Tài liệu Xung đột môi trường trong sử dụng tài nguyên nước lưu vực sông chảy đoạn qua tỉnh Lào Cai - Ngô Trà Mai: Ngô Trà Mai Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 189(13): 107 - 113
107
XUNG ĐỘT MÔI TRƯỜNG TRONG SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN NƯỚC LƯU
VỰC SÔNG CHẢY ĐOẠN QUA TỈNH LÀO CAI
Ngô Trà Mai
*
Viện Vật lý – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
TÓM TẮT
Sử dụng tài nguyên để phát triển kinh tế luôn có những mâu thuẫn và xung đột. Sông Chảy, đoạn
qua tỉnh Lào Cai, có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch, thủy điện, khai thác khoáng
sản. Sự phát triển của ngành nào ít nhiều cũng có những ảnh hưởng bất lợi đến sự tồn tại của các
ngành khác gọi là tranh chấp và xung đột. Tiếp cận tổng thể và thông qua các phương pháp thu
thập, phân tích, xử lý số liệu nhận dạng được ba xung đột chính: giữa thuỷ điện và thuỷ lợi; tích
nước hồ chứa và khai thác khoáng sản; đắp đập ngăn sông và du lịch sinh thái. Cả ba dạng xung
đột trên đều có nguyên nhân từ phân bố tài nguyên nước không đều theo không gian và thời gian,
quy hoạch không đồng bộ, thiếu tính liên ngành trong quản lý. Để giả...
7 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 679 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xung đột môi trường trong sử dụng tài nguyên nước lưu vực sông chảy đoạn qua tỉnh Lào Cai - Ngô Trà Mai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ngô Trà Mai Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 189(13): 107 - 113
107
XUNG ĐỘT MÔI TRƯỜNG TRONG SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN NƯỚC LƯU
VỰC SÔNG CHẢY ĐOẠN QUA TỈNH LÀO CAI
Ngô Trà Mai
*
Viện Vật lý – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
TÓM TẮT
Sử dụng tài nguyên để phát triển kinh tế luôn có những mâu thuẫn và xung đột. Sông Chảy, đoạn
qua tỉnh Lào Cai, có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch, thủy điện, khai thác khoáng
sản. Sự phát triển của ngành nào ít nhiều cũng có những ảnh hưởng bất lợi đến sự tồn tại của các
ngành khác gọi là tranh chấp và xung đột. Tiếp cận tổng thể và thông qua các phương pháp thu
thập, phân tích, xử lý số liệu nhận dạng được ba xung đột chính: giữa thuỷ điện và thuỷ lợi; tích
nước hồ chứa và khai thác khoáng sản; đắp đập ngăn sông và du lịch sinh thái. Cả ba dạng xung
đột trên đều có nguyên nhân từ phân bố tài nguyên nước không đều theo không gian và thời gian,
quy hoạch không đồng bộ, thiếu tính liên ngành trong quản lý. Để giảm thiểu và tiến tới giải quyết
xung đột bài báo kiến nghị thực hiện một số giải pháp đi từ cơ chế, chính sách đến quy hoạch,
nâng cao trình độ của đội ngũ quản lý, khai thác TNN.
Từ khóa: Tài nguyên nước, xung đột, thủy điện, thủy lợi, du lịch
MỞ ĐẦU*
Sử dụng tài nguyên để phát triển kinh tế luôn
có những mâu thuẫn và xung đột. Mâu thuẫn
là mức độ thấp, còn xung đột là mức độ cao
có tính nghiêm trọng do quá trình khai thác
tài nguyên không hợp lý, thiếu quy hoạch
tổng thể và không tuân thủ định hướng phát
triển bền vững [1]. Lào Cai là tỉnh miền núi
phía Bắc Việt Nam, có nhiều điều kiện thuận
lợi để phát triển du lịch, thủy điện, khai thác
khoáng sản, trong đó phần lớn đều dựa vào
điều kiện tự nhiên (địa hình, hệ sinh thái, dân
tộc học...).
