Tài liệu Y khoa, y dược - Bài 9: Y pháp học và giới tính học (sexologie): BÀI 9
Y PHÁP HỌC VÀ GIỚI TÍNH HỌC (SEXOLOGIE)
1. ĐẠI CƯƠNG
Giới tính học còn gọi là tình dục học (sexologie) là môn học nghiên cứu về
những vấn đề liên quan đến giới tính, tính dục và tình dục của con người phục vụ
cho công việc chăm sóc sức khỏe giới tính của từng cá thể và định hướng cho
cộng đồng đảm bảo sự an toàn, lành mạnh trong hành vi tình dục.
Bản năng tình dục là một trong những bản năng sinh học tự nhiên mạnh mẽ
nhất của con người, có bản chất trong sạch và lành mạnh không hàm chứa sự dâm
dục trụy lạc. Ở xã hội loài người, nó được chắp cánh bởi tình yêu tinh thần để
thăng hoa thành một trong những tình cảm cao đẹp nhất của con người. Nhưng
một khi đã là vấn đề thuộc con người trong mối tổng hòa những quan hệ xã hội, tất
yếu nảy sinh những hành vi lệch lạc do tác động từ các yếu tố xã hội học. Hơn
nữa, về mặt sinh học, sinh lý, giải phẩu của con người cũng đã phát hiện và nghiên
cứu những vấn đề bệnh lý giới tính để giải quyết vấn đề chăm sóc sức...
11 trang |
Chia sẻ: khanh88 | Lượt xem: 698 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Y khoa, y dược - Bài 9: Y pháp học và giới tính học (sexologie), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI 9
Y PHÁP HỌC VÀ GIỚI TÍNH HỌC (SEXOLOGIE)
1. ĐẠI CƯƠNG
Giới tính học còn gọi là tình dục học (sexologie) là môn học nghiên cứu về
những vấn đề liên quan đến giới tính, tính dục và tình dục của con người phục vụ
cho công việc chăm sóc sức khỏe giới tính của từng cá thể và định hướng cho
cộng đồng đảm bảo sự an toàn, lành mạnh trong hành vi tình dục.
Bản năng tình dục là một trong những bản năng sinh học tự nhiên mạnh mẽ
nhất của con người, có bản chất trong sạch và lành mạnh không hàm chứa sự dâm
dục trụy lạc. Ở xã hội loài người, nó được chắp cánh bởi tình yêu tinh thần để
thăng hoa thành một trong những tình cảm cao đẹp nhất của con người. Nhưng
một khi đã là vấn đề thuộc con người trong mối tổng hòa những quan hệ xã hội, tất
yếu nảy sinh những hành vi lệch lạc do tác động từ các yếu tố xã hội học. Hơn
nữa, về mặt sinh học, sinh lý, giải phẩu của con người cũng đã phát hiện và nghiên
cứu những vấn đề bệnh lý giới tính để giải quyết vấn đề chăm sóc sức khỏe giới
tính và chữa trị những bệnh lý giới tính, bệnh lý sinh sản.
Y pháp học có chức năng nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu y học giúp
cho cả ngành y tế và ngành tư pháp những vấn đề liên quan đến sự bất thường giới
tính, tình dục của người dân phải giải quyết bằng pháp luật, bằng hoạt động tư
pháp.
2. PHÂN LOẠI NHỮNG SAI LỆCH VỀ GIỚI TÍNH
2.1. Sự phát triển và trường thành giới tính bình thường
2.1.1. Giai đoạn thai nhi
Trong thời gian từ 5, 6 tuần đến 3 tháng tuổi thai, cơ quan sinh dục trong và
ngoài phát triển từ chỗ không xác định được giới tính trở thành cơ quan sinh dục
MỤC TIÊU
1. Hiểu rõ giới tính không chỉ có tính chất sinh học, y học mà còn có ý nghĩa quan
trọng trong đời sống xã hội, đời sống pháp luật.
2. Phân biệt được ranh giới giữa những bệnh hoạn tình dục không phạm tội với
những bệnh hoạn tình dục tội phạm và tội phạm tình dục.
của nam hoặc của nữ. Sau đó là giai đoạn tăng trưởng về trong lượng cùng với
trọng lượng của thai nhi.
