Tài liệu Xuất khẩu dăm gỗ của Việt Nam: Chính sách, thị trường và sinh kế của các hộ gia đình trồng rừng: Xuất khẩu dăm gỗ của Việt Nam:
Chính sách, thị trường và sinh kế của các hộ
gia đình trồng rừng
Tô Xuân Phúc (Forest Trends)
Đặng Việt Quang (Forest Trends)
Trần Lê Huy (FPA Bình Định)
Cao Thị Cẩm (VIFORES)
Hà Nội, tháng 7 năm 2016
i
Lời cảm ơn
Báo cáo nghiên cứu Việt Nam xuất khẩu dăm gỗ: Chính sách – thị trường – sinh kế của hộ gia đình trồng
rừng được thực hiện bởi Tổ chức Forest Trends, Hiệp Hội Gỗ Lâm Sản Việt Nam và Hiệp Hội Gỗ và Lâm sản
Bình Định. Nhóm tác giả xin cảm ơn ông Nguyễn Tôn Quyền, Chủ Tịch Hiệp Hội Gỗ Việt Nam đã hỗ trợ
nhóm trong quá trình khảo sát thực địa. Xin cảm ơn các doanh nghiệp xuất khẩu, thu mua và chế biến dăm
gỗ và các hộ gia đình trồng rừng tạo nguồn nguyên liệu dăm vì những thông tin đã cung cấp cho nhóm.
Thông tin trong báo cáo còn được cung cấp bởi chi Cục Lâm nghiệp, Kiểm lâm, Uỷ Ban Nhân Dân các
huyện của một số địa phương của tỉnh Phú Thọ, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Nam, Quảng
Ngãi và Bình Định nơi các...
35 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 344 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Xuất khẩu dăm gỗ của Việt Nam: Chính sách, thị trường và sinh kế của các hộ gia đình trồng rừng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xuất khẩu dăm gỗ của Việt Nam:
Chính sách, thị trường và sinh kế của các hộ
gia đình trồng rừng
Tô Xuân Phúc (Forest Trends)
Đặng Việt Quang (Forest Trends)
Trần Lê Huy (FPA Bình Định)
Cao Thị Cẩm (VIFORES)
Hà Nội, tháng 7 năm 2016
i
Lời cảm ơn
Báo cáo nghiên cứu Việt Nam xuất khẩu dăm gỗ: Chính sách – thị trường – sinh kế của hộ gia đình trồng
rừng được thực hiện bởi Tổ chức Forest Trends, Hiệp Hội Gỗ Lâm Sản Việt Nam và Hiệp Hội Gỗ và Lâm sản
Bình Định. Nhóm tác giả xin cảm ơn ông Nguyễn Tôn Quyền, Chủ Tịch Hiệp Hội Gỗ Việt Nam đã hỗ trợ
nhóm trong quá trình khảo sát thực địa. Xin cảm ơn các doanh nghiệp xuất khẩu, thu mua và chế biến dăm
gỗ và các hộ gia đình trồng rừng tạo nguồn nguyên liệu dăm vì những thông tin đã cung cấp cho nhóm.
Thông tin trong báo cáo còn được cung cấp bởi chi Cục Lâm nghiệp, Kiểm lâm, Uỷ Ban Nhân Dân các
huyện của một số địa phương của tỉnh Phú Thọ, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Nam, Quảng
Ngãi và Bình Định nơi các tác giả thực hiện nghiên cứu thực địa. Báo cáo được hoàn thành với sự hỗ trợ tài
chính một phần của Cơ quan Hợp tác Phát triển Vương Quốc Anh (DFID) thông qua Tổ chức Forest Trends
và Hiệp hội Dăm gỗ Quảng Ngãi thông qua Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam. Dữ liệu thống kê về tình hình
tiêu thụ dăm Trung Quốc được dựa trên nguồn số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Trung Quốc, do
Lina Scott của Tổ chức Forest Trends biên soạn. Quan điểm thể hiện trong báo cáo là của các tác giả và
không nhất thiết phản ánh quan điểm của các tổ chức tài trợ và các tổ chức nơi tác giả đang làm việc. Các
kết quả chính trong báo cáo đã được trình bày tại Hội thảo Việt Nam Xuất Khẩu Dăm Gỗ: Những Thách
Thức Mới tổ chức tại Hà Nội ngày 15 tháng 7 năm 2016. Xin cảm ơn các ý kiến đóng góp của các đại biểu
tham gia Hội thảo.
ii
Mục lục
Lời cảm ơn ............................................................................................................................................... i
Mục lục ................................................................................................................................................... ii
Tóm tắt .................................................................................................................................................. iii
1. Giới thiệu ............................................................................................................................................ 1
2. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................................... 2
3. Thị trường dăm gỗ thế giới và vị thế của Việt Nam ........................................................................... 3
4. Xuất khẩu dăm gỗ của Việt Nam ........................................................................................................ 9
4.1. Việt Nam xuất khẩu dăm gỗ trong những năm gần đây. ............................................................ 9
4.2. Thị trường xuất khẩu dăm gỗ Việt Nam .................................................................................... 10
4.3. Các cảng biển xuất khẩu dăm gỗ Việt Nam thời gian gần đây .................................................. 11
4.4. Suy giảm xuất khẩu dăm gỗ năm 2016 ..................................................................................... 12
4.5. Cơ cấu loài gỗ cho dăm gỗ xuất khẩu của Việt Nam ................................................................. 14
5. Những thay đổi trong chuỗi cung ứng dăm xuất khẩu .................................................................... 15
5.1. Chuỗi cung ứng dăm gỗ xuất khẩu ............................................................................................ 15
5.2. Giá nguyên liệu dăm tại các khâu trong chuỗi cung ứng .......................................................... 16
5.3. Phát triển các cơ sở chế biến dăm quy mô nhỏ tại một số địa phương ................................... 17
5.4. Chi phí và lợi ích của các khâu trên chuỗi cung ứng. ................................................................ 17
6. Thảo luận: Chính sách, thị trường và sinh kế hộ trồng rừng ........................................................... 19
7. Kết luận ............................................................................................................................................ 24
Tài liệu tham khảo ................................................................................................................................ 25
Phụ lục .................................................................................................................................................. 26
iii
Tóm tắt
Dăm gỗ là một trong những mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn của ngành chế biến gỗ của Việt Nam, với kim
ngạch xuất khẩu năm 2015 đạt gần 1,2 tỉ USD, tương đương với 17% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của
các mặt hàng gỗ. Trong cùng năm này, tổng lượng dăm xuất khẩu đạt gần 8,1 triệu tấn dăm khô, tương
đương với 16,2 triệu m3 gỗ nguyên liệu quy tròn. Kim ngạch và khối lượng xuất khẩu năm 2015 lớn hơn
các con số này của các năm trước đó, thể hiện sự phát triển của ngành.