Sông Chảy bắt nguồn từ Trung quốc và nhập
vào sông Lô ở Phú Thọ. Đoạn chảy qua tỉnh
Lào cai là phần thượng nguồn nên uốn khúc
quanh co và lắm thác ghềnh, đây chính là yếu
tố để xây dựng thủy điện. Sự phát triển của
ngành nào ít nhiều cũng đều ảnh hưởng đến
sự tồn tại của các ngành khác: tranh chấp về
tài nguyên nước (TNN) khi xây dựng thủy
điện làm thiếu nước cấp cho các cánh đồng và
dân cư vùng hạ lưu, làm mất cơ hội khai thác
cát sỏi lòng sông, ảnh hưởng đến phát triển du
lịch sinh thái; khai thác cát sỏi làm giảm năng
suất nuôi trồng và đánh bắt thủy sản, tăng
*
Email: ngotramaimoitruong@gmail.com
nguy cơ xói lở đường bờ, mất cơ hội du lịch...
đã và đang là những tranh chấp tồn tại trên
lưu vực sông Chảy. Các mâu thuẫn này cần
được nhận dạng, phân tích nhằm tìm ra
nguyên do để giải quyết, hạn chế xung đột.
Có những mâu thuẫn lâu dài và khó giải quyết
như mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế và bảo
vệ môi trường, nhưng cũng có những mâu
thuẫn có thể giải quyết với sự đồng lòng của
các bên.
Tuy nhiên để xem xét được tất cả các xung
đột môi trường (XĐMT) cần có sự tham gia
của các chuyên gia trên nhiều lĩnh vực, thời
gian nghiên cứu dài và nguồn kinh phí lớn. Vì
vậy, trên cơ sở tổng hợp hệ thống tài liệu đã
có, xử lý dữ liệu, mục tiêu của bài báo tập
trung phân tích XĐTM giữa các ngành kinh tế
có liên quan nhiều đến TNN lưu vực sông
Chảy là: thủy điện, cấp nước tưới tiêu, khai
thác khoáng sản, du lịch và đề xuất một số
biện pháp giảm thiểu, đảm bảo phát triển hài
hòa giữa lợi ích của các bên.
TIẾP CẬN VẤN ĐỀ VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
Có nhiều cách tiếp cận đối với việc nhận diện,
phân tích và giảm thiểu XĐMT. Tuy nhiên
quan điểm tiếp cận tổng thể được sử dụng
chính trong nghiên cứu: các XĐMT được
Ngô Trà Mai Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 189(13): 107 - 113
108
xem xét trong các mối quan hệ của các ngành
kinh tế và trong vùng không gian lãnh thổ là
lưu vực sông Chảy đoạn qua tỉnh Lào Cai.
Hệ thống tài liệu sử dụng chủ yếu là các số
liệu thống kê từ Niên giám thống kê của tỉnh
trong 10 năm qua; các quy hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, TNN, khai thác khoáng sản
và 17 tình huống XĐMT trong cơ sở dữ liệu
của Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc
(UNDP) tại Việt Nam, nhằm xác định các loại
XĐMT [2, 3, 4]. Nhận dạng xung đột dựa
theo Environmental Conflict Resolution
(WRDC, 1992) [5]. Đầu tiên, qua các phương
tiện thông tin đại chúng, các báo cáo môi
trường và tình hình thực tế tại địa phương,
một loạt các XĐMT được xác định [6, 9].
Sau đó, lựa chọn những xung đột nổi bật, đại
diện để phân tích. Thông qua bước này 03
xung đột chính được nhận diện đều liên quan
đến thủy điện là: thủy điện và thủy lợi; tích
nước hồ chứa và khai thác khoáng sản; đắp
đập ngăn sông và du lịch sinh thái.
