Ý niệm tình yêu trong thơ Nguyễn Công Bình từ góc nhìn tri nhận

Tài liệu Ý niệm tình yêu trong thơ Nguyễn Công Bình từ góc nhìn tri nhận: TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN Số 26 (51) - Tháng 03/2017 140 Ý niệm tình yêu trong thơ Nguyễn Cơng Bình từ gĩc nhìn tri nhận Concept of love in Nguyen Cong Binh’s poems viewed from cognitive linguistics ThS. Phan Thế Hồi Trường THPT Bình Hưng Hịa, TP.HCM Phan The Hoai, M.A. Binh Hung Hoa High School, HCMC Tĩm tắt Ý niệm là đơn vị tinh thần hoặc tâm lí của ý thức con người, là đơn vị nội dung của bộ nhớ động, của từ vựng tinh thần và ngơn ngữ bộ não, của tồn bộ bức tranh thế giới được phản ánh trong tâm lí con người. Ẩn dụ tri nhận là một thao tác tinh thần giúp chúng ta nhận thức thế giới xung quanh. Các nhà tri nhận luận đã chia ẩn dụ tri nhận làm bốn loại: ẩn dục cấu trúc, ẩn dụ bản thể, ẩn dụ định hướng và ẩn dụ truyền tin/kênh dẫn truyền. Bài viết này, chúng tơi tìm hiểu Ý niệm tình yêu trong thơ Nguyễn Cơng Bình (Tập thơ “Sơng chảy về trời”) từ gĩc nhìn tri nhận để mã hĩa những cung bậc cảm xúc và tính nghiệm thân trong thơ ơng. Từ khĩa: tri nh...

pdf6 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 554 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ý niệm tình yêu trong thơ Nguyễn Công Bình từ góc nhìn tri nhận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN Số 26 (51) - Tháng 03/2017 140 Ý niệm tình yêu trong thơ Nguyễn Cơng Bình từ gĩc nhìn tri nhận Concept of love in Nguyen Cong Binh’s poems viewed from cognitive linguistics ThS. Phan Thế Hồi Trường THPT Bình Hưng Hịa, TP.HCM Phan The Hoai, M.A. Binh Hung Hoa High School, HCMC Tĩm tắt Ý niệm là đơn vị tinh thần hoặc tâm lí của ý thức con người, là đơn vị nội dung của bộ nhớ động, của từ vựng tinh thần và ngơn ngữ bộ não, của tồn bộ bức tranh thế giới được phản ánh trong tâm lí con người. Ẩn dụ tri nhận là một thao tác tinh thần giúp chúng ta nhận thức thế giới xung quanh. Các nhà tri nhận luận đã chia ẩn dụ tri nhận làm bốn loại: ẩn dục cấu trúc, ẩn dụ bản thể, ẩn dụ định hướng và ẩn dụ truyền tin/kênh dẫn truyền. Bài viết này, chúng tơi tìm hiểu Ý niệm tình yêu trong thơ Nguyễn Cơng Bình (Tập thơ “Sơng chảy về trời”) từ gĩc nhìn tri nhận để mã hĩa những cung bậc cảm xúc và tính nghiệm thân trong thơ ơng. Từ khĩa: tri nhận, ý niệm, ẩn dụ, Nguyễn Cơng Bình. Abstract Concept is the mental unit or mentality of human consciousness, is the content of the memory, the mental lexicon and language brain, the whole picture of the world is reflected in psychological human. Cognitive metaphors is a mental manipulation to help us perceive the world around them. Cognitivists divided cognitive metaphors into four types: structure metaphor, orientational metaphor, ontological metaphor and conduit metaphor. This paper, we explore Concept of love in Nguyen Cong Binh’s poems (Collection of poems “Rivers flowing in to the sky”) in the view of cognitive linguistics for encoding the emotions