Ý thức đối thoại của Nguyễn Ngọc Tư với văn học truyền thống thông qua những nhân vật nữ trong tập truyện Không ai qua sông - Nguyễn Thị Thắm

Tài liệu Ý thức đối thoại của Nguyễn Ngọc Tư với văn học truyền thống thông qua những nhân vật nữ trong tập truyện Không ai qua sông - Nguyễn Thị Thắm: Tập 183, số 07, 2018 Tập 183, Số 07, 2018 Tạp chí Khoa học và Công nghệ CHUYấN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ Mục lục Trang Hoàng Thị Phương Nga - Mụ hỡnh du lịch văn học “Làng Vũ Đại ngày ấy” 3 Phạm Thị Thu Hoài, Trần Thị Thanh - Tiếng lúng trong truyện về đề tài giỏo dục của Văn Thành Lờ 9 Ngụ Thị Thanh Nga, Phạm Thị Hồng Võn - Vài nột về cỏc phương thức thể hiện tỡnh vợ chồng trong văn học trung đại Việt Nam 15 Nguyễn Thị Thắm, Nguyễn Minh Sơn - í thức đối thoại của Nguyễn Ngọc Tư với văn học truyền thống thụng qua những nhõn vật nữ trong tập truyện Khụng ai qua sụng 21 Đặng Thị Thựy, Nguyễn Diệu Thương - Lụ gớch của cỏc hiện tượng “phi lụ gớch” trong ca dao, tục ngữ người Việt 27 Đinh Thị Giang - Những nhõn tố ảnh hưởng đến lối sống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay 33 Nguyễn Diệu Thương, Nguyễn Thị Lan Hương - Phương thức tạo hàm ý trong tiểu phẩm trào phỳng 39 Nguyễn Thu Quỳnh, Vỡ Thị Hiền - Từ ngữ chỉ đồ gia dụng trong tiếng Thỏi ở ...

pdf11 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 502 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ý thức đối thoại của Nguyễn Ngọc Tư với văn học truyền thống thông qua những nhân vật nữ trong tập truyện Không ai qua sông - Nguyễn Thị Thắm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tập 183, số 07, 2018 Tập 183, Số 07, 2018 T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ Môc lôc Trang Hoàng Thị Phương Nga - Mô hình du lịch văn học “Làng Vũ Đại ngày ấy” 3 Phạm Thị Thu Hoài, Trần Thị Thanh - Tiếng lóng trong truyện về đề tài giáo dục của Văn Thành Lê 9 Ngô Thị Thanh Nga, Phạm Thị Hồng Vân - Vài nét về các phương thức thể hiện tình vợ chồng trong văn học trung đại Việt Nam 15 Nguyễn Thị Thắm, Nguyễn Minh Sơn - Ý thức đối thoại của Nguyễn Ngọc Tư với văn học truyền thống thông qua những nhân vật nữ trong tập truyện Không ai qua sông 21 Đặng Thị Thùy, Nguyễn Diệu Thương - Lô gích của các hiện tượng “phi lô gích” trong ca dao, tục ngữ người Việt 27 Đinh Thị Giang - Những nhân tố ảnh hưởng đến lối sống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay 33 Nguyễn Diệu Thương, Nguyễn Thị Lan Hương - Phương thức tạo hàm ý trong tiểu phẩm trào phúng 39 Nguyễn Thu Quỳnh, Vì Thị Hiền - Từ ngữ chỉ đồ gia dụng trong tiếng Thái ở tỉnh Điện Biên 45 Nguyễn Thị Thu Oanh, Hoàng Thị Mỹ Hạnh - Vị thế, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng Sản Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 và một số bài học kinh nghiệm 51 Đỗ Hằng Nga, Phạm Quốc Tuấn - Việc thu thuế trong làng xã qua tư liệu hương ước cải lương tỉnh Thái Nguyên 57 Lê Văn Hiếu - Hiệu quả hoạt động của mô hình “ban tuyên vận” xã, phường, thị trấn và “tổ tuyên vận” thôn, bản, tổ dân phố ở tỉnh Lào Cai trong giai đoạn hiện nay 63 Thái Hữu Linh, Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Thanh Hà - Vai trò của hậu phương Bắc Thái trong cuộc tổng tiến công Mậu Thân năm 1968 69 Phạm Anh Nguyên - Sức hấp dẫn trong Hài đàm của Phan Khôi 73 Nguyễn Thị Hường, Nguyễn Thị Mão, Nguyễn Tuấn Anh - Nâng cao hiệu quả tổ chức các hoạt động ngoại khoá trong dạy học môn giáo dục công dân ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Thái Nguyên hiện nay 79 Nguyễn Văn Dũng, Đào Ngọc Anh - Thực trạng thể chất của sinh viên không chuyên thể dục thể thao Trường Đại hoc Sư phạm – Đại học Thái Nguyên 85 Trần Bảo Ngọc, Lê Ngọc Uyển, Bùi Thanh Thủy và cs - Thực trạng xếp loại tốt nghiệp sinh viên diện cử tuyển ở trường Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên giai đoạn 2013-2017 91 Nguyễn Thúc Cảnh - Nghiên cứu xây dựng hệ thống bài tập có nội dung thực tế trong giảng dạy cơ học cho học sinh trung học phổ thông 97 Hà Thị Kim Linh, Chu Thị Bích Huệ - Giáo dục kiến thức pháp luật cho phụ nữ vùng dân tộc thiểu số ở huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên 105 Nguyễn Thị Thanh Hồng, Nguyễn Thị Khánh Ly, Vũ Kiều Hạnh - Tăng cường sự tham gia của sinh viên vào các hoạt động học tiếng Anh trong lớp học đông nhiều trình độ của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên 111 Phạm Thị Huyền, Vũ Thị Thủy - Vận dụng phong cách nêu gương theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng phong cách làm việc đối với cán