Việc phân tích các xung đột dựa theo
Chandrasekharan D., 1996 [7]. Các xung đột
được phân tích theo các hướng là bản chất,
các nhóm liên quan và đối tượng chịu ảnh
hưởng. Giải quyết xung đột được tham khảo
và đề tài cấp Bộ “Các giải pháp giải quyết
mâu thuẫn trong khai thác, sử dụng nước ở
vùng Tây Nguyên” do Viện Chiến lược phát
triển- Bộ Kế hoạch đầu tư thực hiện giai đoạn
2015-2017 có điều chỉnh để phù hợp với vùng
nghiên cứu [8].
TÀI NGUYÊN NƯỚC LƯU VỰC SÔNG
CHẢY VÀ VẤN ĐỀ KHAI THÁC SỬ DỤNG
Tài nguyên nước mặt
Sông Chảy là phụ lưu cấp 1 của sông Lô, Đông
Bắc Việt Nam (Hình 1). Dòng chính bắt nguồn
từ đèo Hà Tao, huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà
Giang, theo hướng Tây Bắc - Đông Nam qua
các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Phú
Thọ sau đó và đổ vào sông Lô tại Đoan Hùng.
Hình 1. Lưu vực sông Chảy
Sông Chảy có diện tích lưu vực là Flv = 6.500 km², trong đó phần diện tích trong nước là 4.580
km² chiếm 70,5% diện tích, phần còn lại thuộc Trung Quốc. Chiều dài sông là L = 319km, đoạn
chảy qua tỉnh Lào Cai dài 124km, lòng sông sâu, hẹp, dốc lớn, nhiều thác ghềnh. Lưu lượng nước
mùa lũ khoảng 1.670m3/s, mùa kiệt khoảng 17,6m3/s. Lưu lượng lớn nhất và nhỏ nhất (Qmax,
Qmin) tại các trạm thủy văn trên sông Chảy được trình bày tại bảng 1.
Bảng 1. Thống kê đặc trưng dòng chảy trạm thủy văn trên sông Chảy [3]
Trạm F(km2) Qmax (m
3
/s) Qmin (m
3
/s)
Bảo Yên 4300 3250 18,8
Cốc Ly 3480 2700 10,9
Vĩnh Yên 138 374 0,96
Ngô Trà Mai Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 189(13): 107 - 113
109
Khai thác và sử dụng TNN mặt
Nhu cầu sử dụng nước trên sông Chảy đoạn qua
tỉnh Lào Cai có thể chia thành hai nhóm gồm:
(a) Sử dụng làm tiêu hao lượng nước như tưới
nông nghiệp, cấp nước sinh hoạt và công
nghiệp: Lưu vực chủ yếu tiêu hao nguồn nước
cho tưới, nhu cầu nước sinh hoạt không lớn
do tỷ lệ dân ở đô thị khoảng trên 20% và chỉ
tập trung ở thành phố Lào Cai, sử dụng nước
ngầm là chủ yếu, năng lực cấp khoảng 60-
70%. Công nghiệp chủ yếu là khai khoáng –
chế biến khoáng sản; nông lâm sản, thực
phẩm; sản xuất phân bón tại 2 KCN là Tằng
Loỏng và Bắc Duyên Hải. Tuy nhiên lượng
nước cấp cho sinh hoạt và công nghiệp không
đáng kể so với tưới nông nghiệp, nên nghiên
cứu này tập chung phân tích vào thủy lợi.
Khai thác và sử dụng nước cho tưới: lưu vực
có chức năng tưới cho khoảng 11.700 ha diện
tích đất nông nghiệp. Khoảng 200 diện tích
đất trồng màu, cây công nghiệp, đất hoang,
đất trồng tạp... chưa có điều kiện cung cấp
nước, phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên. Tỉnh
Lào Cai không có công ty quản lý khai thác
thủy lợi, toàn bộ các công trình đều giao cho
chính quyền cơ sở đảm nhận, hoạt động theo
QĐ 837, đáp ứng được khoảng 60-70% nhu
cầu tưới. Tuy nhiên, các công trình thuỷ lợi
chưa phát huy hết năng lực do nhiều nguyên
nhân, trong đó chủ đạo là do hệ thống kênh
dẫn chưa đầy đủ hoặc xuống cấp, tỷ lệ tổn
thất lớn, chưa có quy trình vận hành hệ thống
dẫn đến lãng phí nước.