Tuy nhiên, số liệu thống kê xuất nhập khẩu từ nguồn Tổng cục Hải quan của Việt Nam về kim ngạch và
lượng xuất khẩu dăm của năm 2016 cho thấy những tụt giảm nghiêm trọng trong xuất khẩu dăm và điều
này đang làm phát sinh những lo ngại sâu sắc trong ngành dăm và các cơ quan quản lý ngành. Theo dữ liệu
thống kê của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu dăm 5 tháng đầu năm 2016 đạt 248 triệu USD, chỉ
tương đương với 58% kim ngạch 5 tháng cùng kz của năm 2015 (430 triệu USD). Lượng dăm xuất khẩu 5
tháng đầu năm 2016 đạt 1,8 triệu tấn, bằng 61% tổng lượng dăm xuất khẩu trong cùng kz của năm 2015.
Nếu từ nay đến cuối 2016 xu hướng xuất khẩu này không thay đổi, ngành chế biến và xuất khẩu dăm của
Việt Nam sẽ tiếp tục phải đối mặt với vô vàn khó khăn và kim ngạch xuất khẩu cả năm 2016 sẽ chỉ đạt ở
mức trên dưới 600 triệu USD, chỉ bằng khoảng một nửa kim ngạch năm 2015; lượng dăm xuất khẩu cả
năm sẽ chỉ đạt trên dưới 7 triệu tấn, tương đương với khoảng 60% tổng lượng xuất khẩu của 2015. Thông
tin từ các doanh nghiệp xuất khẩu cho thấy lượng dăm tồn trong nước hiện rất lớn. Tụt giảm nghiêm trọng
lượng dăm gỗ xuất khẩu đang và sẽ tiếp tục đem lại những tác động tiêu cực không phải chỉ riêng cho các
doanh nghiệp trực tiếp tham gia chế biến xuất khẩu, mà còn tác động đến hàng trăm nghìn hộ gia đình,
bao gồm nhiều hộ dân nghèo, là nguồn cung nguyên liệu đầu vào cho chế biến dăm và hàng trăm nghìn
lao động khác tham gia các khâu của chuỗi cung ứng. Tụt giảm về xuất khẩu dăm cũng tác động trực tiếp
đến kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành gỗ, gây ảnh hưởng đến ngân sách quốc gia.
Kể từ năm 2012 Việt Nam đã thay thế vị trí của Úc trên bản đồ cung dăm thế giới, trở thành quốc gia xuất
khẩu dăm lớn nhất toàn cầu. Ngoài Úc, các nước có nguồn cung dăm lớn, hiện đang cạnh tranh với Việt
Nam bao gồm Thái Lan, Indonesia và Chile. Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc là ba quốc gia nhập khẩu
dăm quan trọng nhất của Việt Nam, chiếm trên 90% tổng kim ngạch và lượng xuất khẩu hàng năm, trong
đó thị trường Trung Quốc chiếm tỉ trọng lớn nhất, khoảng 60% trong tổng kim ngạch và lượng dăm xuất
khẩu của Việt Nam.
Báo cáo này cho rằng sự tụt giảm lượng dăm xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2016 có nhiều nguyên
nhân, trong đó những nguyên nhân cơ bản nhất là do thay đổi trong cơ cấu nhập khẩu dăm tại thị trường
Trung Quốc. Số liệu thống kê của Hải Quan Trung Quốc cho thấy kể từ đầu năm 2016 nguồn dăm gỗ của
Việt Nam nhập khẩu vào thị trường này dần được thay thế bởi nguồn cung từ Úc và Thái Lan. Tại Trung
Quốc, Úc đã lấy lại vị trí dẫn đầu của mình về cung dăm cho Trung Quốc. Bên cạnh đó, nguồn cung từ Thái
Lan cũng tăng từ đó làm co hẹp thị phần của nguồn cung của Việt Nam tại thị trường này. Báo cáo này cho
rằng sở dĩ thị phần dăm gỗ Việt Nam tại Trung Quốc co lại là do có sự cạnh tranh rất lớn với nguồn cung từ
Úc và Thái Lan, đặc biệt là cạnh tranh về chất lượng. Cụ thể, chất lượng dăm gỗ xuất khẩu của Việt Nam
đang bị mất kiểm soát, hiện đang có dấu hiệu đi xuống. Điều này đã và đang gây ra những tác động tiêu
cực cho ngành dăm, gây giảm giá xuất khẩu và co hẹp thị trường tiêu thụ, đặc biệt tại Trung Quốc.
Đến nay, đối với các cơ quan quản lý xuất khẩu, dăm vẫn được coi là xuất khẩu nguyên liệu thô, không tạo
được giá trị gia tăng trong sản phẩm xuất khẩu. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý và một số ý kiến từ
ngành chế biến đồ gỗ xuất khẩu cho rằng sự phát triển của ngành dăm làm mất nguồn cung gỗ nguyên liệu
iv
cho ngành chế biến đồ gỗ, kéo dài sự lệ thuộc của ngành chế biến đồ gỗ vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu,
bao gồm cả việc nhập khẩu từ một số nguồn có rủi ro cao, gây tổn hại đến hình ảnh của ngành chế biến gỗ.
Các quan điểm này đã được thể hiện trong định hướng của Chính phủ, bao gồm một số cơ chế chính sách
nhằm hạn chế sản xuất và xuất khẩu dăm.