and embodiment in his poems. Keywords: cognition, concept, metaphors, embodiment, Nguyen Cong Binh. Tình yêu là một hằng số bất biến cho mọi thời đại. Tình yêu nam nữ là tình cảm thăng hoa đẹp nhất của con người. Khi yêu, con người thường cĩ nhu cầu, khát vọng giãi bày cảm xúc thơng qua ngơn ngữ trong văn chương. Vì tất cả những gì con người tạo ra đều mang dấu ấn ngơn ngữ. Cĩ nhiều hướng khác nhau để khai thác ngơn ngữ tình yêu trong thi ca, trong đĩ vận dụng lí thuyết của Ngơn ngữ học tri nhận (cognitive / conceptual linguistics) là một cách tiếp cận mới mẻ, độc đáo. Qua gĩc nhìn tri nhận, chúng ta hiểu rõ hơn về chủ thể thẩm mỹ đã ý niệm hĩa (conceptualize) tình yêu như thế nào. Từ đĩ gĩp phần tìm hiểu thêm về tính phổ quát (universal) trong cách tri nhận tình PHAN THẾ HỒI 141 yêu của nhân loại nĩi chung và tính nghiệm thân (embodiment) của tác giả nĩi riêng. Từ điển Thuật ngữ ngơn ngữ học tri nhận (A Glossary of cognitive linguistics) định nghĩa: Ngơn ngữ học tri nhận là một trường phái hay một phương pháp nghiên cứu ngơn ngữ và tinh thần hơn là một khung lý thuyết được trình bày rõ ràng riêng rẽ. Nĩ được trình bày bởi hai nguyên tắc: giao kết khái quát và giao kết tri nhận. Hai phân ngành phát triển nhất của ngơn ngữ học tri nhận là ngữ nghĩa tri nhận và tiếp cận tri nhận về ngữ pháp. Trong khi ngơn ngữ học tri nhận bắt đầu xuất hiện từ những năm 1980 như một biến đổi trí tuệ rộng lớn cĩ cơ sở vững chắc, thì nĩ phác họa nguồn gốc hoạt động đang diễn ra trong những năm 1970, cụ thể là ở Mỹ, đang phản ứng lại với ngơn ngữ học truyền thống. (Cognitive linguistics is an enterprise or an approach to the study of language and the mind rather than a single articulated theoretical framework. It is informed by two overarching principles or commitments: the generalisation commitment and the cognitive commitment. The two best developed sub - branches of cognitive linguistics are cognitive semantics and cognitive approaches to grammar. While cognitive linguistics began to emerge in the 1980s as a broadly grounded intellectual movement, it traces its roots to work that was taking place in the 1970s, particularly in the United States, which was reacting to formal linguistics.) [13; tr 22]. Như vậy, tri nhận là con người nhận thức, đánh giá bản thân mình trong thế giới xung quanh và xây dựng bức tranh thế giới đặc biệt. Đối tượng của Ngơn ngữ học tri nhận là ý niệm. Ý niệm là đơn vị cơ bản của kiến thức chủ yếu về phạm trù hĩa và ý niệm hĩa. Các ý niệm vốn gắn liền với hệ thống ý niệm, và ngay từ đầu đã được mơ tả lại từ kinh nghiệm nhận thức thơng qua một quá trình phân tích ý nghĩa nhận thức cĩ thời hạn. Quá trình này mang đến sự gia tăng đến mức sơ đẳng nhất của các ý niệm đã được biết như một lược đồ hình ảnh. Các ý niệm cĩ thể được mã hĩa dưới một định dạng ngơn ngữ cụ thể mà đã được biết là ý niệm từ vựng. Trong khi các ý niệm là những thực thể tri nhận tương đối ổn định, thì chúng được bổ sung bởi những kinh nghiệm