bộ chủ chốt ở nước ta hiện nay 117 Đàm Quang Hưng - Thiết kế bài học khoa học lớp 4, lớp 5 theo hướng tìm tòi thực nghiệm 123 Hoàng Thị Thu Hoài - Những khó khăn trong việc dạy và học từ vựng tiếng Anh chuyên cho sinh viên chuyên ngành điều dưỡng, trường Cao đẳng Y tế Thái Nguyên và một số giải pháp đề xuất 129 Journal of Science and Technology 183(07) N¨m 2018 Nguyễn Lan Hương, Văn Thị Quỳnh Hoa - Những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng nói tiếng Anh của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên 135 Vũ Kiều Hạnh - Những yếu tố quyết định đến mức độ đọc hiểu của sinh viên năm thứ hai tại trường Đại học Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên 141 Nguyễn Thị Quế, Hoàng Thị Nhung - Hỏi đúng để tự học và học tập cộng tác thành công – hướng tới xây dựng người học ngoại ngữ độc lập trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế 147 Ngô Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Hoài Thu - Ứng dụng các phương pháp giảng dạy tích cực nhằm nâng cao chất lượng dạy – học tiếng Việt cho học viên quốc tế tại Học viện Kỹ thuật Quân sự 153 Dương Văn Tân - Đánh giá hiệu quả áp dụng trò chơi vận động trong phát triển thể lực chung cho sinh viên trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp – Đại học Thái Nguyên 159 Bùi Thị Hương Giang - Nâng cao năng lực giao tiếp giao văn hóa trong dạy và học ngoại ngữ 165 Trần Hoàng Tinh, Nông La Duy, Phạm Văn Tuân - Xây dựng trung đội tự quản trong quản lý giáo dục tính kỷ luật cho sinh viên tại trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh trong giai đoạn hiện nay 171 Trần Thị Yến, Khổng Thị Thanh Huyền - Sử dụng hình thức đọc chuyên sâu để nâng cao khả năng viết học thuật cho sinh viên chuyên ngành tiếng Anh 177 Đỗ Thị Hồng Hạnh, Hoàng Mai Phương - Đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn 183 Trần Thùy Linh, Trần Lương Đức, Nguyễn Thị Thùy Trang - Cách tiếp cận của pháp luật cạnh tranh liên minh châu Âu về hành vi lạm dụng mang tính trục lợi 189 Nguyễn Thị Thanh Hà, Phạm Việt Hương - Xây dựng bộ tiêu chí và chỉ số kinh tế phù hợp để đánh giá quản lý rừng bền vững ở huyện Định Hóa 195 Đinh Thị Hoài - Truyền thông marketing sản phẩm và dịch vụ thông tin - thư viện tại Trung tâm Học liệu Đại học Thái Nguyên 201 Nguyễn Thị Thanh Xuân - Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng sử dụng dịch vụ khách sạn tại Thanh Hóa, Việt Nam 207 Dương Thị Tình - Đóng góp của xuất khẩu hàng hóa tới tăng trưởng kinh tế của tỉnh Yên Bái 213 Lê Minh Hải, Trần Viết Khanh - Phân tích tổ chức không gian lãnh thổ du lịch tỉnh Thái Nguyên 219 Hà Văn Vương - Vận dụng lý thuyết Ecgônômi trong tổ chức môi trường làm việc tại văn phòng chi nhánh may Sông Công II - Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG 227 Mai Anh Linh, Nguyễn Thị Minh Anh - Đánh giá chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng: nghiên cứu thực nghiệm tại siêu thị Lan Chi, Thái Nguyên 233 Đinh Hồng Linh, Nguyễn Thu Nga, Nguyễn Thu Hằng - Sử dụng hàm Loga siêu việt để đánh giá hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng Việt Nam 239 Nguyễn Thị Thắm và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 21 - 26 21 Ý THỨC ĐỐI THOẠI CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ VỚI VĂN HỌC TRUYỀN THỐNG THÔNG QUA NHỮNG NHÂN VẬT NỮ TRONG TẬP TRUYỆN KHÔNG AI QUA SÔNG Nguyễn Thị Thắm1*, Nguyễn Minh Sơn2 1Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên, 2Đại học Thái Nguyên TÓM TẮT Nguyễn Ngọc Tư là một trong những nhà văn của nền văn học đương đại Việt Nam. Tập truyện Không ai qua sông của chị có nhiều nhân vật nữ là nhân vật chính. Họ đều là những người phụ nữ bất hạnh. Nỗi bất hạnh và cách phản ứng của các nhân vật nữ được nhà văn miêu tả rất giống với những nhân vật nữ từng xuất hiện trong văn học truyền thống. Tuy nhiên, nếu đọc tập truyện theo cách đọc văn học hiện đại, chúng ta sẽ thấy được ý thức đối thoại với văn học truyền thống của Nguyễn Ngọc Tư thông qua những nhân vật nữ trong tập truyện này. Từ khóa: Nguyễn Ngọc Tư, truyện ngắn, phụ nữ, văn học truyền thống, văn học hiện đại. ĐẶT VẤN ĐỀ * Trên văn đàn văn học Việt Nam, Nguyễn Ngọc Tư là một trong những cây bút được bạn đọc và giới nghiên cứu, phê bình đặc biệt quan tâm bởi tác phẩm của chị có nét độc đáo, khó lẫn. Trong các sáng tác của mình, Nguyễn Ngọc Tư đặc biệt quan tâm đến số phận bi kịch của người phụ nữ Việt Nam. Tập truyện Không ai qua sông là một trong những tập truyện chị thể hiện rõ mối quan tâm này bởi hầu hết các nhân