Trong nỗ lực nhằm hạn chế xuất khẩu dăm, Chính phủ Việt Nam áp dụng mức thuế xuất khẩu 2% bắt đầu
kể từ đầu năm 2016. Tuy nhiên, áp dụng mức thuế này trong bối cảnh nguồn cung dư thừa và thị phần tại
thị trường xuất khẩu, đặc biệt tại thị trường Trung Quốc đang giảm sút làm cho ngành chế biến dăm xuất
khẩu của Việt Nam đã khó khăn lại càng trở nên khó khăn hơn. Mức thuế xuất khẩu 2% tương đương với
mức tăng 2,5-2,8 USD/tấn dăm trong cơ cấu giá thành dăm xuất khẩu. Thị phần co hẹp và mức giá xuất
khẩu giảm buộc các doanh nghiệp chế biến dăm hoặc phải giảm giá thu mua nguyên liệu gỗ đầu vào, chủ
yếu từ các hộ gia đình hoặc phải chấp nhận cắt giảm lợi nhuận nhằm duy trì thị trường.
Từ khía cạnh của nguồn cung nguyên liệu gỗ, hộ gia đình trồng rừng phản ứng với thay đổi của thị trường
theo cách khác nhau, phụ thuộc vào điều kiện sinh kế cụ thể của hộ. Nhiều hộ gia đình có nguồn sinh kế
không lệ thuộc nhiều vào các diện tích rừng trồng quyết định giữ lại rừng của mình, đợi cơ hội tăng giá.
Nhiều hộ khác không có nguồn sinh kế thay thế bắt buộc phải bán rừng, chấp nhận mức giảm 30-40% về
lợi ích kinh tế so với năm 2015.
Những khó khăn hiện tại của ngành chế biến dăm xuất khẩu của Việt Nam không chỉ đơn thuần là về biến
động cung-cầu của thị trường tiêu thụ mà còn do những vấn đề nội tại của ngành dăm, đặc biệt có liên
quan đến phát triển nóng, phát triển ngoài quy hoạch, chạy theo thị trường và không kiểm soát về chất
lượng, hiện nay đang diễn ra tại một số địa phương, đặc biệt là các cơ sở chế biến quy mô nhỏ. Thông báo
76/TB-UBND tỉnh Thanh Hóa ngày 17 tháng 5 năm 2016 phản ánh rõ nét các khía cạnh này, trong đó nêu
rõ: “Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 42 cơ sở sản xuất dăm gỗ, trong đó chỉ có 11 cơ sở được chấp thuận sản
xuất, với tổng công suất 330.000 tấn/năm, trong khi công suất băm dăm gỗ thực tế của các cơ sở đã lên
tới 729.000 tấn/năm, vượt 2,2 lần so với công suất cho phép; đa số các cơ sở sản xuất dăm gỗ đều chưa có
phương án đầu tư dài hạn từ khâu trồng, thu mua nguyên liệu đến khâu chế biến *+; tình trạng thiếu
nguyên liệu đã tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh, tranh mua, tranh bán gây mất trật tự xã hội.”1 Phát
triển không kiểm soát, chạy theo lợi nhuận, không quan tâm đến chất lượng sản phẩm tại các địa phương
này đã và đang tác động tiêu cực đến hình ảnh của toàn ngành dăm Việt Nam, làm giảm lòng tin của nhà
nhập khẩu, giảm thị phần xuất khẩu, tạo cơ hội cho một số nhà nhập khẩu khác ép giá dăm của Việt Nam.
Các yếu tố này thể hiện tính không bền vững của ngành chế biến dăm xuất khẩu.
Báo cáo chỉ ra rằng mặc dù chiến lược của Chính phủ trong việc hạn chế xuất khẩu dăm, tạo nguồn gỗ
nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến đồ gỗ là hoàn toàn đúng đắn, thực hiện chiến lược thông qua
giải pháp áp dụng 2% mức thuế xuất khẩu như hiện nay cần được kiểm chứng về mặt thực tiễn về hiệu
quả của chính sách này. Khảo sát tại một số địa phương cho thấy tính đa dạng trong thực trạng sản xuất và
xuất khẩu dăm hiện nay và các chính sách thuế hiện tại và trong tương lai sẽ có những tác động không
đồng đều đến các sơ sở chế biến và các hộ trồng rừng tại các địa phương. Tại các vùng như Bắc Trung Bộ,
các cơ sở chế biến gỗ hầu như chưa phát triển và chế biến dăm là giải pháp duy nhất cho nguồn gỗ rừng
trồng đầu ra của hộ gia đình. Đối với một số địa phương khác như Phú Thọ, Tuyên Quang nơi sẵn có các cơ
sở chế biến thay thế dăm, nguồn cung đầu vào cho dăm là các sản phẩm phụ của quá trình chế biến,
1 ỦBND Tỉnh Thanh Hóa. Thống báo số 76 ngày 17 tháng 5 năm 2016 về Kết luận của Phó Chủ tịch Thường trực UBND Tỉnh Nguyễn Đức Quyền tại
Hội nghị nghe báo cáo kết quả kiểm tra, đánh giá tình hình hoạt động sản xuất của các cơ sở băm dăm trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
v
chiếm 30-40% trong tổng nguồn cung gỗ từ rừng trồng tại các nơi này. Trong bối cảnh thiếu vắng các cơ sở
chế biến thay thế cho dăm (ví dụ xưởng xẻ, bóc), và với nguồn nguyên liệu dăm được chế biến từ các sản
phẩm phụ của chế biến gỗ, áp dụng chính sách thuế nhằm hạn chế đầu ra của dăm sẽ không đạt được
mục tiêu tạo rừng gỗ lớn, thậm chí còn gây lãng phí trong việc sử dụng nguyên liệu gỗ rừng trồng.
Báo cáo kiến nghị rằng trước khi đưa ra những giải pháp can thiệp về thuế cần có những đánh giá sâu và
toàn diện về thực trạng của ngành chế biến xuất khẩu dăm hiện nay của Việt Nam trong toàn bộ chuỗi
cung ứng, trong đó cần đánh giá các yếu tố về các loại hình và quy mô của doanh nghiệp và động lực của
các loại hình này, khác nhau giữa các vùng nguyên liệu, hệ thống cơ sở hạ tầng cho phát triển các loại hình
chế biến sản phẩm thay dăm cũng như các điều kiện tiếp cận thị trường đối với các loại hình sản phẩm đó.