từng giai đoạn đang diễn ra và tái diễn. (concept: the fundamental unit of knowledge central to categorisation and conceptualisation. Concepts inhere in the conceptual system, and from early in infancy are redescribed from perceptual experience through a process termed perceptual meaning analysis. This process gives rise to the most rudimentary of concepts known as an image schema. Concepts can be encoded in a language- specific format know as the lexical concept. While concepts are rela - tively stable cognitive entities they are modified by ongoing episodic and recurrent experiences.) [13; tr 31]. Ý niệm mang tính dân tộc sâu sắc, là khâu trung gian kết nối giữa ngơn ngữ và văn hĩa. Ẩn dụ tri nhận hay cịn gọi là ẩn dụ ý niệm (conceptual metaphor): là hình thức hình thành ý niệm liên quan đến sự ánh xạ (mapping) ho c sự tương ứng giữa các miền ý niệm riêng biệt. (Metaphor: a form of concept - tual projection involving mappings or correspond - dences holding between distinct conceptual domains.) [13 tr. ]. Mục đích của ánh xạ như thế là nhằm cung cấp cấu trúc từ một miền ý niệm, miền nguồn (soure domain), bằng cách hình thành cấu trúc trên miền đích (target domain). Ý NI M TÌNH YÊU TRONG THƠ NGUYỄN CƠNG BÌNH TỪ GĨC NHÌN TRI NHẬN 142 Điều này cho ph p để kết luận rằng miền nguồn s được áp dụng cho miền đích. Vì lý do này, các ẩn dụ ý niệm được kh ng định là một cơng cụ cơ bản và khơng thể thiếu của tư duy. Ví dụ như ẩn dụ ý niệm T NH M T C C H NH T NH ( V S N ) giúp chúng ta hiểu miền đích T NH từ miền nguồn C C H NH T NH. Ẩn dụ này tạo nên một số ánh xạ quy ước được lưu trữ vào bộ nhớ trong một thời gian dài. Nên người du lịch (traveler) từ miền nguồn hành trình (journey) được ánh xạ lên miền đích tình yêu (love), ý niệm về xe cộ (vehicle) được ánh xạ trên mối quan hệ tình yêu [13; 137]. Nhà thơ Nguyễn Cơng Bình cịn cĩ bút danh Hồng Văn, Vũ Vân Bằng sinh ngày 25 tháng 2 năm 957 ở Hà Tĩnh, học sinh chuyên văn Hà Tĩnh ( 97 - 974), tốt nghiệp đại học sư phạm ngành văn và đại học luật. Ơng đã từng là cán bộ giảng dạy trường cao đ ng sư phạm, cán bộ quản lý giáo duc - đào tạo, phĩng viên và hiện là biên tập viên Nxb Thanh Niên tại Văn phịng TP.HCM. Hội viên: Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Nhà văn TP.HCM, Hội Nhà báo Việt Nam. Tác phẩm đã xuất bản: - Người gánh bĩng mình (thơ, Nxb Văn Hĩa, 1994) - Nụ và quả (thơ, Nxb Thanh Niên, 1998) - Một người phía chân trời (thơ, Nxb Thanh Niên, 2000) - Tạ lỗi mùa thu (thơ, Nxb Hội Nhà văn, 2004) - Chim Lạc trở về (thơ, Nxb Hội Nhà văn, 20 2) - Sơng chảy về trời (thơ, Nxb Hội Nhà văn, 20 5) Giải thưởng văn học: - Giải thưởng cuộc thi thơ lục bát báo Văn Nghệ năm 2002. - Tặng thưởng Hội Nhà văn TP.HCM năm 20 2 cho tập thơ Chim Lạc trở về. Từ lí thuyết của Ngơn ngữ học tri nhận, chúng tơi nhận thấy nhà thơ Nguyễn Cơng Bình đã ý niệm hĩa tình yêu thơng qua kinh nghiệm, văn hĩa và đặc trưng tư duy của dân tộc Việt. Đĩ là cách tri nhận vừa mang tính phổ quát