vật chính trong mỗi truyện ngắn đều là nữ. Sau khi tập truyện ra mắt bạn đọc, các bài nghiên cứu về hiện thực được phản ánh, về sự ổn định trong văn phong của Nguyễn Ngọc Tư chứng tỏ theo giới nghiên cứu, phê bình, quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư về người phụ nữ hoàn toàn giống với những nhân vật nữ trong văn học truyền thống. Trong cuốn sách, Nhà xuất bản Trẻ giới thiệu: “Một xóm Nhơn Thành hư hư thực thực... người chết và người sống, bằng cách nào đó, sẽ song hành cùng nhau. Một xã hội thu nhỏ, với lòng tham, thù hận và sức phản kháng... Tất cả được kể bằng giọng điệu thản nhiên và bông lơn. Sự dữ dội của câu chuyện cứ tăng dần cho đến lúc người đọc khép sách lại” (bìa 4) [1]. My Lan nhận xét: “Thứ văn phong mượt mà, gieo rắc mùi vị phai tàn của chuyện kể đã * Tel: 0975191322; Email: ntsp2002@gmail.com qua. Từ đó nêu bật lên đức tính nổi bật không đâu có của người phụ nữ Việt Nam đi kèm dòng suy tư kỳ lạ. Biến cố đi ngang qua đời họ và để lại vết thương lòng không bao giờ lành lại” [2]. Còn Nguyễn Thanh cho rằng: “Tác phẩm của nhà văn mang tính hiện thực sâu sắc vì đã phản ánh được chân dung đích thực với tâm tư, nguyện vọng và tình cảm của lớp người lao động nghèo khó ở Đồng bằng sông Cửu Long, bằng một phong cách nghệ thuật tiêu biểu cho lối viết chơn chất mà cô đọng của những người cầm bút ở phương Nam...” [3]. Với tập truyện này, chúng tôi lại nghĩ khác. Cái nhìn về người phụ nữ của nhà văn vừa có điểm giống vừa có điểm khác với các tác phẩm văn học truyền thống. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Trong đời sống hàng ngày, đối thoại là sự trao đổi thông tin bằng ngôn ngữ của con người. Trong mỗi tác phẩm văn học thuộc loại tự sự hay kịch, ngôn ngữ đối thoại thường được hiểu là lời nói của các nhân vật xoay quanh một chủ đề nhất định. Còn theo lý thuyết liên văn bản, tính đối thoại là thuộc tính tất yếu của mọi hình thức ngôn từ. Và tác phẩm văn học là một trong những phương tiện hữu hiệu để nhà văn đối thoại với bạn đọc thông qua việc thể hiện một cách nhìn, một quan niệm mới về nhân sinh. Từ quan niệm trên về tính đối thoại và ý thức đối thoại, chúng tôi thấy thông qua điểm khác trong cái nhìn về nguyên Nguyễn Thị Thắm và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 21 - 26 22 nhân dẫn đến nỗi bất hạnh và quan niệm sai lầm về hạnh phúc của người phụ nữ, Nguyễn Ngọc Tư đã thể hiện ý thức đối thoại với bạn đọc nữ và văn học truyền thống trong tập truyện Không ai qua sông. Không ai qua sông là tập truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư cho ra mắt bạn đọc vào tháng 02 năm 2016. Tập truyện gồm 13 truyện ngắn trong đó chỉ có hai truyện ngắn nhân vật chính là đàn ông, những truyện ngắn còn lại nhân vật chính đều là phụ nữ. Với cái nhìn xót xa, thương cảm, Nguyễn Ngọc Tư đã phản ánh trong tác phẩm của mình đầy đủ mọi nỗi cay cực mà giới nữ có thể gặp phải trong cuộc đời. Đó là nỗi khổ cực âm thầm do thân phận mồ côi như Ngà trong Vực không đáy, thân phận con hoang như Thầm trong câu chuyện cùng tên, nỗi đau đeo đẳng suốt đời do bị làm nhục như Tím trong Nút áo, nỗi vất vả do chửa hoang như Miền trong Đi thật xa mới đến nhà bạn cũ, như Trầm trong Không ai qua sông, đó là nỗi bất hạnh do bị hủy hôn như Lê trong Dây diều, nỗi bẽ bàng có chồng hờ hững cũng như không như Ngò trong Mây mưa, Mười trong Nhổ quán, là nỗi đau cả thể xác lẫn tinh thần dẫn đến mất cả mạng sống như Nhí trong Lời yêu...Những nỗi khổ ấy được Nguyễn Ngọc Tư viết ra nhẹ hều nhưng chất chứa bao nỗi niềm vì tất cả những người phụ nữ trong tập truyện dường như không biết đến hạnh phúc. Nguyên nhân do đâu ? Về nguyên nhân khách quan, chúng ta nhận thấy trên thế giới từ khi chế độ Mẫu quyền chuyển sang chế độ Phụ quyền, người đàn ông dần được coi trọng và chiếm giữ vai trò độc tôn trong gia đình và xã hội. Ở phương Đông, nền văn hóa chủ yếu chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo. Người phụ nữ luôn phải tuân theo “Tam tòng” (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử), “Tứ đức” (công, dung, ngôn, hạnh). Ngày nay, ở nước ta, mặc dù người phụ nữ đã được coi trọng hơn, sự bất bình đẳng giới đang từng bước được xóa bỏ. Tuy nhiên, thói gia trưởng, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã ăn sâu bám rễ trở thành những định kiến không dễ gì xóa bỏ. Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: “Định kiến là những ý kiến, quan điểm đã được hình thành, trước khi nhận thức các dữ kiện có liên quan hoặc biết rõ những thông tin liên quan của một sự kiện cụ thể. Từ định kiến thường được sử dụng để miêu tả những nếp suy nghĩ, quan điểm thường không thuận lợi, đánh giá chủ quan đối với người hoặc một nhóm người, bởi vì giới tính, quan điểm chính trị, quan hệ xã hội, tuổi tác, tôn giáo, chủng tộc/dân tộc, ngôn ngữ, quốc tịch, hình dáng bên ngoài hay là đặc điểm cá nhân khác, từ đó dẫn đến việc phân biệt đối xử. Định kiến của một tập thể, một nhóm người, một xã hội, thường được gọi là định kiến xã hội” [4]. Định kiến xã hội có nhiều tác hại. Ðó là cho phép đàn ông đối xử tàn nhẫn với phụ nữ dẫn tới nạn “bạo hành gia đình” đang báo động hiện nay. Truyện ngắn Không ai qua sông phản ánh vấn vạn ấy thông qua việc miêu tả đoàn tuần hành vì phụ nữ của bà con miệt vườn với khẩu hiệu “Không nên đánh phụ nữ bằng một cành hoa”. “Cuộc đi bộ tháng Ba” này vì một chị vừa xuất viện, và vì những người đàn bà khác ở xứ Mù U. Bởi nơi đây có biết bao người phụ nữ bị chồng đánh. Căng thẳng nhất là vụ “người đàn bà bị chồng dùng đũa than nóng xiên qua mắt phải” [1, tr.21], bởi bị đánh hoài nên chị ta không có phản ứng tự vệ, không chạy trốn đòn roi như mọi khi nữa? Nhưng cuộc đi bộ này phải chăng thất bại ngay ở khẩu hiệu, bởi chính bọn trẻ còn nhận ra và thắc mắc: “Vậy đánh bằng cây củi có được không ta?” [1, tr.18]. Suy nghĩ của bọn trẻ nít đơn giản mà sao cũng thấm thía đến lạ! Những người trong cuộc đi cho có chứ không hẳn vì mục đích mà Hội phụ nữ muốn vận động. Đi tuần hành để tuyên truyền cho chị em và mọi người nắm được quyền bình đẳng của mình, nhưng chỉ bằng một “cuộc đi bộ” mà người trong cuộc còn không hiểu và không tin vào những điều mình đang làm thì làm sao có thể thay đổi được tư duy của mọi người? Thậm chí, để đi cho đỡ vướng, họ còn rủ nhau cuộn băng ngắn lại, rốt cuộc trên đó chỉ còn chữ “nên đánh phụ nữ” như cuộc đi bộ “xúi giục bạo hành”. Trên hết Nguyễn Thị Thắm và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 21 - 26 23 là thái độ của mọi người: Một thím chơi tứ sắc không thèm ngẩng lên nói: “mắc cười, bộ biểu tình thì không bị đánh nữa sao?” [1, tr.22]. Họ không tin là việc tuyên truyền, vận động có thể thay đổi được những gì đang diễn ra. Chính vì thế mà họ“nhìn đám người đi qua như một đám rước linh thiêng chẳng liên quan đến mình” [1, tr.22]. Như vậy, đối với những người dân nơi đây, bạo hành đã trở thành điều hiển nhiên, không gì có thể thay đổi được. Cùng với nạn “bạo hành”, định kiến còn biểu hiện ở tư tưởng của chính những người đàn bà. Trầm trong Không ai qua sông chửa hoang, người ta không quan tâm cha đứa bé là ai, mà chỉ quan tâm tới thái độ của Trầm với mọi người mà thôi trong khi, dân gian đã bênh vực những người phụ nữ “không chồng mà chửa”: “Không chồng mà chửa mới ngoan Có chồng mà chửa thế gian chuyện thường” (Ca dao) Ở thế kỷ XVIII, nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng đã lên tiếng bênh vực người phụ nữ với bài thơ Không chồng mà chửa. Ở đây, câu ca dao và bài thơ của Hồ Xuân Hương muốn nói đến ý thức, trách nhiệm của người đàn ông đối với người phụ nữ. “Cả nể cho nên hóa dở dang, Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng”. Vì “cả nể” nên chỉ mình người phụ nữ chịu “dở dang”, lỡ làng. Nhà thơ trách những kẻ đàn ông dám làm không dám chịu, cuối cùng, mượn ý của ca dao, Hồ Xuân Hương đã khẳng định: “Quản bao miệng thế lời chênh lệch Không có, nhưng mà có, mới ngoan” “Không có” chồng, “nhưng mà có” chửa “mới ngoan” cũng là lời thách thức dư luận, bảo vệ những người phụ nữ không may nhẹ dạ trao thân cho người. Nguyễn Ngọc Tư phản ánh những định kiến ấy vẫn còn tồn tại cho đến tận ngày nay. Nhà văn viết: “Trầm có sinh chục đứa con hoang nữa cũng chẳng sao, nhưng đi đường phải cúi gằm, cấm vừa đi vừa ca cùng con nít, mắt mũi tươi giòn làm bọn đàn bà khác hoang mang” [1, tr.21]. Người không chồng mà có con theo họ không được ngẩng mặt, không được “tươi giòn”. Tức là chính bản thân họ có sự phân biệt đối xử với những người cùng giới mình Định kiến cũng cho phép đàn ông coi thường, đối xử tệ với phụ nữ cả về thể xác và tinh thần như ở truyện Mưa mây. Chồng Ngò thích đi thì đi, thích về thì về, “chẳng ngoái nhìn, chẳng hứa hẹn hôm nào về lại, đi là đi một nước”; phóng xe máy “nẹt pô hung hăng”, “để lại sau nó là cơn vắng sâu hút, đến chóng mặt” [1, tr.88]. Thậm chí, Lì cũng không bao giờ cho vợ biết mình đang ở đâu, làm gì: “Nó (Lì) đang dựng trại vỗ béo bầy trâu ở đâu đó, mà nó không bao giờ nói trong những cuộc điện thoại thất thường” [1, tr.94]. Hay trong mối quan hệ giữa Vĩnh và Miền (Đi thật xa mới đến nhà bạn cũ), Vĩnh