Bên cạnh đó, cần có những đánh giá khách quan về thực trạng của hộ gia đình trồng rừng, nhằm xác định
các yếu tố nội tại của hộ (ví dụ vốn, lao động, trình độ canh tác), cũng nhưng các yếu tố bên ngoài (tiếp cận
tín dụng, tiếp cận nguồn giống, khoa học công nghệ) có tác động trực tiếp đến quyết định của hộ gia đình
trong việc sử dụng sản phẩm gỗ rừng trồng để làm dăm hay các sản phẩm khác. Chính sách, bao gồm cả
chính sách thuế xuất khẩu hiện tại và trong tương lai có mục tiêu tạo nguồn gỗ lớn, làm nguyên liệu đầu
vào cho ngành chế biến đồ gỗ xuất khẩu sẽ không thể phát huy được hiệu quả nếu không được dựa trên
nền tảng là từ kết quả của các đánh giá này.
1
1. Giới thiệu
Ngành chế biến và xuất khẩu dăm gỗ (sau đây được gọi là ngành dăm) của Việt Nam liên tục được mở
rộng trong những năm vừa qua, nhằm đáp ứng nhu cầu nguyên liệu của các nhà máy sản xuất bột giấy tại
Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc. Năm 2009, Việt Nam có 47 nhà máy dăm với lượng dăm xuất khẩu đạt
khoảng 2,3 triệu tấn khô, tương đương với 4,6 triệu m3 gỗ nguyên liệu. Đến 2014, số nhà máy tăng lên
130, với lượng dăm xuất khẩu đạt 7 triệu tấn khô. Kim ngạch xuất khẩu cũng tăng từ 796 triệu USD năm
2012 lên đến 958 triệu USD năm 2014 (Tô Xuân Phúc và Trần Lê Huy, 2013; Tô Xuân Phúc và cộng sự
2015).
Phát triển của ngành dăm đã và đang làm nảy sinh những tranh luận trái chiều về tầm quan trọng cũng
như mối quan hệ của ngành với các ngành khác có sử dụng cùng nguồn nguyên liệu gỗ rừng trồng đầu
vào, như ngành chế biến đồ gỗ và ngành giấy. Ý kiến của ngành chế biến đồ gỗ cho rằng ngành dăm gỗ đã
sử dụng một lượng lớn nguyên liệu gỗ đầu vào, từ đó gây ra việc thiếu hụt nguyên liệu để chế biến gỗ, và
điều này làm hạn chế về giá trị gia tăng cho nguồn gỗ rừng trồng. Tuy nhiên quan điểm của ngành dăm lại
cho rằng phát triển của ngành dăm đã khuyến khích các hộ gia đình trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi núi
trọc và tạo thêm thu nhập cho hộ trồng rừng, góp phần cải thiện sinh kế của người dân trong đó có nhiều
hộ dân nghèo đang sống ở vùng cao. Cũng theo ngành dăm, nguồn nguyên liệu đầu vào cho dăm là gỗ tận
dụng từ các cơ sở chế biến khác như xưởng xẻ, xưởng ván bóc do vậy sự tồn tại và phát triển của ngành
dăm là cơ hội tạo thêm nguồn thu từ nguồn gỗ rừng trồng mà không có sự cạnh tranh về nguồn gỗ nguyên
liệu đầu vào với ngành chế biến đồ gỗ.
Theo các nhà quản lý, xuất khẩu dăm là xuất khẩu nguyên liệu thô và không tạo được giá trị gia tăng trong
sản phẩm. Do vậy, kể từ giữa thập niên 2000, Chính phủ đã có định hướng hạn chế xuất khẩu dăm gỗ,
nhằm tạo cây gỗ lớn và làm tăng giá trị cho nguồn gỗ rừng trồng. Kể từ đó, nhiều cơ chế chính sách đã
được đưa ra nhằm hạn chế sản xuất và xuất khẩu dăm. Các cơ chế chính sách quan trọng bao gồm Quyết
định 1565 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) năm 2013 phê duyệt đề án tái cơ cấu
ngành lâm nghiệp, Quyết định 919 của Bộ NN&PTNT phê duyệt kế hoạch hành động nâng cao giá trị gia
tăng sản phẩm gỗ qua chế biến giai đoạn 2014-2020, hoặc Quyết định 651 năm 2015 của Bộ NN&PTNT
phê duyệt kế hoạch triển khai phương án quản lý sản xuất dăm gỗ giai đoạn 2014-2020. Gần đây nhất là
Thông tư 182 của Bộ Tài chính ban hành ngày 16 tháng 11 năm 2015 đã đưa ra mức thuế xuất khẩu dăm
gỗ là 2%, bắt đầu thực hiện từ đầu 2016.
Chính sách thuế xuất khẩu dăm gỗ được áp dụng trong bối cảnh ngành dăm có nhiều biến động, đặc biệt
sự suy giảm thị phần của nguồn dăm Việt Nam tại thị trường Trung Quốc và sụt giảm về giá xuất khẩu. Số
liệu thống kê hải quan cho thấy lượng dăm gỗ xuất khẩu của Việt Nam trong 5 tháng đầu năm 2016 chỉ
bằng 61% lượng dăm xuất khẩu cùng kz của năm 2015; kim ngạch xuất khẩu 5 tháng đầu năm 2016 tương
đương 58% kim ngạch cùng kz của năm 2015. Số doanh nghiệp trực tiếp tham gia xuất khẩu năm 2016 là
64, giảm hơn nhiều so với con số 101 doanh nghiệp của năm 2015. Trong khi Số liệu thống kê của Tổng cục
Trung Quốc cho thấy nhu cầu đối với mặt hàng dăm tại Trung Quốc vẫn đang tiếp tục gia tăng, trong đó có
sự đóng góp quan trọng của nguồn cung dăm liên tục tăng từ Úc và Thái Lan. Điều này phản ánh sự suy
giảm thị phần của ngành dăm Việt Nam tại Trung Quốc. Thị phần xuất khẩu bị co hẹp, giá xuất khẩu giảm,
ùn tắc trong xuất khẩu là những khó khăn hiện các doanh nghiệp dăm hiện đang phải đối mặt. Thuế xuất
khẩu dăm được Chính phủ đưa ra trong bối cảnh ngành dăm đang đối mặt với những khó khăn vô cùng
lớn về thị trường xuất khẩu đã làm rấy lên những lo ngại về tác động của việc áp dụng thuế xuất khẩu 2%
2
đối với xuất khẩu dăm gỗ hiện nay của Việt Nam. Các cơ sở chế biến cho rằng áp dụng thuế xuất khẩu làm
tăng giá thành sản xuất, giảm lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu và là nguyên nhân chính dẫn đến sự sụt
giảm trong xuất khẩu kể từ đầu 2016 đến nay.