của nhân loại, vừa mang tính nghiệm thân của tác giả. Qua khảo sát 80 bài thơ trong tập Sơng chảy về trời, chúng tơi nhận thấy cĩ bài thơ viết về tình yêu nam nữ. Tuy mảng thơ viết về đề tài này chiếm số lượng khá khiêm tốn nhưng qua gĩc nhìn của ngơn ngữ tri nhận, tình yêu trong thơ Nguyễn Cơng Bình chứa đựng nhiều điều lí thú. Đĩ là tình yêu được ý niệm hĩa qua ẩn dụ ý niệm, cụ thể là ẩn dụ cấu trúc (structural metaphor). Bảng ánh xạ tình yêu trong tập thơ Sơng chảy về trời: STT Miền nguồn Miền đích 1 Chuyến đị Tình yêu 2 Đánh bắt Tình yêu 3 Hạt giống Tình yêu 4 Men say Tình yêu 5 Đối tượng ẩn dấu Tình yêu 6 Ngọn lửa Tình yêu PHAN THẾ HỒI 143 Khảo sát miền nguồn T NH qua tập thơ Sơng chảy về trời, chúng tơi nhận thấy, ẩn dụ ý niệm mang tính phổ quát: T NH M T C C H NH T NH. Đất nước chúng ta cĩ địa hình ngắn và dốc nên hệ thống sơng ngịi chằng chịt. Chính vì vậy, trong cảm thức của người Việt, hành trình con người đều gắn liền với hành trình của dịng sơng. Điều này được cư dân chúng ta ý niệm hĩa qua ẩn dụ: ĐỜ NGƯỜ DỊNG SƠNG. Và, hơn ai hết, tác giả Nguyễn Cơng Bình thấm nhuần bản sắc văn hĩa Việt nên trong cảm thức nhà thơ, ngơn ngữ sơng nước được ý niệm hĩa về tình yêu vợ chồng thơng qua ẩn dụ ý niệm thứ cấp: TÌNH YÊU LÀ M T CHUYẾN ĐỊ Câu ca “thuận vợ thận chồng” Hồi tát bể Đơng Nghĩa tình mắc cạn (Mắc cạn) Bài thơ được lấy ý từ câu tục ngữ quen thuộc Thuận vợ thuận chồng tát biển Đơng cũng cạn. Nghĩa, tình là những đơn vị ngơn ngữ mang tính trừu tượng. Nhưng, từ biểu thức ngơn ngữ nghĩa tình mắc cạn giúp chúng ta tri nhận tình yêu cũng giống như một chuyến đị. Khi con đị xuơi chèo mát mái thì việc di chuyển dễ dàng hơn rất nhiều. Nhưng khi gặp con nước rịng, con đị bị mặc cạn thì quả là cực nhọc trăm bề. Chủ đị chỉ cĩ thể huy động sức người để đẩy hoặc chờ con nước lên mới cĩ thể tiếp tục hành trình. Tình yêu, tình nghĩa vợ chồng khơng phải lúc nào cũng cơm lành canh ngọt mà lắm lúc cũng mắc cạn như con đị kia. Cho nên thuận vợ thuận chồng (thì) tát biển Đơng cũng cạn. Nhưng nếu vợ chồng cố cơng tát mãi mà khơng chú ý đến những điều kiện tinh thần cần cĩ thì việc gắng sức kia cũng cĩ thể hồi cơng. Cũng bằng trải nghiệm tình tình yêu, nhà thơ Nguyễn Cơng Bình nhận thấy: TÌNH YÊU LÀ ĐÁNH BẮT Anh bủa lưới tình Anh mắc lưới Vùng vẫy chẳng thốt nụ cười em. (Lưới tình) Đánh bắt là một hình thức lao động sản xuất của cư dân vùng sơng nước. Để ổn định cuộc sống thì ai cũng cĩ thể đánh bắt cá vì đây là cơng việc khá dễ dàng. Tuy nhiên, trong thơ Nguyễn Cơng Bình, đánh bắt cá khơng cịn là cơng việc lao động bình thường nữa mà đã trở thành phương tiện nghệ thuật thơng qua ẩn dụ ý niệm để biểu đạt tình yêu. Ý niệm bủa lưới là phương tiện để nhà thơ đánh bắt tình yêu. Như vậy, ẩn dụ TÌNH YÊU LÀ ĐÁNH BẮT giúp chúng ta tri nhận miền nguồn ĐÁNH BẮT với các n t đặc trưng như: phương tiện đánh bắt, người đánh bắt, thành quả của chuyến đánh bắt, được đem gán cho ý niệm đích T NH . Như vậy, ngữ đoạn bủa lưới, mắc lưới, vùng vẫy