(b) Sử dụng không tiêu hao nước như thủy
điện, giao thông thủy, khai thác cát – sỏi:
Theo Bộ Công thương, sông Chảy đoạn qua
tỉnh Lào Cai được quy hoạch các thủy điện sau:
Khi 5 nhà máy thủy điện trên sông Chảy đi
vào hoạt động có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau về chế độ vận hành điều tiết hồ chứa
phát điện, tích nước vào mùa kiệt và xả nước
vào mùa lũ.
Khai thác khoáng sản: Lào Cai là một tỉnh có
tiềm năng khoáng sản lớn nhất cả nước, đặc
biệt cát – sỏi làm vật liệu xây dựng, phân bố
chủ đạo trong lòng sông và tại các bãi bồi ven
sông Hồng – sông Chảy (Hình 3). Tại Quyết
định số 3788/QĐ-UBND ngày 31/10/2016
của UBND tỉnh Lào Cai phê duyệt quy
hoạch phát triển vật liệu xây dựng tỉnh Lào
Cai thể hiện các vị trí khai thác cát trên sông
Chảy với tổng công suất 100.000m3 trong
giai đoạn 2016 – 2020. Trên địa bàn ven
sông Chảy đã hình thành một số cơ sở khai
thác cát cung cấp sản xuất vật liệu xây dựng,
ví dụ: điểm mỏ do Công ty Cổ phần Đức
Duy, Doanh nghiệp Thuận Ngân và một số các
doanh nghiệp khác.
Hình 2. Sơ đồ bậc thang thủy điện trên sông Chảy đoạn qua tỉnh Lào Cai
Ngô Trà Mai Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 189(13): 107 - 113
110
Dọc theo bờ sông Chảy, là các địa danh du lịch như: hang Tiên, thác nước Tà Lâm; Miếu Cây
gạo, đền Trung Đô; những cánh rừng gỗ nghiến, trai cổ thụ. Đồng thời trên hai bờ sông còn có
các bản làng, thôn xóm với những ngôi nhà sàn của đồng bào dân tộc Mông, Dao, Giáy. Chợ
Bắc Hà, chợ Cốc Ly, là những khu chợ từ lâu đã làm nên bản sắc của các dân tộc ở Lào Cai.
Đây là những địa danh đều có thể du lịch bằng đường sông tạo nên những nét riêng cho du lịch
của tỉnh.
Hình 3. Khu vực có hoạt động công nghiệp và khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Lào Cai [2]
XĐMT TRONG SỬ DỤNG TNN MẶT LƯU
VỰC SÔNG CHẢY
Những XĐMT chủ yếu
TNN mặt trên lưu vực sông Chảy đang chịu
những áp lực do phát triển kinh tế, xã hội, gia
tăng dân số, làm phát sinh mâu thuẫn trong sử
dụng và bảo vệ TNN. Kết quả nghiên cứu v
cho thấy những mâu thuẫn chính gồm:
- Xung đột trong sử dụng nước giữa thuỷ điện
và thuỷ lợi: Do quá trình tích nước phát điện
tại hồ chứa, làm hạ thấp mực nước, gây khó
khăn cho hoạt động của các trạm bơm lân
cận. Đặc biệt tích nước vào mùa khô sẽ gây
hạ thấp mực nước, dẫn đến các công trình như
cống, trạm bơm không hoạt động được, đồng
nghĩa với việc thiếu nước tưới, gây chết hoa
màu- cây lương thực... vùng hạ du. Một số
xung đột này tại Lào Cai đã được đề cập trên
các trang báo mạng: Thi công thủy điện Nậm
Toóng phá hỏng công trình thủy lợi và cấp
nước sạch của người dân; Thủy điện chồng
lên nhau, xé toạc dòng Tà Lơi, cho thấy xung
đột này đã, đang tồn tại [9].