Nhằm tìm hiểu thực trạng các khó khăn mà ngành dăm đang đối mặt, bao gồm cả tác động về mức thuế
xuất khẩu mới được áp dụng kể từ đầu tháng 1 năm 2016, nhóm nghiên cứu thuộc Tổ chức Forest Trends,
Hiệp Hội Gỗ và Lâm Sản Việt Nam và Hiệp Hội Gỗ Bình Định đã tiến hành nghiên cứu đánh giá ngành dăm
với mục tiêu:
Tìm hiểu thực trạng của ngành dăm gỗ trong thời gian gần đây, bao gồm thực trạng trong sản xuất
và xuất khẩu, các khó khăn và thuận lợi trong các khâu này
Đánh giá tác động do các biến động của thị trường xuất khẩu đến sự vận hành và phát triển của
ngành dăm gỗ Việt Nam
Đánh giá tác động của chính sách bao gồm cả chính sách thuế xuất khẩu dăm đến các khâu của
chuỗi cung ứng dăm
Đề xuất kiến nghị về chính sách góp phần phát triển bền vững ngành dăm và nâng cao thu nhập
cho các hộ trồng rừng.
Báo cáo này gồm 7 phần. Phần 2 tiếp theo mô tả các phương pháp nghiên cứu. Phần 3 đưa ra một số
thông tin có liên quan đến thị trường dăm gỗ toàn cầu, tập trung vào thị trường Trung Quốc, là thị trường
chính tiêu thụ sản phẩm dăm của Việt Nam, từ đó giúp định vị ngành dăm của Việt Nam trên bản đồ cung
– cầu dăm thế giới. Phần 4 mô tả thực trạng về sản xuất, xuất khẩu và thị trường tiêu thụ dăm của Việt
Nam trong thời gian gần đây. Phần 5 đề cập đến những thay đổi trong chuỗi cung dăm trong những năm
vừa qua. Phần 6 thảo luận về chính sách, thị trường và sinh kế các hộ trồng rừng. Phần 7 kết luận báo cáo.
2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu kết hợp nguồn số liệu thống kê và thông tin thu thập từ khảo sát thực địa. Số liệu thống kê
được tổng hợp từ nguồn dữ liệu của Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, số liệu tổng hợp của Trung Tâm
Thương Mại Quốc Tế (ITC) và Tổng cục Hải quan Trung Quốc. Các số liệu thống kê này giúp tìm hiểu sự
phát triển của ngành dăm, thay đổi của thị trường xuất khẩu và tác động đến ngành dăm của Việt Nam
đặc biệt là do biến động gần đây của thị trường xuất khẩu.
Khảo sát thực địa được tiến hành với một số đối tượng nằm trong chuỗi cung ứng dăm gỗ. Các nhóm này
bao gồm các hộ gia đình trồng rừng, các cơ sở thu mua và khai thác rừng, các hộ gia đình và doanh nghiệp
chế biến gỗ và dăm gỗ, và các công ty thu mua xuất khẩu. Khảo sát được thực hiện ở một số địa phương
thuộc các tỉnh Phú Thọ, Hải Phòng, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình và Quảng Nam, Quảng
Ngãi và Bình Định. Đây là các địa bàn có số lượng các cơ sản xuất, chế biến và xuất khẩu dăm lớn. Thông tin
thu thập từ khảo sát thực địa góp phần giải thích sự biến động của ngành dăm gỗ trong thời gian gần đây,
từ đó giúp đánh giá được một phần ảnh hưởng của thị trường và chính sách thuế đến các khâu trong
chuỗi cung ứng dăm gỗ, đồng thời chỉ ra những khó khăn và thách thức trong các khâu của chuỗi.
3
3. Thị trường dăm gỗ thế giới và vị thế của Việt Nam
Ngành dăm của Việt Nam liên tục phát triển trong những năm vừa qua. Lượng dăm gỗ xuất khẩu của Việt
Nam đã tăng từ 2,5 triệu tấn năm 2010 lên mức 6,9 triệu tấn năm 2014 , tăng 176% (Tô Xuân Phúc và cộng
sự, 2015). Trong cùng giai đoạn, kim ngạch xuất khẩu dăm gỗ tăng từ 566 triệu USD lên 958 triệu USD năm
2014, tương đương với 70% tăng về kim ngạch (cùng nguồn trích dẫn). Việt Nam hiện đang đứng số một
về lượng cung ứng dăm gỗ trên thế giới, và trong những năm gần đây chiếm 82% tỷ lệ gia tăng của lượng
cung dăm gỗ trong khu vực Châu Á (Hình 1).
Hình 1. Lượng cung dăm gỗ của Việt Nam so với các khác tại thị trường châu Á
Nguồn: RISI, 2016
Hình 2. Lượng dăm gỗ nhập khẩu vào các thị trường tiêu thụ chính và biến động về giá nhập khẩu
0
20
40
60
80
100
120
140
160
180
0
1
2
3
4
5
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
G
iá
d
ăm
(
U
SD
/t
ấn
)
K
h
ố
i l
ư
ợ
n
g
(T
ri
ệ
u
t
ấn
)
Năm
Trung Quốc Nhật Bản Hàn Quốc Đài Loan Giá dăm gỗ (USD/Tấn)
Nguồn: Trung tâm Thương mại Quốc tế (ITC)
4
Tuy nhiên, ngành dăm có nhiều biến động trong thời gian gần đây, đặc biệt là về giá. Nguồn số liệu thống
kê của Trung tâm Thương mại Quốc Tế (ITC) cho thấy kể từ năm 2012 giá dăm xuất khẩu từ các nước có
lượng cung lớn (trừ Việt Nam) có xu hướng giảm (Hình 2). Giá dăm gỗ của Úc xuất khẩu giảm từ khoảng
150 USD/tấn từ giữa năm 2014 xuống còn 127 USD vào qu{ 1 năm 2016 (ITC). Hình 3 chỉ ra sự thay đổi về
giá dăm xuất khẩu từ một số nguồn cung chính.