coi quan hệ yêu đương với một người con gái là niềm vui. Với Vĩnh, mối quan hệ của mình và Miền chỉ là vui chơi qua đường, không lấy gì làm sâu sắc “Chỉ là lơ đãng đi qua đời nhau, da diết gì đâu mà giữ lại luôn giọt máu, giỡn hoài” [1, tr.71]. Mà Vĩnh không biết hậu quả để lại là Miền phải đối mặt với tai tiếng của người đàn bà không chồng mà chửa, những vất vả của người mẹ đơn thân. Như vậy, Nguyễn Ngọc Tư cũng cho rằng định kiến tồn tại dai dẳng từ quá khứ là nguyên nhân quan trọng khiến đời sống của người phụ nữ trải đều toàn nỗi buồn khổ. Bên cạnh đó là những tác động tiêu cực của của quá trình đô thị hóa, trào lưu lấy chồng ngoại quốc thông qua môi giới, người dân vất vả lo kiếm sống, trẻ em không được tới trường, thông tin còn hạn chế Tất cả đều là nguyên nhân khách quan dẫn tới sự bất hạnh của người phụ nữ miệt vườn. Tuy nhiên, ngoài nguyên nhân khách quan, theo Nguyễn Ngọc Tư, nguyên nhân chủ quan - những quan niệm sống sai lầm, đặc biệt là quan niệm của họ về hạnh phúc, mới là yếu tố quyết định đẩy người phụ nữ vào tình cảnh bất hạnh, đau khổ. Nguyễn Thị Thắm và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 21 - 26 24 Trước hết, họ quan niệm hạnh phúc là được hi sinh, được sống vì người khác. Vì nghĩ rằng được hi sinh vì người khác, coi hạnh phúc của người khác là hạnh phúc của mình nên Miền (Đi thật xa mới tới nhà bạn cũ) lặng lẽ làm mẹ đơn thân, không một lời ràng buộc, trách hờn, không một lần tìm kiếm cha của đứa bé. Còn Nhí (Lời yêu) là người con gái dám hi sinh vì gia đình nên chấp nhận lấy chồng ngoại quốc với mong muốn có tiền giúp gia đình mình đỡ vất vả, thiếu thốn. Cách nhà văn miêu tả trong tác phẩm thể hiện rõ nét nỗi éo le mà Nhí phải gánh chịu: “Những buổi tối anh chồng tài tử xinê nồng rượu gạo trở về đôi lúc dịu dàng nựng nó bằng mấy cú thoi. Quê chồng mà Nhí gửi về qua những cuộc gọi không phân biệt được đâu là thực đâu là tưởng. Làng đầy hoa và bướm bay, bữa tối thơm phức thịt nướng, ăn xong nó ngồi giũa móng tay ngó anh chồng đang rửa chén” [1, tr.115]. Thật ra, lặng lẽ hi sinh vì người khác là một trong những đức tính tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Tuy nhiên ranh giới giữa hi sinh và cam chịu lại thật mong manh khiến cho họ dễ nhầm lẫn. Vì nhầm lẫn, họ tự biến mình thành kẻ nhu nhược, âm thầm chấp nhận mọi đắng cay. Họ không biết rằng nhu nhược, cam chịu, không dám phản kháng trong mọi hoàn cảnh chính là đồng lõa với cái xấu, cái ác. Vô tình, họ tiếp tay cho sự lộng hành của cái ác và một số những bất hạnh mà họ gặp phải trên đường đời chính là cái giá mà họ phải trả. Thứ nữa là quan niệm hạnh phúc không nằm trong tay mình mà do chồng mình, do người đàn ông mà mình yêu thương nắm giữ. Quan niệm đó khiến Mười trong Nhổ quán cặm cụi đi theo Cao Bồi đến bất cứ đâu cho dù thái độ dửng dưng, lạnh lẽo, vô cảm, bất cần của người đàn ông ấy như dao nhọn có thể làm tổn thương bất kì trái tim nhạy cảm nào. Và Ngò trong Mây mưa thì coi hạnh phúc là được mỏi mòn chờ đợi người chồng thoắt đi, thoắt về như cơn mưa bóng mây. Không chỉ riêng những người phụ nữ trong tập truyện ngắn này của Nguyễn Ngọc Tư quan niệm như vậy. Có lẽ hàng triệu người phụ nữ Việt Nam tin rằng nếu may mắn lấy được một người chồng tốt thì có hạnh phúc và ngược lại. Tất nhiên quan niệm như vậy không sai. Ai cũng mong muốn được chung sống với một người đàn ông yêu thương vợ con, biết chia sẻ với vợ, chăm lo cho con cái. Nhưng hạnh phúc của mỗi người không phụ thuộc vào người khác. Dù là đàn ông hay phụ nữ, mỗi người đều có khả năng tự tạo ra niềm hạnh phúc cho bản thân mình. Nếu chỉ bị động chạy theo người khác, người phụ nữ sẽ luôn ở trong tình trạng lo lắng, phấp phỏng, sợ bị bỏ rơi. Ngoài ra, với họ, hạnh phúc là tất cả những gì mình có kể cả đau khổ và bất hạnh. Tím trong Nút áo là một cô gái bị hãm hiếp khi mười lăm tuổi, chỉ tóm được một chiếc nút áo của kẻ làm nhục mình. Chiếc nút áo có thể là của bất cứ ai nên không thể coi đó là bằng chứng để bắt kẻ gây ra tội ác. Chiếc nút áo được Tím xỏ dây đeo ở cổ trong suốt cuộc đời héo hắt vì nỗi bất hạnh diễn ra ở tuổi mới lớn. Hay như Cẩm trong Tiều tụy vòng quanh lặng lẽ hi sinh cả cuộc đời, từ chối tất cả những người đàn ông đến với mình để chờ đợi người cha đã bỏ đi không bao giờ trở lại. Thực tế, đôi khi chúng ta vẫn luôn tự nhắc mình hãy coi những gì mình có là hạnh phúc, hãy hài lòng với những gì mình có để không quá bi quan, tuyệt vọng vì những cảm xúc tiêu cực. Tuy nhiên, có lúc phải biết Quẳng gánh lo đi mà vui sống vì không chỉ có bản