- Xung đột giữa tích nước hồ chứa thủy điện
và khai thác khoáng sản: Trong quá trình xây
dựng hồ chứa thủy điện, hoạt động tích nước
lòng hồ làm mất đi cơ hội khai thác khoáng
sản. Nếu không kịp khai thác hoặc tận thu
trước khi xây dựng các nhà máy thủy điện,
toàn bộ vật liệu này sẽ bị nhận chìm. Một số
mỏ khoáng sản được cấp phép nhưng chưa
hết thời hạn khai thác phải tạm dừng để phục
vụ phát triển thủy điện đã gây ra tranh chấp,
không đồng thuận trong quá trình bồi thường
giải phóng mặt bằng. Tổn thất về kinh tế xảy
ra đối với tất cả các bên. XĐMT ảnh hưởng
đến mối quan hệ giữa các nhóm cộng đồng
dân cư, gây căng thẳng và làm xấu đi mối
quan hệ giữa các doanh nghiệp.
- Xung đột trong việc đắp đập ngăn sông làm
mất đi cơ hội du lịch sinh thái cảnh quan vùng
sông Chảy: Giai đoạn chưa có hoạt động thủy
điện (trước năm 2010), trung bình mỗi năm
có khoảng 8000-9000 du khách lựa chọn
tham quan bằng đường thủy, chủ yếu theo 02
tuyến Bảo Nhai - Trung Đô, Cốc Ly - Bảo
Nhai và ngược lại. Tuy nhiên từ khi Thủy
Ngô Trà Mai Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 189(13): 107 - 113
111
điện Bắc Hà, Vĩnh Hà chặn dòng, lượng
khách đặt tuyến này giảm đáng kể, một phần
do hạ thấp mực nước tàu thuyền đi lại khó
khăn, một phần do lo ngại về an toàn khi có
hoạt động xả lũ. Các đơn vị kinh doanh vận
tải du lịch đang ngày càng thu hẹp dần, một
số bị xóa xổ gây ra những mâu thuẫn giữa 02
ngành kinh tế cùng sử dụng TNN.
Cơ hội trải nghiệm vùng sông nước, hít thở
bầu không khí trong lành, thưởng ngoạn
phong cảnh bình yên của vùng cao sẽ được
thay thế bằng các tuyến du lịch đường bộ
cũng làm giảm đi tính đa dạng trong du lịch.
Đồng thời, hoạt động giải phóng mặt bằng,
phát quang thực vật để xây dựng thủy điện
cũng làm giảm đáng kể diện tích đất rừng,
cảnh quan khu vực bị thay đổi từ dạng tự
nhiên sang nhân sinh là một yếu tố bất lợi đối
với du lịch của tỉnh vốn dựa chủ yếu vào tài
nguyên rừng.
Ngoài các xung đột chính nêu ở trên một số
các mâu thuẫn khác cũng tồn tại trong quá
trình sử dụng TNN lưu vực sông Chảy, tuy
nhiên ở mức độ không lớn: giữa thủy điện và
thủy điện, các thủy điện bậc thang trên không
tuân thủ quy trình vận hành liên hồ chứa, gây
thiếu nước cho thủy điện bậc thang dưới; quá
trình khai thác khoáng sản làm nhiễm bẩn
nguồn nước gây tốn kém cho chi phí xử lý
nước cấp, giảm năng suất và chất lượng hoa
màu – cây nông nghiệp được tưới; giải phóng
mặt bằng để xây dựng công trình thủy điện
gây mâu thuẫn với người dân bản địa khi
chiếm đất rừng, mất đất canh tác, giảm sinh
kế của người dân bản địa....
