riêng và các
cư dân Đông Nam Á nói chung. Với đạo Mẫu Mary, người dân Philippines được che
67
chở, bảo vệ trong vòng tay của Đức Mẹ cao cả. Thiên Chúa giáo đã trà trộn vào tín
ngưỡng phồn thực của người dân bản xứ thông qua hình ảnh Đức mẹ Mary với ý nghĩa
mang lại sự sinh sôi, giàu có cho người dân. Tuy xuất phát từ hai nguồn gốc tôn giáo
khác nhau, nhưng nhiều tình tiết của Thiên Chúa giáo và Vật linh giáo cứ hòa trộn vào
nhau, biện chứng cho nhau và sự tương hỗ đó thật hợp lý.
Các lễ hội tôn giáo hàng năm của những tín đồ Thiên Chúa trên khắp quần đảo
vẫn thể hiện đậm nét những yếu tố bản địa đã tồn tại từ rất lâu đời. Mùa Chay là mùa lễ
hội chứa đựng nhiều nghi lễ Thiên Chúa giáo thực thụ nhưng trong quá trình thực hiện
lại tràn ngập các nghi lễ dân gian bản xứ hòa với niềm tin vào Thiên Chúa. Đây là một
mùa lễ hội tôn sùng Đức Jesus của những tín đồ Thiên Chúa giáo nhưng dường như lại
là một cách tế lễ của người Philippines tiền Tây Ban Nha theo tín ngưỡng bản địa.
Jerusalem, sự hy sinh và phục sinh của Đức Jesus chỉ là những gì mà những giáo sỹ
phương Tây đã mang vào đời sống tôn giáo của người dân nơi đây. Những dải lá dừa
dài đan nối vào nhau là biểu tượng cho Chúa Jesus thực ra là một cách hành lễ của
những tín đồ linh vật giáo. Sự sám hối theo kiểu hành xác của những tín đồ trong suốt
mùa lễ hội hoàn toàn không xuất phát từ Thiên Chúa giáo mà từ tín ngưỡng tà giáo của
người dân bản xứ. Lễ Phục sinh được coi là dịp để bày tỏ lòng biết ơn, sự tôn kính và sự
khuất phục hoàn toàn cả về thể xác lẫn tâm hồn của con người với Đức Chúa trời. Mỗi
năm một lần vào khoảng thời gian từ tháng Ba đến tháng Tư, những người theo đạo
Thiên Chúa đều tổ chức sự kiện quan trọng này. Khác với lễ Phục sinh ở các quốc gia,
lễ Phục sinh ở nhiều nơi trên quần đảo Philippines diễn ra nhiều hoạt động kỷ niệm
khiếp sợ, mang bản tính cuồng tín bản địa hơn là sự thánh thiện trong ngày lễ thánh của
Thiên Chúa giáo. Nhiều người tự nguyện đóng đinh lên cây thánh giá và tái hiện lại
những cực hình mà Chúa Jesus từng phải trải qua để thể hiện lòng trung thành của họ và
cầu mong sức khỏe, an lành và những điều may mắn cho gia đình và người thân.
Trong nhiều lễ hội tôn giáo dân gian của những tín đồ Thiên Chúa giáo ở
Philippines, người ta nhận thấy có sự tồn tại mạnh mẽ của yếu tố tự nhiên thần giáo.