thân sự việc không may xảy ra làm cho con người bị tổn thương, thông thường chính những suy nghĩ của con người về sự việc đó, về cái nhìn của mọi người xung quanh mới làm cho vết thương nặng nề đến mức đôi khi trở thành vết tử thương. Vì vậy, hãy đừng nghĩ rằng có một cái gì đó mới là hạnh phúc, đôi khi mất đi cái gì đó, đặc biệt mất đi, quên đi những chuyện không may chắc chắn sẽ làm cho con người hạnh phúc hơn. Và Nguyễn Ngọc Tư còn cho thấy những người phụ nữ miệt vườn nghĩ rằng mình hãy cứ làm một người tốt bụng và chờ đợi, rồi thế nào hạnh phúc cũng đến với mình nên Lê trong Dây diều chấp nhận lời chia tay từ người chồng sắp cưới một cách nhẹ tênh, Nguyễn Thị Thắm và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 21 - 26 25 không một lời oán trách: “Ừ, mình biết rồi” [1, tr.102], hay như Ngà trong Vực không đáy vô tình làm cho chồng nghi ngờ vì thân mật gọi bà cụ nghèo đói ghé vào trú mưa là mẹ. Mặc cho người chồng giận đến mức đề nghị ly hôn, chị vẫn chỉ im lặng, chấp nhận lời đề nghị của chồng. Còn Thầm trong truyện ngắn cùng tên được coi là cặp chân vàng của ma ra tông nước nhà nhưng chỉ sống âm thầm, mải miết chạy theo chiếc bóng trên đường chạy. Gặp người đàn ông khiến cô mơ ước về hạnh phúc đôi lứa nhưng cô chỉ lặng câm nghĩ mình không với tới anh mặc cho lòng bồn chồn. Những người phụ nữ ấy đều là người tốt, họ có những cảm xúc yêu thương, có niềm vui, niềm hạnh phúc bình dị như bao người phụ nữ khác. Và Nguyễn Ngọc Tư làm cho người đọc thấy niềm hạnh phúc bé nhỏ ấy thật mong manh dễ vỡ trong khi những người trong cuộc vẫn chỉ nhẹ nhàng chấp nhận sự đổ vỡ đó một cách lặng lẽ. Thực tế là không ai tránh được những chuyện không may mắn trong cuộc đời. Và mỗi người có cách phản ứng khác nhau trước những sự đổ vỡ. Nhưng cách mà người phụ nữ trong Không ai qua sông phản ứng trước những mất mát làm cho bất kì bạn đọc nào cũng cảm thấy đau lòng. Họ dịu dàng, bình tĩnh chấp nhận mọi sự việc bởi họ thấy họ không làm gì sai. Lúc nào họ cũng cẩn thận, chu đáo, tốt bụng nên họ không thấy mình cần thay đổi để níu kéo hạnh phúc. Họ chỉ có thể chấp nhận, chờ đợi và tin tưởng rồi hạnh phúc sẽ lại đến với mình. Hơn thế nữa, trước mọi bất hạnh trong cuộc đời, họ quan niệm mình không phải là người duy nhất không được yêu thương, không được hưởng hạnh phúc. Tất cả những người phụ nữ khác cũng vậy. Quan niệm đó khiến hầu hết những nhân vật nữ trong các truyện ngắn lặng lẽ sống không hề có ý thức phản ứng lại hoặc phản ứng một cách yếu ớt không hiệu quả trước hoàn cảnh khách quan đẩy họ vào tình cảnh mòn mỏi đau khổ. Tuy nhiên, bên cạnh những lí giải theo lôgic về mối quan hệ giữa tính cách và hoàn cảnh, lối viết có xu hướng xóa nhòa đường viền nhân thân, đường viền lịch sử đến mức “tẩy trắng” [5, tr.36], lối viết vỡ tung dẫn đến sự “phân mảnh” [6, tr.190] của không - thời gian nghệ thuật, sự đa dạng của ngôi kể và điểm nhìn trần thuật, tạo nên kiểu nhân vật “một mảnh” [5, tr.51] khiến chúng ta có thể có những cách lí giải khác về nhân vật nữ nói riêng và ý thức đối thoại với các giá trị truyền thống trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư nói chung. Đọc truyện ngắn Vực không đáy, nhiều bạn đọc sẽ nhận thấy câu chuyện có thể là phần tiếp theo hay là một cách kết thúc khác của truyện cổ tích Cô bé Lọ Lem, Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn (truyện cổ Grimm), Tấm Cám (truyện cổ tích Việt Nam). Nguyễn Ngọc Tư viết tiếp những truyện cổ tích này bằng cách kết thúc không có hậu. Đọc truyện ngắn Dây diều, người đọc dễ dàng phát hiện Nguyễn Ngọc Tư thể hiện ý thức đối thoại với quan niệm anh hùng cứu mĩ nhân tồn tại hàng ngàn đời trong văn học từ truyện cổ tích Thạch Sanh (truyện cổ tích Việt Nam), Công chúa ngủ trong rừng (truyện cổ Grimm), Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu), Truyện Kiều (Nguyễn Du)...Anh hùng trong thời hiện đại sau khi cứu mĩ nhân sẽ không mang lại cho mĩ nhân hạnh phúc và cũng không được hưởng hạnh phúc như chúng ta từng thấy trong văn học truyền thống. Truyện Nhổ quán và Tiều tụy vòng quanh có thể coi là biến thể khác của Sự tích hòn Vọng Phu trải dài dọc đất nước Việt Nam từ Lạng Sơn, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Nam, Bình Định, Khánh Hòa. Đi thật xa mới đến nhà bạn cũ có thể được hiểu như một cách ứng xử bình tĩnh, dám tự chịu trách nhiệm trước những hành động của mình, không một lời kêu ca hoàn toàn đối lập với cách ứng xử của những người phụ nữ không chồng mà chửa trong ca dao hay trong thơ Hồ Xuân Hương. Từ ý thức đối thoại của