Hình 3. Giá dăm gỗ xuất khẩu từ các nguồn cung chính
Nguồn: Trung tâm Thương mại Quốc tế (ITC)
Theo nguồn thông tin từ ITC, tại Trung Quốc giá dăm giảm từ khoảng 176 USD/tấn từ đầu năm 2012 xuống
còn khoảng 168 USD/tấn vào cuối năm 2015. Cũng trong giai đoạn này, giá dăm gỗ của thị trường Nhật
Bản giảm từ mức 232 USD/tấn xuống còn 180 USD/tấn và giá dăm tại Hàn Quốc giảm từ 184 USD/tấn còn
160 USD/tấn.
Giá dăm gỗ trên thị trường quốc tế có xu hướng giảm. Giá dầu thô trên thị trường quốc tế giảm trong
những năm vừa qua có thể là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến giá dăm gỗ trên thị trường
thế giới giảm, bởi giảm giá dầu thô làm giảm chi phí vận chuyển. Hình 4 chỉ ra mối tương quan giữa giá dầu
thô tại các thị trường lớn và giá dăm gỗ xuất khẩu .
Trung Quốc là thị trường tiêu thụ dăm lớn nhất trên thế giới. Thống kê từ nguồn Tổng cục Hải quan của
Trung Quốc cho thấy lượng dăm gỗ nhập khẩu vào Trung Quốc bình quân khoảng 9-10 triệu tấn /năm
(Bảng 1), tương đương với khoảng 1,5-1,7 tỉ USD về kim ngạch (Bảng 2). Thị trường tiêu thụ dăm tại thị
trường này vẫn tiếp tục được mở rộng.
40
60
80
100
120
140
160
180
200
Australia Thái Lan Chi Lê South Africa
5
Hình 4. Giá dăm gỗ và giá dầu thô trên thị trường thế giới qua các năm2
Con số thống kê của Tổng cục Hải Quan Trung Quốc về lượng và giá trị dăm gỗ nhập khẩu của Việt Nam
vào thị trường này, bao gồm cả các con số từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2016, có sự khác biệt rất lớn đối
với con số thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam trong cùng kz (xem chi tiết về các con số thống kê của
Tổng cục Hải quan Việt Nam tại phần 4 của Báo cáo này). Trong phạm vi của Báo cáo này, các tác giả sẽ
không đi tìm hiểu nguyên nhân của các khác biệt về các con số thống kê giữa hai nguồn thông tin. Các dữ
liệu thống kê trong phần 3 dưới đây sử dụng các con số thống kê của Tổng cục Hải Quan Trung Quốc để
phân tích các động thái thay đổi về tiêu thụ dăm tại Trung Quốc và vị thế của dăm gỗ Việt Nam trong bối
cảnh đó.
Bảng 1. Lượng dăm gỗ nhập khẩu vào Trung Quốc 2013-2015 (kg)
Quốc gia 2013 2014 2015
Nguồn khác 421.139.357 346.362.027 272.600.092
Chile 24.109.988 110.694.296 378.564.954
Indonesia 1.200.638.528 1.255.420.687 968.160.380
Thái Lan 1.447.634.370 1.049.566.907 1.205.940.848
Úc 1.415.940.959 2.153.428.640 2.707.504.080
Việt Nam 4.632.296.721 3.928.002.331 4.280.245.490
Tổng 9.141.759.923 8.843.474.888 9.813.015.844
Nguồn: Hải quan Trung Quốc, tổng hợp bởi Forest Trends
2 Giá dăm gỗ và dầu thô được tính bình quân qua các năm
0
20
40
60
80
100
120
140
160
180
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
G
iá
(
U
SD
/t
h
ù
n
g
-
tấ
n
)
Năm
Giá dầu ở Anh (USD/Thùng) Giá dầu ở Mỹ (USD/Thùng) Giá dăm gỗ (USD/Tấn)
Nguồn: Trung Tâm Thương Mai Quốc Tế (ITC) và FXCM market
6
Bảng 2. Giá trị kim ngạch dăm gỗ nhập khẩu vào Trung Quốc 2013-2015 (USD)
Quốc gia 2013 2014 2015
Nguồn khác 73.149.280 67.029.639 51.591.086
Chile 5.498.098 24.276.081 78.967.062
Indonesia 209.407.928 228.152.278 167.916.799
Thái Lan 246.765.774 170.970.511 189.975.659
Úc 251.771.951 422.626.374 520.481.220
Việt Nam 757.035.124 622.041.549 681.768.456
Tổng 1.543.630.168 1.535.098.446 1.690.702.297
Nguồn: Hải quan Trung Quốc, tổng hợp bởi Forest Trends
Hình 5. Thay đổi lượng cung dăm vào Trung Quốc
từ các nguồn cung khác nhau (kg)
Hình 6. Thay đổi kim ngạch xuất khẩu dăm vào
Trung Quốc từ các nguồn cung khác nhau (USD)
Nguồn: Hải Quan Trung Quốc, tổng hợp bởi Forest Trends.
Các quốc gia cung cấp nguồn dăm quan trọng cho Trung Quốc bao gồm Việt Nam, Úc, Thái Lan, Indonesia
và Chi Lê, với lượng dăm của Việt Nam lớn nhất tính đến hết năm 2015. Tại Trung Quốc, dăm gỗ Việt Nam
cạnh tranh trực tiếp với dăm gỗ từ các quốc gia này. Trong khi lượng dăm của Úc nhập khẩu vào Trung
Quốc có độ ổn định lớn, dăm từ nguồn Việt Nam, Thái Lan, Indonesia có nhiều biến động, cả về khối lượng
và kim ngạch (Hình 5, 6).