2.1.2. Giai đoạn trước tuổi dạy thì
Trong giai đoạn này, sự phát triển cơ thể của trẻ là sự hoàn chỉnh dần dần,
sự tích lũy dần dần mức độ trưởng thành các cơ quan sinh dục (ngoài và trong), cơ
quan nội tiết não bộ và vai trò điều hòa thần kinh - thể dịch. Giai đoạn này chưa có
biểu hiện rõ rệt về chức năng giới tính nhưng đặc biệt quan trọng về sự tích lũy
chuẩn bị cho giai đoạn sau.
2.1.3. Giai đoạn dậy thì (trưởng thành về giới tính)
Tuổi dậy thì sớm hơn ở nữ (13 tuổi 2) và muộn hơn ở nam (15 tuổi 2).
Biểu hiện của giai đoạn này rất rõ rệt, toàn diện và phức tạp:
- Phát triển nhanh về chiều cao, cân nặng và vóc dáng.
- Sự phát triển của dấu hiệu giới tính phụ (giọng nói, lông, tóc, tuyến vú và
các mô mỡ dưới da, thay đổi về hình dạng đặc biệt của chậu hông ở nữ).
- Sự hoàn chỉnh của bộ phận sinh dục ngoài.
- Sự trưởng thành của cơ quan sinh dục trong.
- Cơ quan sinh dục bắt đầu có chứa năng tình dục và sinh sản. Nữ bắt đầu
hành kinh, có thể có thai nếu có giao cấu kết quả. Nam có thể có xuất tinh khi giao
cấu hoặc mộng tinh.
- Đặc biệt là sự trưởng thành về tâm lý, tinh thần. Có ý tưởng tò mò, khám
phá về tình dục. Có tình cảm thăng hoa về tình yêu đôi lứa.
- Yếu tố xã hội, yếu tố giáo dục đặc biệt quan trọng tạo nên nhân cách giới
tính của người vị thành niên.
- Ở góc độ tư pháp, độ tuổi vị thành niên là một yếu tố quan trọng, có
trường hợp là yếu tố quyết định trong hoạt động tư pháp dân sự và hoạt động tố
tụng.
2.1.4. Giai đoạn người trưởng thành
Bình thường là giai đoạn yêu đương, kết hôn, chửa đẻ và tạo dựng gia đình
riêng.
Bất thường nếu có những yếu tố ngoại lai tác động làm thay đổi về nhân
cách tình dục, thậm chí sự thay đổi dẫn đến bệnh hoạn tình dục, tội phạm tình dục.
2.1.5. Giai đoạn tiềm mãn kinh
Biểu hiện rõ rệt nhất ở phụ nữ, nhưng y học ngày nay phát hiện và quan
tâm đến giai đoạn tương đương này ở nam giới với những thay đổi thất thường từ
tính tình đến khả năng hoạt động tình dục, mức độ thích nghi với hoạt động thể
lực. Giai đoạn này cũng đặc biệt nhạy cảm giống như ở giai đoạn dậy thì nên dễ
bộc lộ những bất thường về đời sống tình dục dẫn đến những nguy cơ phức tạp
hơn.
2.1.6. Giai đoạn người cao tuổi
Bình thường là tương đối ổn định, nhưng vẫn chịu tác động của các yếu tố
về sức khỏe, lối sống, hoàn cảnh, sống nên vẫn có thể có biểu hiện bất thường
trong đời sống tình dục hay gặp ở nam giới.
2.2. Phân loại những sai lệch về giới tính
2.2.1. Phân loại theo căn nguyên
- Trên bình diện sinh học (thuần túy): đó là sự sai lạc của đôi nhiễm sắc thể
thứ 23 - nhiễm sắc thể quyết định giới tính. Ở một người bình thường về giới tính
đôi nhiễm sắc thể này có dạng XY ở nam giới và XX ở nữ giới. Khi một người bị
sai lạc của đôi nhiễm sắc thể này, người đó sẽ bẩm sinh mắc những bệnh lý về tình
dục. y học đã biết đến hội chứng Turner do nhiễm sắc thể giới là XO, hội chứng
Klinne – felter có thừa một nhiễm sắc thể X (XXY) hay hội chứng có 2 nhiễm sắc
thể Y (XYY). Riêng đối với hội chứng XYY, bên cạnh những lệch lạc về tình dục
còn tiềm ẩn một cá tính hung hãn dễ dấn đến tội phạm bạo lực.