nhà văn, theo chúng tôi có thể có cách hiểu khác với cách hiểu về người phụ nữ trong tập truyện Không ai qua sông là những người phụ nữ lặng lẽ, cam chịu, bị động, chấp nhận như chúng ta từng hiểu về nhân vật nữ trong các tập truyện ngắn khác của Nguyễn Ngọc Tư. Đằng sau sự lặng Nguyễn Thị Thắm và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 21 - 26 26 lẽ của những người phụ nữ ấy, có bóng dáng của kiểu nhân vật dửng dưng trước mọi biến động của hoàn cảnh trong các sáng tác của F.Kafka, A.Camus, E.Hemingway. Họ không phản ứng hoặc phản ứng yếu ớt có thể không phải vì họ sợ hãi mà vì họ biết trong hoàn cảnh hiện tại, mọi phản ứng đều vô nghĩa. Họ chỉ có thể tiếp tục sống với những gì đang diễn ra, bình thản trước mọi biến động sẽ đến trong tương lai. Với cách hiểu như vậy, thông điệp mà Nguyễn Ngọc Tư muốn chuyển tải thông qua những nhân vật nữ trong tập truyện của chị cũng đầy đau đớn, day dứt. KẾT LUẬN Nguyễn Ngọc Tư là một trong những cây bút được biết đến trong văn học Việt Nam hiện đại. Chị thành công với nhiều thể loại truyện ngắn, tạp văn, tiểu thuyết. Các sáng tác đều thể hiện tài năng và những đóng góp của chị cho sự phát triển của nền văn học nước nhà. Điều đặc biệt là có thể đọc tác phẩm của chị theo cách đọc văn học truyền thống, cũng có thể đọc theo cách đọc văn học hiện đại. Mỗi cách đọc cho chúng ta một cách hiểu tương ứng. Tập truyện Không ai qua sông là tập hợp những truyện ngắn có thể đọc theo cả hai cách kể trên. Chính đặc điểm này khiến tác phẩm của chị vừa hòa nhịp với văn học hiện đại nước nhà, đồng thời cũng bắt vào mạch chung của văn học hiện đại thế giới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Ngọc Tư (2016), Không ai qua sông, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh. 2. Không ai qua sông: Những mảnh đời u buồn miền sông nước, 04/04/2016. 3. Chân dung Nguyễn Ngọc Tư - nữ nhà văn xóm rẫy, comp=tacpham&action=detail&id=22786. 4. Website: https://vi.wikipedia.org. 5. Đặng Anh Đào (2002), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 6. Lê Nguyên Cẩn (2013) (dịch và giới thiệu), Thi pháp chủ nghĩa hậu hiện đại, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. SUMMARY THE OPPOSITE VIEW OF NGUYEN NGOC TU TO VIETNAMESE TRADITIONAL LITERATURE VIA THE MAIN FEMALE CHARACTERS IN KHONG AI QUA SONG Nguyen Thi Tham1*, Nguyen Minh Son2 1TNU - University of Education, 2Thai Nguyen University Nguyen Ngoc Tu is a Vietnamese comtemporary important writer. There are many main female characters in the Khong ai qua song. All of woman in the short stories are unhappy. The wretched woman’s reflections on their situations in Khong ai qua song are similar to Vietnamese woman’s in traditional literature. However, if we research on their unhappiness by the modern literature method, we can get the opposite view of Nguyen Ngoc Tu to Vietnamese traditional literature which shows by the main female character in Khong ai qua song. Key words: Nguyen Ngoc Tu, short story, woman, traditional literature, modern literature. Ngày nhận bài: 23/4/2018; Ngày phản biện: 08/5/2018; Ngày duyệt đăng: 29/6/2018 * Tel: 0975191322; Email: ntsp2002@gmail.com oµ soT T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ SOCIAL SCIENCE – HUMANITIES – ECONOMICS Content Page Hoang Thi Phuong Nga - Literature tourism model “the old Vu Dai village” 3 Pham Thi Thu Hoai, Tran Thi Thanh - Slang in Van Thanh Le's stories about education problems 9 Ngo Thi Thanh Nga, Pham Thi Hong Van - A brief description of the modes of expressing conjugal sentiments in the Vietnam medieval literature 15 Nguyen Thi Tham, Nguyen Minh Son - The opposite view of Nguyen Ngoc Tu to Vietnamese traditional literature via the main female characters in Khong ai qua song 21 Dang Thi Thuy, Nguyen Dieu Thuong - The logic of “non logic” phenomenon in Vietnamese folk verses, proverbs 27 Dinh Thi Giang - Factors affecting current lifestyle of Vietnamese people in the northern delta 33 Nguyen Dieu Thuong, Nguyen Thi Lan Huong - Mechanisms creating implication in satirical jokes 39 Nguyen Thu Quynh, Vi Thi Hien - Household vocabulary of Thai language in Dien Bien province 45 Nguyen Thi Thu Oanh, Hoang Thi My Hanh - Position, role of the communist party of Vietnam in the period 1954 – 1975 and some lessons learned 51 Do Hang Nga, Pham Quoc Tuan - Collection of taxes in the villages through material of reformist village convention in Thai Nguyen province 57 Le Van Hieu - The efficiency of the model "propaganda department" in communes, wards, township