7
Trong các tháng đầu năm 2016 thị phần các nguồn cung dăm cho Trung Quốc có nhiều biến động. Trong
năm này, lần đầu tiên kể từ năm 2012 lượng dăm gỗ của Úc nhập khẩu vào thị trường này vượt lượng
dăm của Việt Nam, kể cả về lượng và kim ngạch (Bảng 3, Bảng 4, Hình 7, Hình 8).
Bảng 3. Lượng dăm gỗ nhập khẩu vào Trung Quốc đến hết tháng 5 năm 2016 (kg)
Country Lượng nhập (kg)
Úc 1.590.988.534
Việt Nam 1.513.148.392
Thái Lan 686.626.790
Indonesia 292.174.730
Chilê 257.035.951
Các nước khác 165.153.552
Tổng 4.505.127.949
Nguồn: Hải quan Trung Quốc, tổng hợp bởi Forest Trends
Hình 7. Lượng dăm gỗ nhập khẩu vào Trung Quốc đến hết tháng 5 năm 2016 (tấn)
Nguồn: Hải quan Trung Quốc, tổng hợp bởi Forest Trends
Bảng 4. Kim ngạch dăm gỗ nhập khẩu vào Trung Quốc đến hết tháng 5 năm 2016
Quốc gia Giá trị (USD)
Úc 282.862.871
Việt Nam 238.942.889
Thái Lan 103.290.145
Chilê 47.798.458
Indonesia 47.107.859
Các nước khác 27.305.869
Tổng 747.308.091
Nguồn: Hải quan Trung Quốc, tổng hợp bởi Forest Trends
8
Hình 8. Kim ngạch nhập khẩu dăm gỗ vào Trung Quốc đến hết tháng 5 năm 2016 (triệu USD)
Hình 9 và Hình 10 chỉ ra sự thay đổi lượng và kim ngạch nhập khẩu dăm từ các nguồn khác nhau vào thị
trường Trung Quốc từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2016.
Hình 9. Thay đổi lượng nhập dăm vào Trung Quốc
theo tháng đầu 2016 (kg)
Hình 10. Thay đổi về kim ngạch nhập dăm vào
Trung Quốc các tháng đầu 2016 (USD)
Nguồn: Hải quan Trung Quốc, tổng hợp bởi Forest Trends
Nguồn thống kê của Hải quan Trung Quốc cho thấy (Hình 9, Hình 10) lượng và kim ngạch nhập khẩu dăm
của Việt Nam đạt mức cao trong tháng 1-2 của năm 2016, tuy nhiên sau đó (tháng 3, 4) cả lượng và giá trị
đều giảm, thay thế bằng nguồn cung từ Úc và Thái Lan. Cũng theo nguồn dữ liệu thống kê này, thị phần
của dăm gỗ Việt Nam bị thay thế bởi dăm gỗ Úc và Thái Lan là những tín hiệu quan trọng, đòi hỏi ngành
dăm của Việt Nam cần tìm hiểu rõ nguyên nhân và có những phương sách hợp lý nhằm duy trì sự ổn định
thị phần của mình tại thị trường này, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh nguồn cung ngày càng trở nên gay
gắt hơn.
Phần 4 dưới đây sẽ tập trung vào ngành dăm của Việt Nam, với thông tin chủ yếu dựa trên các con số
thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam và các dữ liệu thu thập từ khảo sát thực địa.
9
4. Xuất khẩu dăm gỗ của Việt Nam
4.1. Việt Nam xuất khẩu dăm gỗ trong những năm gần đây
Dựa trên các con số thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam, lượng và giá trị dăm gỗ Việt Nam xuất khẩu
trong những năm gần đây được thể hiện qua Bảng 5 và Biểu đồ trong Hình 11. Theo Bảng 5, lượng dăm gỗ
xuất khẩu của Việt Nam năm 2015 đạt 8 triệu tấn, tương đương với gần 1,17 tỉ USD về kim ngạch. Các con
số này đều tăng nhanh so với các con số của năm 2014. Trong 5 tháng đầu 2016, tổng lượng dăm xuất
khẩu của Việt Nam đạt 1,8 triệu tấn, tương đương với khoảng 248 triệu USD về kim ngạch. Các con số này
nhỏ hơn rất nhiều so với các con số cùng kz của năm 2015 (2,98 triệu tấn, 430 triệu USD). Cụ thể, lượng
xuất khẩu của 5 tháng đầu 2016 chỉ bằng 61% lượng xuất khẩu cùng kz năm 2015; giá trị xuất khẩu 5 tháng
đầu 2016 chỉ bằng 58% giá trị xuất khẩu cùng kz của 1 năm trước đó. Điều này phản ánh sự suy giảm
nghiêm trọng trong xuất khẩu dăm của Việt Nam những tháng đầu năm 2016.
Bảng 5. Giá trị xuất khẩu dăm gỗ của Việt Nam từ 2013
Năm Lượng (Tấn) Trị giá (USD)
2013 7.063.461 983.390.245
2014 6.971.740 958.044.609
2015 8.076.870 1.166.400.705
5 tháng đầu 2016 1.826.295 248.146.898
Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016
Hình 11. Lượng dăm gỗ xuất khẩu của Việt Nam từ 2013
Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016
-
1
2
3
4
5
6
7
8
9
2013 2014 2015 5 T 2016
K
h
ố
i l
ư
ợ
n
g
(T
ri
ệ
u
t
ấn
)
10
Hình 12. Giá trị kim ngạch xuất khẩu dăm gỗ của Việt Nam từ 2013
Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016
4.2. Thị trường xuất khẩu dăm gỗ Việt Nam
Biểu đồ trong Hình 13 và Hình 14 thể hiện lượng và giá trị dăm gỗ của Việt Nam được xuất khẩu đi các thị
trường khác nhau trong thời gian gần đây.
Hình 13. Lượng dăm gỗ xuất khẩu của Việt Nam theo thị trường
Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016
Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc là những thị trường nhập khẩu dăm gỗ lớn nhất của Việt Nam, với
tổng lượng và giá trị nhập khẩu vào 3 thị trường này đạt trên 90% trong tổng lượng và giá trị xuất khẩu của
toàn ngành dăm. Chỉ tính riêng đối với thị trường Trung Quốc, trong năm 2015 Việt Nam xuất khẩu 4 triệu
tấn dăm sang thị trường này, với mức kim ngạch đạt gần 595 triệu USD. Trong cùng năm, các con số này từ
thị trường Nhật Bản là 3,2 triệu tấn, 451 triệu USD, và từ thị trường Hàn Quốc là 0,43 triệu tấn, 66,7 triệu
USD.