- Trên phương tiện phân tâm học, theo phát hiện của nhà phân tâm học
Freud, sự lệch lạc tình dục còn là hậu quả sự mất cân bằng, mất kiểm soát giữa lý
trí được xã hội giáo dục với bản năng tình dục mạnh mẽ nhưng tiềm ẩn.
- Trên phương diện tâm thần, tấm lý – xã hội, lệch lạc tình dục là một biểu
hiện của tác động qua lại giữa cá nhân và môi trường xung quanh.
- Trên phương diện văn hóa – xã hội, sự lệch lạc tình dục có căn nguyên từ
văn hóa khiêu dâm và sự suy thoái thuần phong mỹ tục.
2.2.2. Phân loại theo biểu hiện giới tính
2.2.2.1. Lưỡng giới (lưỡng tính) tiềm ẩn
Dân gian vẫn gọi nôm na là “ái man ái nữ”. Từ thuở còn bào thai dưới 3
tháng, con người mang trong thân thể cả hai mầm mống của cơ quan sinh dục nữ
và nam. Dần dần, giới tính của con người được hình thành khi mầm mống giới
tính này phát triển, còn mầm mống giới tính kia thoái triển. Tuy nhiên, ngay trong
con người bình thường, mầm mống giới tính khác vẫn không hoàn toàn mất hẳn,
vì vậy nếu vì một lý do nào đó, những cơ quan quyết định giới tính bị suy giảm
chức năng thì giới tính khác sẽ có dịp biểu lộ. Hiện tượng này thật dễ hiểu và
không phải là cá biệt, ví dụ những hoạn quan thời xưa vốn là nam giới hoàn toàn,
khi phải chịu “ thiến” để vào phục vụ trong tam cung lục viện bao giờ cũng có
những dấu hiệu nữ tính như không mọc râu, tiếng nói giống phụ nữ, tính tình hành
động như phụ nữ. Hoặc ngược lại ngày nay ở những người phụ nữ do bệnh lý,
phải cắt bỏ buồng trứng sẽ nam tính hóa hình thể như: vóc dáng to thô ra, mọc râu
như đàn ông và tiếng nói sẽ “ồm ồm lệnh vỡ”.
2.2.2.2. Giới tính do gien
Là giới tính thực thụ được quyết định bởi đôi nhiễm sắc thể giới tính (XY
hay XX). Đôi nhiễm sắc thể này mang những thông tin di truyền vi mô ở mức
phân tử sinh học chỉ đạo cơ thể cá nhân đó sản xuất ra các men, các protein quyết
định giới tính. Ngay cả khi cơ thể có những biểu hiện bất thường về hình thể hoặc
biểu hiện “ái nam ái nữ”, việc xác định nhiễm sắc thể giới tính là căn cứ duy nhất
chính xác để phân định giới tính nam hay nữ.
2.2.2.3. Giới tính do kiểu biểu hiện
Là giới tính được thể hiện ra bên ngoài bình thường thì trung thành với giới
tính do gen nhưng trong những trường hợp đặc biệt. Thứ nhất, người bệnh có thể
có cơ quan sinh dục ngoài cùng các biểu hiện bên ngoài là nam nhưng trong ổ
bụng lại có buồng trứng, hoặc hoàn toàn ngược lại.
2.2.2.4. Giới tính tâm lý, giới tính giáo dưỡng
Con người tuy là một sinh vật cao cấp nhưng chịu tác động rất lớn của hoàn
cảnh, môi trường xã hội, vì vậy ngay cả trong vấn đề giới tính, con người cũng
biểu hiện sự tác động đó, nhiều gia đình sinh con một bề vì quá khát khao một đứa
con trai (hoặc con gái) theo ý mình nên đã nuôi dạy, cho ăn mặc để tóc tai, dạy dỗ
về tính tình phong cách làm thay đổi giới tính vốn có của trẻ. Câu nói thường ngày
“con bé này như con trai” hay “thằng bé này như con gái” không chỉ là nhận xét
mà đã có ý nghĩa định hướng giới tính.
Hoặc có những trường hợp có biến đổi tâm lý ở người vị thành niên và
trưởng thành dẫn đến hành vi biểu hiện giới tính khác với giới tính sinh học.