Những nguyên nhân chính gây ra XĐMT
Có nhiều nguyên nhân gây ra các mâu thuẫn khi
sử dụng TNN sông Chảy, nhưng có thể tóm gọn
lại trong 5 nguyên nhân chính sau đây:
- Quy hoạch chưa đồng bộ: Năm 2014 UBND
tỉnh Lào Cai đã ra quyết định số 169/QĐ-
UBND phê duyệt Quy hoạch TNN dựa trên
cơ sở các quy hoạch ngành: thủy lợi, thủy
điện, khai thác khoáng sản và phát triển kinh
tế xã hội [3]. Mặc dù đã có sự phân chia
nguồn TNN nhưng có thể thấy rõ Lào Cai vẫn
chủ trương ưu tiên công nghiệp nặng và chưa
có quản lý tổng hợp theo từng lưu vực sông,
đặc biệt là 2 con sông chính là sông Hồng và
sông Chảy. Quản lý TTN được phân chia theo
địa giới hành chính cũng gây nhiều khó khăn,
đồng thời lưu vực sông Chảy đến nay chưa có
“chiến lược phát triển và quy hoạch tổng thể”
hay Ban quản lý lưu vực sông (như một số
sông Đồng Nai, sông Cầu, Nhuệ - Đáy...) nên
đã tạo ra nhiều khó khăn cho các nhà quản lý
khi giải quyết các vấn đề đầu tư và bảo vệ
môi trường.
- Sự phân bố về TNN không đồng đều giữa
các mùa trong năm, giữa các khu vực, gây
XĐMT trong sử dụng. Xây dựng hồ chứa, bể
điều tiết để tích nước trong mùa khô, xả lũ
trong mùa mưa là nguyên nhân chính của hầu
hết các mâu thuẫn giữa thượng nguồn và hạ
nguồn. Sự phân bố dân cư ở các tỉnh miền núi
trong đó có Lào Cai vẫn thuận theo tự nhiên,
kéo theo sự phân bố đất đai canh tác, các
công trình hạ tầng chưa hợp lý cũng làm cho
các mâu thuẫn bộc lộ ngày càng rõ nét hơn.
- Chưa có quy trình vận hành liên hồ chứa
cho tất các các công trình thủy điện trên lưu
vực sông Chảy. Các quy trình vận hành chủ
yếu được xây dựng trên cơ sở các quy định và
hướng dẫn của các cơ quan quản lý để được
phép đưa công trình vào vận hành, vì vậy dẫn
đến các xung đột giữa lợi ích về năng lượng
và các ngành kinh tế khác.
- Lào Cai là một tỉnh miền núi, điều kiện kinh
tế - xã hội, dân tộc học, nhận thức còn nhiều
khó khăn. Năng lực của đội ngũ những người
làm quy hoạch, vận hành khai thác thủy lợi,
thủy điện thấp, không được đào tạo bài bản
hay cập nhật kiến thức chuyên ngành đặc biệt
là các kiến thức về quản lý tổng hợp TNN và
bảo vệ môi trường nước theo lưu vực sông.
Đây là những cản trở trong giảm thiểu các
xung đột.
- Sự chồng chéo trong quản lý, không có cơ
quan đầu mối về quản lý TNN, dẫn đến mỗi
đơn vị Bộ, ngành lại phê duyệt các quyết định
Ngô Trà Mai Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 189(13): 107 - 113
112
cho ngành nghề mình quản lý. Ví dụ: Bộ NN
&PTNN quản lý quy hoạch thủy lợi trong cả
nước. Tuy nhiên, hệ thống thủy lợi, không chỉ
bao gồm một mà nhiều lưu vực sông, nhiều
tỉnh. Điều đó dẫn đến sự chồng chéo với các
quy hoạch lưu vực sông được phê duyệt trước
đây; Bộ Công thương quản lý, quy hoạch hệ
thống bậc thang thủy điện, tuy nhiên quá trình
thực thi lại không thống nhất với các quy
hoạch khác về TNN; Bộ Xây dựng quản lý
quy hoạch cấp, thoát nước sinh hoạt thành
phố, thị trấn. Nhưng thực tế, nhiều dự án
không gắn với quy hoạch nguồn nước dẫn đến
các công trình cấp nước bị hủy bỏ do thiếu
nước hoặc do ngập nước hồ chứa; UBND tỉnh
quản lý quy hoạch các lưu vực sông, nhưng
do trình độ chuyên môn của các địa phương
hạn chế (đặc biệt đối với các tỉnh miền núi
như Lào Cai) nên chất lượng chưa cao, nhiều
công trình trên hệ thống sông nhánh không
nằm trong quy hoạch tổng thể lưu vực, dẫn
đến chồng chéo trong quản lý và vận hành.