and "commander" in villages, cities at the current period in Lao Cai province 63 Thai Huu Linh, Nguyen Thi Thu Hien, Nguyen Thi Thanh Ha - The role of the rear Bac Thai in the 1968 general offensive 69 Pham Anh Nguyen - The attraction in “Hai dam” of Phan Khoi 73 Nguyen Thi Huong, Nguyen Thi Mao, Nguyen Tuan Anh - Enhancing the efficiency of extracurrucular activities in teaching civic education at high schools in thai nguyen city these days 79 Nguyen Van Dung, Dao Ngoc Anh - Physical status of non-sports students at Thai Nguyen University of Education 85 Tran Bao Ngoc, Le Ngoc Uyen, Bui Thanh Thuy et al - The reality of degree classification in non- examination students at University of Medicine and Pharmacy – Thai Nguyen University in the period from 2013 to 2017 91 Nguyen Thuc Canh - The need for buiding an exercise system with practical content to teach mechanics to high school 97 Ha Thi Kim Linh, Chu Thi Bich Hue - Educate legal knowledge for ethnic minority women in Vo Nhai district, Thai Nguyen province 105 Nguyen Thi Thanh Hong, Nguyen Thi Khanh Ly, Vu Kieu Hanh - Improve students’ participation in English learning activities in large mixed ability classes of the freshman students at Thai Nguyen University of Medicine and Pharmacy 111 Pham Thi Huyen, Vu Thi Thuy - Manipulate exemplary style according to the President Ho Chi Minh’s thought in building work style for key caders at present period 117 Dam Quang Hung - Science lesson planning for grade 4, 5 according to experimental research 123 Hoang Thi Thu Hoai - Difficulties in teaching and learning ESP vocabulary for nursing students at Thai Nguyen Medical College and some solutions 129 Nguyen Lan Huong, Van Thi Quynh Hoa - Determinants affecting English speaking performance of the first- year students at Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry 135 Journal of Science and Technology 183(07) N¨m 2018 Vu Kieu Hanh - Determinants to the reading comprehension performance level of the second- year students at Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry 141 Nguyen Thi Que, Hoang Thi Nhung - Asking the right question for successful self-studying and cooperative learning - towards independent language learners in the context of ASEAN community and global integration 147 Ngo Thi Thu Ha, Nguyen Thi Hoai Thu - Apply interactive teaching methods to improve the quality of teaching and learning Vietnamese to international students at Military Technical Academy 153 Duong Van Tan - An assessment of the effectiveness in application of games in general physical development for students at Thai Nguyen University of Technology 159 Bui Thi Huong Giang - Improving intercultural communicative competence in foreign language teaching and learning 165 Tran Hoang Tinh, Nong La Duy, Pham Van Tuan - Building self-managed platoon in disciplinary education for students at the center for defense and security education in the current phase 171 Tran Thi Yen, Khong Thi Thanh Huyen - Improving academic writing performance for english majors through intensive reading 177 Do Thi Hong Hanh, Hoang Mai Phuong - Vocational training for rural workers in Cho Moi district, Bac Kan province 183 Tran Thuy Linh, Tran Luong Duc, Nguyen Thi Thuy Trang - European union competition law approach on exploitative abuses 189 Nguyen Thi Thanh Ha, Pham Viet Huong - Setting up an appropriate set of economic criteria and indicators for evaluating sustainable forest management in Dinh Hoa district 195 Dinh Thi Hoai - Marketing promotion for information - library product and service at the Learning Resource Center of Thai Nguyen University 201 Nguyen Thi Thanh Xuan - Factors affecting customer satisfaction in hotels at Thanh Hoa province, Vietnam 207 Duong Thi Tinh - Contributions of goods export to the economic growth of Yen Bai province 213 Le Minh Hai, Tran Viet Khanh - Tourism space organization of Thai Nguyen province 219 Ha Van Vuong - Apply the ergonomics theory in working environment organization at the office of Song Cong grarment branch II – TNG Investment and Trading Joint Stock Company 227 Mai Anh Linh, Nguyen Thi Minh Anh - Assessing service quality and customer satisfaction: an empirical study at Lan Chi supermarket, Thai Nguyen city 233 Dinh Hong Linh, Nguyen Thu Nga, Nguyen Thu Hang - Applying logarithmic function to evaluate the business efficiency of Vietnam banks 239

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf339_367_1_pb_1356_2127091.pdf
Tài liệu liên quan