Mang dáng vẻ của một lễ tạ ơn, lễ hội bùn (lễ Taong Putik) không chỉ là một lễ hội tôn
giáo mà còn là sự thể hiện tín ngưỡng của những người Philippines bản xứ tiền Tây Ban
Nha. Vị trí của thánh John trong ý niệm sùng bái của người dân cũng giống như các
thần nông nghiệp mà tổ tiên của họ trước đây tôn thờ. Niềm tin của con người trong lễ
hội Thiên Chúa này rất gần gũi với niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên và dường như
thánh John và các vị thần nông nghiệp là một, có cùng chức năng, cùng sự tôn kính chỉ
khác ở cái tên gọi mà thôi. Lễ hội Ati-Atihan là lễ hội xuân được ấn định vào ngày 9
tháng Giêng Âm lịch, là ngày tốt nhất trong một năm theo quan niệm của người dân tỉnh
Aklan, Philippines. Trong lễ hội này, người ta rước tượng và vinh danh thánh Santo
Nino tức Đức Chúa Hài đồng với tinh thần là ngày mừng xuân, tưởng nhớ các vị thánh,
68
ngày hội kết bạn, trai gái tìm hiểu nhau. Lễ hội xuất hiện trước khi Thiên Chúa giáo
xâm nhập vào Philippines hơn hai thế kỷ và đã được chế biến lại bởi các nhà truyền
giáo và trở thành một món ăn tinh thần trong văn hóa lễ hội Thiên Chúa giáo. Họ đã
thay thế các thần linh trong tự nhiên bằng Đức Chúa Hài đồng nhưng ý nghĩa của lễ hội
thì vẫn không có gì thay đổi, đó là lòng biết ơn của con người đến đối tượng mà họ sùng
bái vì đã bảo trợ và mang hạnh phúc đến cho họ. Lễ hội thánh đỡ đầu người Philippines
gọi là Barrio Fiesta để tưởng nhớ tới các vị thánh bảo trợ cho các thành phố, làng xã và
các vùng dân cư vì đã cho người dân một mùa vụ bội thu. Để thực hiện buổi lễ, người
dân làm những cái bánh quế bằng bột gạo đầy màu sắc gọi là kiping rồi treo những cái
bánh đó cùng với trái cây, rau củ và lúa trên những cửa sổ và cửa chính để mời Thánh
đến thưởng thức [1; 144]. Lễ hội Thánh đỡ đầu là một lễ hội thường niên không thể
thiếu trong đời sống tín ngưỡng của người dân Philippines. Người dân nơi đây từ xưa đã
tổ chức những buổi rước thánh thần sau những vụ mùa để tỏ lòng biết ơn các vị thần đã
bảo trợ cho mùa màng, cho cuộc sống của họ trong năm qua. Đây là một lễ hội đã có từ
lâu đời, trước cả sự xâm nhập của thực dân Tây Ban Nha, tuy nhiên nó đã bị Thiên
Chúa giáo hóa và sớm trở thành một lễ hội đặc trưng của những tín đồ Thiên Chúa. Xét
trên tổng thể, nó là một lễ hội Thiên Chúa giáo bởi chủ thể của lễ hội là các vị thánh
Thiên Chúa và người thực hiện lễ hội là những đàn chiên của Đức Jesus, nhưng bản
chất của các lễ hội đó hoàn toàn thuộc về tín ngưỡng địa phương với những nghi thức
và quan niệm bản địa của chúng, quan niệm phồn thực với ước muốn vật nuôi sinh sôi,
hoa màu tươi tốt.
Là một đất nước với hầu hết dân chúng là tín đồ Thiên Chúa giáo, văn hóa
Philippines in đậm nét văn hóa phương Tây trong cái nôi của văn hóa Đông Nam Á.