Mặc dù thời gian gần đây đã có sự phối hợp
giữa các cơ quan ban ngành, nhưng hầu hết
mỗi ngành đều chỉ chú trọng phát triển ngành
thuộc lĩnh vực mình quản lý, đồng thời cũng
do thiếu đầu mối cung cấp thông tin nên các
mâu thuẫn có xu hướng ngày càng rõ rệt.
ĐỀ XUẤT GIẢM THIỂU XUNG ĐỘT
Thứ nhất: Cần có sự phối hợp giữa các ngành
từ khi quy hoạch và xây dựng công trình,
trong quá trình khai thác cần cân đối giữa các
mục tiêu phát điện và cấp nước. Tăng cường
công tác quản lý nhà nước về đầu tư xây
dựng, quản lý vận hành các công trình sử
dụng TNN từ Trung ương đến địa phương,
một cách chặt chẽ, liên tục, hiệu quả từ khâu
quy hoạch, chuẩn bị đầu tư, tổ chức thi công
và quản lý khai thác. Ví dụ như đối với các hồ
chứa thủy điện lớn đã xây dựng và khai thác
thì cần thiết phải xây dựng quy trình điều
hành liên hồ trong đó có các điều kiện ràng
buộc về cấp nước, phòng chống thiên tai (lũ,
hạn). Đồng thời cần có sự điều hành chung
trong khai thác sử dụng TNN.
Thứ hai: kiến nghị ban hành và đồng bộ hệ
thống văn bản pháp luật về quản lý TNN, vận
hành quản lý các công trình thủy điện và kèm
theo đó là các thông tư, nghị định dưới luật.
Thứ ba: Đề xuất xây dựng Ủy ban bảo vệ môi
trường nước lưu vực sông Chảy, xây dựng
quy chế chung về sử dụng TNN, trong đó có
các quy định cụ thể về chia sẻ thông tin, giám
sát, duy trì dòng chảy đầu nguồn, thông báo
và thỏa thuận về kế hoạch sử dụng nước, vận
hành hệ thống thủy lợi, thủy điện, ,
Thứ tư: Tăng cường công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, đặc biệt là cán bộ vận hành,
quản lý thủy điện, thủy lợi, các cán bộ quản lý
từ cấp trung ương đến địa phương để đảm
đương tốt nhiệm vụ được giao.
Thứ năm: Xây dựng và sớm ban hành quy
trình tích nước và xả lũ các hồ chứa trên lưu
vực sông Chảy, hài hòa các lợi ích sử dụng
nước, vừa tận dụng nguồn thủy năng vừa
giảm nhẹ lũ và hạn hán ở hạ du.
KẾT LUẬN
Lưu vực sông Chảy đoạn qua tỉnh Lào Cai
hiện đang có rất nhiều hoạt động phát triển
kinh tế liên quan đến TNN, trong đó đáng lưu
ý nhất là các ngành thủy lợi, thủy điện và khai
thác khoáng sản. Tuy nhiên do TNN phân bố
không đều theo không gian và thời gian, quy
hoạch không đồng bộ, thiếu tính liên ngành
trong quản lý đã nảy sinh các XĐMT.
Các XĐMT trong khai thác, sử dụng và quản
lý TNN mặt lưu vực sông Chảy được phân
tích gồm có 3 nội dung chính: trong sử dụng
nước giữa thuỷ điện và thuỷ lợi; tích nước hồ
chứa và khai thác khoáng sản; đắp đập ngăn
sông và du lịch sinh thái cảnh quan. Cả 3
xung đột này đều liên quan đến thủy điện là
ngành có nhu cầu sử dụng nước lớn nhất và
đang chi phối lưu vực sông Chảy.