2.2.2.5. Giới tính nhân tạo
Do tiến bộ về phẫu thuật thẩm mỹ và liệu pháp hormone, việc thầy thuốc
tạo hình cơ quan sinh dục ngoài, làm biến đổi các dấu hiệu sinh dục phụ và tâm lý
giới tính đã được thực hiện dễ dàng, trở thành một dịch vụ y tế thường quy và đi
vào cuộc sống.
Trong thực tế ở nước ngoài, việc biến đổi giới tính theo ý muốn đã được
pháp luật nhiều nước cho phép. Thái Lan là nước mà biến đổi giới tính rất phát
triển và tạo nên một lớp người “giả gái” đông đảo phục vụ cho các dịch vụ du lịch,
giai trí. Ở Việt Nam, khu vực TP Hồ Chí Minh và các tỉnh Nam Bộ cũng đã có
nhiều người đi nước ngoài để phẫu thuật thay đổi giới tính rồi trở về nước làm
những nghề giải trí. Việc này đặt các cơ quan y tế và cơ quan tư pháp trước một
việc đã rồi rất phức tạp về căn cước, hồ sơ tư pháp hộ tịch của công dân.
3. CHỨC NĂNG XÁC ĐỊNH GIỚI TÍNH
Do những vấn đề đã nêu ở mục 2, đặt ra cho Ngành Y tế, cho y pháp học và
các cơ quan pháp luật nhiệm vụ phải xác định giới tính cho một công dân cụ thể.
3.1. Xác định giới tính thông thường
3.1.1. Kiểm tra công bố và xác nhận bằng giấy chứng sinh giới tính của trẻ
mới đẻ
Nhiệm vụ có vẻ đơn giản và đương nhiên, nhưng trên thực tế do thiếu trách
nhiệm, lơ là, không nhận thức được ý nghĩa quan trọng nên đã gặp nhiều trường
hợp nhầm lẫn. Từ nhầm lẫn giới tính trẻ mới đẻ dẫn đến nghi vấn nhầm lẫn con
làm vấn đề trở nên phức tạp; rất nhạy cảm, dẫn đến khiếu kiện.
3.1.2. Xác định giới tính và khám sức khỏe kết hôn
Việc khám và cấp chứng chỉ sức khỏe kết hôn là một chức năng rất quan
trọng của y tế nói chung và y pháp học nói riêng có ý nghĩa sâu xa đến nòi giống
của một dân tộc, đến sự phát triển về nhiều mặt của xã hội và góp phần không nhỏ
cho hạnh phúc và chất lượng cuộc sống gia đình.
Hiện tại, trong những kết hôn có yếu tố nước ngoài, thủ tục này là bắt buộc.
Trong tương lai không xa, cần thiết phải thực hiện đầy đủ như Luật hôn nhân và
gia đình đã quy định.
Một vấn đề cuộc sống đặt ra là kết hôn đồng giới cũng cần phải được xem
xét dưới nhiều góc độ khác nhau (luật pháp, đạo đức, y học, quyền con người...) để
vừa tôn trọng con người cá nhân vừa xây dựng được một xã hội ổn định, an toàn
và văn minh.
3.1.3. Xác định giới tính khi có nghi vấn
Do cách đặt tên họ tiếng Việt có nội hàm về giới tính trong tên gọi
(Thị/ Văn).
Do sự phát triển xã hội có nhiều cách dặt tên họ tự do, rộng rãi hơn
(không dùng Thị/ Văn, đặt họ mẹ liền với họ bố, đặt tên kép...).
Từ đó dẫn đến nhầm lẫn giới tính trên căn cước, giấy tờ, khi phát hiện ra
cần thiết phải xác định giới tính một cách chính thức để cải chính.
Một số vấn đề thực tế nữa là giới tính giáo dưỡng với việc ăn mặc, đầu tóc
sinh hoạt trái giới cũng gây ngộ nhận đặt ra yêu cầu phải xác định giới tính chính
thức.
3.2. Xác định giới tính bất thường
3.2.1. Lưỡng giới tiềm ẩn
Bắt buộc phải có thăm khám toàn diện với những thành tựu hiện đại nhất về
chẩn đoán hình ảnh, huyết học, miễn dịch và AND để có thể công bố cho người
bệnh biết giới tính thực (đôi khi là giới tính trội hơn) của họ để họ có quyền lựa
chọn và điều trị.