đều mang tính ý niệm để diễn đạt hành trình tình yêu. Nhà thơ Nguyễn Cơng Bình sinh ra từ mảnh đất miền Trung Hà Tĩnh, vùng đất nơi cư dân sống bằng nền nơng nghiệp đặc thù. Từ hình ảnh người nơng dân lao động trên đồng ruộng, tác giả tri nhận: TÌNH YÊU LÀ HẠT GIỐNG Rắc tình đẫm khĩi sương Ngàn năm cịn ngát Ánh trăng thơm. (Tình ngàn năm) Miền nguồn HẠT GIỐNG gắn với các hoạt động như: gieo, rắc, nảy mầm, được ánh xạ qua miền đích TÌNH YÊU, giúp chúng ta hình dung tình yêu cũng cĩ tính đặc thù như hạt giống. Khi gặp mưa thuận, giĩ hịa cùng với kĩ thuật cần cĩ của người nơng dân thì hạt giống s nảy mầm phát Ý NI M TÌNH YÊU TRONG THƠ NGUYỄN CƠNG BÌNH TỪ GĨC NHÌN TRI NHẬN 144 triển. Ẩn dụ TÌNH YÊU LÀ HẠT GIỐNG nhằm ý niệm hĩa xuất phát điểm của hành trình tình yêu. Hạt giống tình yêu trong thơ Nguyễn Cơng Bình được rắc với khĩi sương với nước vì thế mà ngát mùi trăng thơm. Thơ tình Nguyễn Cơng Bình với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Khi thì chiêm nghiệm suy ngẫm, khi thì cười thầm tự đắc và lắm lúc cũng đắm chìm men say: TÌNH YÊU LÀ M T THỨ MEN SAY Em chuốc chén hồ li Người sau động bể Sĩng nhấn chìm em khơng? (Chén hồ li) Đất nước chúng ta sống bằng nền nơng nghiệp trồng lúa nước từ lâu đời. Và để tạo ra rượu, người ta thường lấy gạo ủ với men để lên men. ượu thường sử dụng trong hội, hè, đình đám, tiếp khách, Khi uống quá ch n, con người s rơi vào trạng thái say và nhiều khi khơng làm chủ được bản thân mình. Bằng kinh nghiệm của mình, nhà thơ Nguyễn Cơng Bình nhận thấy, giữa tình yêu và men say cĩ những thuộc tính giống nhau. Người ta say rượu cũng như say tình. Ca dao xưa từng nĩi: Cịn trời, cịn nước, cịn non/Cịn cơ bán rượu, anh cịn say sưa. Tuy vậy, cái say của nhà thơ khơng phải là sau khướt mà say là để tĩnh, để ngẫm về tình yêu: Sĩng nhấn chìm em khơng? Đến với tình yêu cũng cĩ nghĩa là con người đang thực hiện hành trình của mình. Trên hành trình ấy, lữ khách cĩ lúc tiến triển trong một mối quan hệ tốt đẹp nhưng cũng cĩ lúc gặp trắc trở trên đường đi. Vì: TÌNH YÊU LÀ M T ĐỐ TƯỢNG ẨN DẤU Cách làn hương bay Tình xa vạn d m Ai cịn nhớ ai? (Gần và xa) Tình yêu là một miền ý niệm trừu tượng, chính vì thế luơn cần sự cắt nghĩa của con người. Ý niệm tình xa giúp chúng ta mã hĩa được đĩ là một thực thể lánh mặt, ẩn dấu. Như vậy, ý niệm tình xa nghĩa là những đơi lứa yêu nhau đã gặp những khĩ khăn, trở ngại trên đường đi và dẫn đến hành trình ấy chấm dứt. Quãng đường đã khơng mở ra cho đơi lứa yêu nhau nhưng kết quả sinh lí tình cảm thì vẫn cịn đĩ: Ai cịn nhớ ai?. Nhạc sĩ Trịnh Cơng Sơn cũng từng khắc khoải: Ngày tháng nào đã ra đi khi ta cịn ngồi lại Cuộc tình nào đã ra khơi ta cịn mãi nơi đây (Tình xa) Khi tri nhận về tình yêu, điều khá lí thú là cảm quan của của nhiều dân tộc trên thế giới đều nhận thấy: TÌNH YÊU LÀ NGỌN LỬA. Bởi l miền nguồn NGỌN LỬA gắn với trường nghĩa như: bùng, cháy, sáng, nĩng, tro, tàn, Từ đĩ, những ý niệm này được ánh xạ qua miền nguồn TÌNH YÊU, giúp chúng ta cĩ thêm một định nghĩa về TÌNH YÊU. Trong thơ Nguyễn Cơng Bình, khi tình yêu khơng cập bến, hành trình dở dang thì ngọn lửa ấy đã biến thành tro. Tro ấy khơng tan biến mà chất ngất nỗi đau qua qua dịng thời gian năm tháng: Tro tình chẳng tan vào đất Tụ thành tro bếp nỗi đau Tháng năm chất ngất (Tro tình) Từ việc vận dụng lí thuyết của ngơn ngữ học tri nhận để mã hĩa ý niệm tình yêu qua tập thơ Sơng chảy về trời, chúng tơi nhận thấy: tình yêu trong thơ Nguyễn Cơng Bình là một miền ý niệm phổ quát vừa mang tính nhân loại vừa mang tính đặc thù của chủ thể thẩm mĩ sáng tạo nghệ thuật. Đĩ là: TÌNH YÊU LÀ M T CU C PHAN THẾ HỒI 145 HÀNH TRÌNH. Trên hành trình ấy, lữ khách đi qua cĩ những lúc xuơi chèo mát mái nhưng cũng lắm lúc khắc khoải khổ đau. Cĩ l , nhà thơ Nguyễn Cơng Bình cĩ nhiều trải nghiệm trong tình yêu nên tình yêu ấy cĩ nhiều cung bậc cảm xúc đa chiều: khi thì ý vị kín đáo, tự đắc nhưng lắm lúc cũng khắc khoải khơn nguơi?! TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguồn ngữ liệu trích dẫn: 1. Nguyễn Cơng Bình (2016), Sơng chảy về trời, Nxb Hội nhà văn. Tài liệu tham khảo tiếng Anh: 2. William Croft and D. A. Cruse (2004), Cognitive linguistic, Cambridge University Presss. 3. Zotal Kưvecses (1986), Metaphor of anger, pride, and love: a lexical approach to the study of conceps, Amsterdam: Benjamins. 4. Zotal Kưvecses (2010), Metaphor: A practical introduction, Oxford University Press, Oxford. 5. George Lakoff and M. Johnson (1980), Metaphor we live by, The University of Chicago Press, London. 6. George Lakoff (1987), Women, fire and dangerous things: what categories reveal about the mind, Chicago: University of Chicago Press. 7. Ronald Langacker (1987), Foundations of cognitive grammar, Vol. I. Stanford: Stanford University Press. 8. Stockwell Peter (2002), Cognitive poetics an introdution, London and New York. 9. Panther, Klaus-Uwe & Günter Radden (Eds.) (1999) Metonymy in Language and Thought. Amsterdam/Philadenphia: John Benjamins. 10. Eleanor Rosch (1973), On the internal structure of perceptual and semantic categories. In Moor, T. E., Cognitive development and the acquisition of language, New York: Academic Press, pp. 111-74. 11. Seidl J., Mc Mordie W. (1994), English Idioms. Oxford University Press. 12. Steve R. Howell (2000), Metaphor, Cognitive Models and Language: Comprehensive Module 3 (Mc Master University), Berkeley. 13. Evans Vyvyan (2007), A Glossary of Cognitive Linguistics, Edinburgh University Press. 14. Warren H. ( 994), xford earner’s Dictionary of English Idioms. Oxford University Press. 15. Wierzbicka A. (1992), Semantics, Culture and Cognition: Universal Human Concept in Culture-Specific Configuration, Oxford University Press, New York. 16. Whorf B.L. (1956), Language, Thought and Reality, Cambridge. (Mass): MIT. Ngày nhận bài: 19/12/2016 Biên tập xong: 15/3/2017 Duyệt đăng: 20/ /20 7

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf106_8404_2215158.pdf
Tài liệu liên quan