Để giảm thiểu và tiến tới giải quyết xung đột
và cần phải thực hiện đồng bộ một số giải
pháp từ cơ chế, chính sách đến quy hoạch
phát triển, vận hành hiệu quả, nâng cao nhận
thức, kiến thức của đội ngũ quản lý, khai thác
Ngô Trà Mai Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 189(13): 107 - 113
113
TNN lưu vực sông Chảy đoạn chảy qua tỉnh
Lào Cai nói riêng và trên toàn lưu vực sông
nói chung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dương Thị Thanh Xuyến, Trần Nghi, Nguyễn
Đình Thái, Nguyễn Văn Tuấn, Những mâu thuẫn
và xung đột trong quá trình khai thác tài nguyên
du lịch và sa khoáng titan khu vực đới bờ tỉnh
Bình Thuận, Tạp chí Môi trường, số III, 2017.
2. UBND tỉnh Lào Cai, Thuyết minh Đồ án Quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Lào
Cai đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, Lào
Cai, 2015.
3. UBND tỉnh Lào Cai, Thuyết minh Đồ án quy
hoạch và Quyết định phê duyệt Quy hoạch tài
nguyên nước tỉnh Lào cai giai đoạn 2014-2020,
tầm nhìn đến năm 2030, Lào Cai, 2014.
4. UNDP, Xung đột môi trường, tác động xã hội
và công lý môi trường: Nghiên cứu trường hợp,
phân tích và ý nghĩa chính sách đối với Việt Nam,
Hà Nội, 2018
5. WRDC (Western Rural Development Centre),
Environmental Conflict Resolution: A resource
notebook, Compilation for Regional training
workshop, Washington State University, 1992.
6. UBND tỉnh Lào Cai, Báo cáo hiện trạng môi
trường tỉnh Lào Cai, giai đoạn 2011-2015, Lào
Cai, 2016.
7. Chandrasekharan D, Addressing Natural
Resource Conflicts through Community Forestry:
The Asian Perspective. Paper prepared for
Session 3: 'Asia and Latin America', of the e-
conference on Addressing Natural Resource
Conflicts through Community Forestry,
Proceedings of electronic conference on
Addressing Natural Resource Conflict Through
Community Forestry, Food and Agricultural
Organization of the United Nations, Rome 1996.
8. Trần Anh Tuấn, Đề tài cấp Bộ: Các giải pháp
giải quyết mâu thuẫn trong khai thác, sử dụng
nước ở vùng Tây Nguyên, Viện Chiến lược phát
triển- Bộ Kế hoạch đầu tư, 2017.
9.
2-.html; https://nongnghiep.vn/thuy-dien-chong-
len-nhau-xe-toac-dong-ta-loi-la-ke-nuot-loi-
post223941.html...
ABSTRACT
ENVIRONMENTAL CONFLICT IN CHAY RIVE’S WATE USAGE –
THE SECTION THAT PASSSES THROUGH LAO CAI PROVINCE
Ngo Tra Mai
*
Institute of Physics - Vietnam Academy of Science and Technology
There’s always contradictions and conflicts in using resources to develop the economy. River
Chay, which flowed across Lao Cai province, has many favorable conditions for tourism
development, hydropower, mining. The development of any sector has more or less negative
impacts toward the existence of others, this is called conflict and conflict. Overall approach and
methods of collecting, analyzing and processing data identified three major conflicts: between
hydropower and irrigation; reservoir and mineral exploitation; river damming and ecotourism. All
three types of conflicts are caused by uneven distribution of water resources in space and time,
asynchronous planning, lack of interdisciplinary management. In order to minimize and proceed to
resolve the conflict, the paper recommends the implementation of a number of solutions from the
mechanism and policies to the planning and improvement of the level of management and
exploitation of water resources.
Keywords: Water resources, conflicts, hydropower, irrigation, tourism
Ngày nhận bài: 16/10/2018; Ngày hoàn thiện: 26/10/2018; Ngày duyệt đăng: 30/11/2018
*
Email: ngotramaimoitruong@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 132_160_1_pb_3177_2125117.pdf