Trong trường hợp này, người thầy thuốc không chỉ đóng vai trò khám chữa
bệnh mà rất cần thiết phải làm chức năng tư vấn, quan tâm đến vấn đề tâm lý, tính
cách của người bệnh mới có thể mang lại kết quả tốt cho người bệnh.
3.2.2. Trong thi đấu thể thao
Khi có nghi vấn về giới tính của vận động viên tham gia thi đấu, Ban tổ
chức và các liên đoàn thể thao cần giám định giới tính thực của vận động viên
chống sự gian lận để đạt thành tích, thường làm nam “thực” thi đấu ở các môn của
nữ để đạt thành tích cao.
3.2.3. Khi có chuyển đổi giới tính nhân tạo
Hiện tượng một người sự dụng dịch vụ y tế để chuyển đổi giới tính của
mình khi đã trưởng thành, đã có giới tính xác định (không phải là bệnh lý lưỡng
giới) xuất hiện ngày càng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới và ở ngay nước ta đã
đặt ra những vấn đề phức tạp và tế nhị. Luật dân sự và các văn bản luật liên quan
đã và đang có đề cập đến vấn đề này để có cơ sở pháp lý chính thức.
Về góc độ y pháp học, đương sự cần được giám định giới tính để có văn
bản khoa học xác định đúng đắn giới tính của họ để làm cơ sở cho những thay đổi
về tư pháp như khai sinh, hộ khẩu, giấy chứng minh.
4. BỆNH HOẠN TÌNH DỤC KHÔNG TỘI PHẠM
4.1. Khái niệm
Bệnh hoạn tình dục (Sexual pervertion) còn được dịch là suy đồi, sauy thoái
tình dục hoặc loạn dâm. Vấn đề còn được nghiên cứu và có những tiến triển. Sự
phân loại cũng rất đa dạng tùy thuộc nhiều yếu tố, trong đó vai trò của luật pháp
có ý nghĩa tạo ra ranh giới giữa tội phạm hay không tội phạm.
Quan niệm được nhất trí cao về bệnh hoạn tình dục là những hành vi tình
dục của bản thân đương sự có những lệch lạc, suy thoái theo hướng tiêu cực. Hành
vi tình dục cần hiểu là ngoài hoạt động giao cấu còn bao hàm mọi hành vi tác động
đến nhiều bộ phận khác của cơ thể, bao hàm cả hoạt động tâm lý tình dục, hoạt
động của thần kinh cao cấp.
Nói các khác, bệnh hoạn tình dục là bất cứ hành vi, xác cảm, lời nói, hoạt
động của các giác quan tạo nên khoái cảm tình dục một cách không tự nhiên.
Về góc độ luật pháp, người ta chia ra 2 loại:
Bệnh hoạn tình dục không tội phạm: bao gồm những hành vi tự thân
hoặc những hành vi không gây hại cho xã hội.
Bệnh hoạn tình dục tội phạm: gồm những hành vi xác phạm, quấy
rối, cưỡng bức người khác gây hại cho xã hội, cấu thành tội danh
được ghi trong bộ luật.
4.2. Một số bệnh hoạn tình dục không tội phạm thường gặp
4.2.1. Kích dâm: dùng những hành vi, những phương tiện, thuốc men... để kích
thích về tình dục.
4.2.2. Thủ dâm: dùng những hành động, phương tiện để đạt khoái cảm tình dục
mà không cần giao cấu đầy đủ.
4.2.3. Khoe dâm: thích khỏa thân, khoe bày bộ phận sinh dục.
4.2.4. Nhìn trộm người khác khi họ tắm, thay quần áo hoặc vô tình để hở hang.
4.2.5. Mặc quần áo, đồ lót khác giới.
4.2.6. Lấy trộm, cất giữ để ngắm nghía, hít ngửi quần áo, đồ lót của người khác
giới.
4.2.7. Gây ngạt không hoàn toàn để tăng khoái cảm.
4.2.8. Tình dục đồng giới nữ - nữ (lésbian) là bệnh hoạn tình dục không tội
phạm khác hẳn với tình dục đồng giới nam – nam (gay) được luật pháp nhiều nước
xếp vào loại tội phạm tình dục.
4.2.9. Thống dâm: Tự gây đau để tăng khoái cảm tình dục.
Trên đây là một số dạng thường gặp và tương đối “dễ hiểu”, thực tế đa
dạng hơn rất nhiều và khá kỳ quặc, thầy thuốc cần biết để hiểu bệnh nhân nhưng
lại cần cân bằng, điều chỉnh để tranh sa vào những cảm giác tiêu cực, giật gân
không có lợi cho người bệnh và sự lành mạnh xã hội.
5. VAI TRÒ TRỢ GIÚP CỦA THẦY THUỐC
Đòi hỏi sự hiểu biết vừa rộng vừa chuyên sâu, lại vừa có kỹ năng nhanh
nhạy; ở đây chỉ nêu nguyên lý chính để người thầy thuốc có thể trợ giúp cho người
bệnh dưới hình thức tư vấn, hướng dẫn việc điều chỉnh hành vi.
5.1. Nguyên tắc nhân văn, nhân đạo
Có thái độ cảm thông, chân thành với người bệnh, tuyệt đối không được coi
thường, chế giễu người bệnh. Trao đổi tâm tình để họ thoại mái và tự nguyện kể
bệnh của mình.
Vấn đề tình dục vốn là chuyện rất riêng tư, kín đáo và đó cũng là lý do mà
những biến đổi bệnh hoạn này âm thầm gây tác động tiêu cực cho người bệnh. Do
đó, thầy thuốc chỉ thành công khi tạo lập được mối quan hệ tin cậy, cảm thông,
chia sẻ với người bệnh.
5.2. Nguyên tắc giữ bí mật
Không chỉ trong quá trình tư vấn, điều trị tâm lý mà cả trong việc nghiên
cứu khoa học, điều tra công bố công trình liên quan.
5.3. Nguyên tắc không kỳ thị, không “hình sự hóa” sự việc
Loại bệnh này nhiều khi không có ranh giới bề ngoài rõ rệt với những hành
vi trụy lạc đạo đức tình dục, vì vậy cần tránh làm người bệnh hoảng sợ hoặc tránh
bị phương tiện thông tin đại chúng đăng tin “giật gân”. Đặc biệt, cần coi đối tượng
là người bệnh cần được tư vấn, chữa trị; không được đối xử với họ như đối tượng
tội phạm hình sự.
5.4. Nguyên tắc tương thích với từng độ tuổi và từng loại bệnh
Như phần 1 và 2 đã nêu những sai lệch về giới tính và phần 4 - những bệnh
hoạn tình dục có liên quan chặt chẽ đến mỗi giai đoạn phát triển giới tính ở từng
độ tuội; vì vậy, người thầy thuốc phải căn cứ vào đặc điểm phát triển thể chất, đặc
điểm tâm lý và cuộc sống tinh thần, tình cảm của mỗi người bệnh để chẩn đoán
đúng được căn nguyên và từ đó có sự trợ giúp bằng tư vấn, điều trị tâm lý hay
những chỉ định điều trị khác nhau.
Ví dụ: hiện tượng thủ dâm hay gặp ở tuổi vị thành niên hoặc thanh niên, khi
xác định đúng bệnh, vai trò của thầy thuốc là giải thích để họ hiểu lý do phát sinh,
tác hại và nguy cơ tiến triển của bệnh. Từ đó đưa ra những hướng dẫn về rèn luyện
thể dục thể thao, lối sống tích cực, lành mạnh, những hoạt động giải trí có tính
cộng đồng ... giúp họ giải tỏa những năng lực tình dục (LIBIDO) dư thừa và có
cuộc sống cân bằng, khỏe mạnh).
Hay đối với những bệnh hoạn tình dục ở độ tuổi trưởng thành, người bệnh
đã có gia đình, phương pháp trợ giúp là giúp họ tìm thấy tình yêu ở đời sống gia
đình, tình thương yêu giữa vợ chồng con cái, điều hòa hợp lý giữa đời sống tình
dục và cuộc sống gia đình.
Vai trò trợ giúp của thầy thuộc trong những loại bệnh này cần được mọi
thầy thuốc biết đến và ứng xử đúng cả ở góc độ cá nhân người bệnh cần được tư
vấn điều trị riêng và cả ở góc độ sức khỏe công đồng vì nó liên quan rất nhiều đến
các yếu tố xã hội, pháp luật và đạo đức.
TỰ LƯỢNG GIÁ
1. Nêu các loại hình sai lệch giới tính?
2. Mục đích của giám định Y pháp trong xác định giới tính?
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai8_gioi_tinh_va_tinh_duct_3709.pdf