Trong quá trình du nhập một nền văn hóa mới, người dân nơi đây đã nội địa hóa và làm
chủ chúng trong sự pha trộn với lối sống bản địa để tạo ra những di sản văn hóa quý giá
mang tên Philippines. Thiên Chúa giáo xâm nhập vào Philippines khi mà văn hóa của
đất nước này đang trong quá trình định hình những bản sắc riêng với sự du nhập của
đạo Hồi và sự có mặt của văn hóa Mã Lai và Trung Hoa. Yếu tố Trung Hoa quá yếu ớt
và chưa có vị trí chủ đạo trong nền văn hóa địa phương trong khi những yếu tố Hồi giáo
còn chưa ổn định đang trên con đường bản địa hóa và có thể sẽ trở thành một tôn giáo
chủ đạo ở quần đảo như quốc gia láng giềng Brunei và Indonesia nếu Thiên Chúa giáo
có mặt ở đây muộn hơn một chút. Mặt khác, chính những yếu tố Thiên Chúa giáo đã
làm lu mờ đi những nét bản địa trong đời sống văn hóa của con người nơi đây. Với
những chiến lược chuyển đổi và truyền bá mang tính bạo lực của thực dân Tây Ban Nha,
văn hóa Thiên Chúa giáo nhanh chóng đi sâu vào đời sống người dân địa phương với
những nghi thức thực hiện tín ngưỡng khác lạ. Sự pha trộn và hòa nhập một tôn giáo
mới mang bản chất hoàn toàn khác này qua thời gian đã làm cho người Philippines và
69
nền văn hóa của họ không còn đậm chất phương Đông như những quốc gia láng giềng
khác mà ngày càng bị phương Tây hóa. Những phong tục bản địa và những yếu tố
Thiên Chúa giáo hòa trộn vào nhau trong môi trường Thiên Chúa giáo làm cho văn hóa
bản địa không còn là nét nổi bật của nền văn hóa.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, Thiên Chúa giáo đã có chỗ đứng vững chắc
trong đời sống văn hóa Philippines. Là quốc gia duy nhất ở Đông Nam Á lấy Thiên
Chúa giáo làm quốc đạo, những hoạt động văn hóa tín ngưỡng của người dân nơi đây
mang đậm chất Thiên Chúa giáo nhưng sẽ “không chính xác nếu nói rằng người
Philippines chấp nhận toàn bộ cấu trúc Thiên Chúa giáo châu Âu” [1;86]. Ở đây có
một sự pha trộn rất hoàn hảo và đầy tính tự nhiên giữa Thiên Chúa giáo và những tín
ngưỡng bản địa. Thiên Chúa giáo đã mang lại cho người dân Philippines nhiều sự biến
đổi lớn, sớm trở thành nhân tố chủ đạo trong bản sắc văn hóa Philippines đồng thời
cũng làm cho văn hóa nơi đây trở nên khác biệt trong bối cảnh chung của văn hóa khu
vực. Tuy nhiên, được phát triển trên cơ tầng của một Đông Nam Á gió mùa, văn hóa
Philippines vẫn chứa đựng những yếu tố bản địa mang tính bất biến cho dù văn hóa
phương Tây đã ngấm vào máu người dân quần đảo trong hơn bốn thế kỷ. Trong đời
sống văn hóa của mình, người Philippines vẫn giữ lại nhiều phong tục bản địa cho dù nó
bị bao phủ bởi lớp vẹc ni Thiên Chúa giáo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trịnh Huy Hóa (biên dịch), Đối thoại với các nền văn hóa: Philippines, Nxb. Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh, 2002.
2. Gerald H. Anderson (edit) and contributors, Studies in Philippine Church history,
Cornell University Press, New York, USA, 1969.
3. Benitez Conrado, History of the Philippines, Manila Ginn and Company, Philippines, 1954.
4. Gregorio F. Zaider - Sonia M. Zaider, Philippine history and Government, All Nation
Publishing Co. Inc, Quezon city, Philippines, 2004.
5. Sonia M. Zaider, The Philippines a unique nation, All Nation Publishing Co. Inc,
Quezon city, Philippines, 1999.
6. Susan Russell, Christianity in the Philippines, Department of Anthropology, University of
Illinois, USA, available on
1999.
7. Teodoro A. Agoncillo, History of the Filipino people, Garotech Publishing, Quezon city,
Philippines, 2006.
70
INDIGENOUS FACTORS IN CHRISTIAN CULTURE OF THE PHILIPPINES
Nguyen Dinh Khuong Duy
College of Sciences, Hue University
Abstract. Christian culture is a remarkable factor of the Philippines. Within over
400 years of existence, Christianity has had great effects on the country’s society
while indigenous culture still keeps its background. During the performance of the
two factors – internal and external cultures, there is a spectacular mixture to create
a diversity of culture which makes the Philippines become different from the other
Southeast Asian countries though still having a lot in common. Although
dominated by the Spanish and then the American for centuries, indigenous culture
has constantly been in its own chracteristics as a clear evidence to confirm that the
Philippines’ culture belongs to Southeast Asia.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 72_0216_6885_2117954.pdf