-
200
400
600
800
1,000
1,200
1,400
2013 2014 2015 5 T 2016
Tr
ị g
iá
(
Tr
iệ
u
U
SD
)
0.0
0.5
1.0
1.5
2.0
2.5
3.0
3.5
4.0
4.5
K
h
ố
i l
ư
ợ
n
g
(T
ri
ệ
u
t
ấn
)
2013 2014 2015 5 T 2016
11
Hình 14. Giá trị dăm gỗ xuất khẩu của Việt Nam theo thị trường
Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016
Phụ lục 1 thống kê chi tiết về lượng dăm Việt Nam xuất khẩu đi các thị trường. Phụ lục 2 thống kê chi tiết
về kim ngạch.
4.3. Các cảng biển xuất khẩu dăm gỗ Việt Nam thời gian gần đây
Dăm gỗ của Việt Nam được xuất khẩu qua hệ thống cảng biển đa dạng, giao động khoảng 30-85 cảng, tùy
thuộc vào hình thức xuất khẩu (FOB hoặc CIF) và tùy thuộc theo năm. Trong 2015, dăm gỗ của Việt Nam
đã được xuất khẩu qua 61 cảng khác nhau. Trong 5 tháng đầu năm 2016 đã có 29 cảng biển đã được sử
dụng để xuất khẩu.
Hình 15. Lượng dăm gỗ xuất khẩu theo cảng biển từ 2013
Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016
-
100
200
300
400
500
600
700
G
iá
t
rị
(
Tr
iệ
u
U
SD
)
2013 2014 2015 5 T 2016
-
500,000
1,000,000
1,500,000
2,000,000
2,500,000
K
h
ố
i l
ư
ợ
n
g
(B
D
M
T)
2013 2014 2015 5 T 2016
12
Trong hệ thống cảng sử dụng để xuất khẩu, chỉ có khoảng 10 cảng chủ đạo, với lượng và giá trị kim ngạch
lớn. Biểu đồ trong Hình 15 thể hiện sự thay đổi về lượng dăm xuất khẩu, Hình 16 chỉ ra sự thay đổi về giá
trị xuất khẩu dăm qua các cảng chính này. Phụ lục 3 chỉ ra lượng, Phụ lục 4 chỉ ra giá trị dăm xuất khẩu qua
các cảng.
Hình 16. Giá trị dăm gỗ xuất khẩu theo cảng biển, 2013- 5 tháng đầu năm 2016
Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016
Cái Lân là cảng xuất khẩu dăm quan trọng nhất của Việt Nam, tiếp đến là các cảng Nghi Sơn, Quy Nhơn,
Dung Quất. Năm 2015 lượng dăm xuất khẩu qua cảng Cái Lân đạt gần 1,5 triệu tấn, tương đương với 211
triệu USD về kim ngạch. Cùng trong năm này, các con số về lượng và kim ngạch của cảng Nghi Sơn là 1,2
triệu tấn, 176 triệu USD và của cảng Quy Nhơn là 1,15 triệu tấn, 163,5 triệu USD về kim ngạch
Số liệu hải quan của Việt Nam cho thấy lượng dăm xuất khẩu bình quân trong các tháng đầu năm 2016
qua hệ thống các cảng nhỏ hơn rất nhiều so với con số bình quân các tháng cùng kz năm 2015.
4.4. Suy giảm xuất khẩu dăm gỗ năm 2016
Số liệu Hải quan Việt Nam cho thấy lượng và giá trị dăm gỗ xuất khẩu 5 tháng đầu 2016 nhỏ hơn rất nhiều
so với lượng và giá trị xuất khẩu của các tháng cùng kz các năm trước đó. Số liệu thống kê từ nguồn Hải
quan Trung Quốc cũng cho thấy mức độ suy giảm trong xuất khẩu dăm của Việt Nam vào Trung Quốc, tuy
nhiên mức độ suy giảm nhỏ hơn nhiều so với con số từ nguồn thống kê của Hải quan Việt nam đưa ra
(xem chi tiết các con số thống kê của Hải quan Trung Quốc trong phần 3 của Báo cáo này). Cụ thể, Biểu đồ
trong Hình 17 và Hình 18 so sánh tổng khối lượng và tổng kim ngạch xuất khẩu của dăm gỗ 5 tháng đầu
năm từ 2013 đến năm 2016. Các biểu đồ này cho thấy khối lượng và kim ngạch dăm gỗ xuất khẩu trong 5
tháng đầu năm 2014 và 2015 tăng so với năm 2013 nhưng 5 tháng đầu năm 2016 giảm mạnh so với các
năm trước đó. Tổng khối lượng xuất khẩu dăm gỗ 5 tháng đầu năm 2016 đạt 1,8 triệu tấn khô, tương
đương với 61% lượng xuất khẩu 5 tháng đầu 2015 (2,98 triệu tấn). Giá trị kim ngạch 5 tháng đầu năm 2016
đạt 246 triệu USD, chỉ bằng 58% kim ngạch cùng kz của năm 2015 (430,4 triệu USD).
-
50,000,000
100,000,000
150,000,000
200,000,000
250,000,000
300,000,000
2013 2014 2015 5 T 2016
13
Hình 19 và Hình 20chỉ ra sự thay đổi lượng và giá trị dăm xuất khẩu của Việt Nam được thống kê theo các
tháng của năm, tính từ 2013. Phụ lục 5 chi tiết lượng xuất khẩu, phụ lục 6 chi tiết giá trị xuất khẩu được
chia theo các tháng tính từ 2013.
Hình 17. Khối lượng dăm xuất khẩu đến tháng 5
năm 2016 (nghìn tấn)
Hình 18. Kim ngạch xuất khẩu dăm đến tháng 5
năm 2016 (triệu USD)
Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016
Hình 19. Lượng dăm gỗ xuất khẩu của Việt Nam theo các tháng từ 2013 (tấn)
Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016
Hình 19 và Hình 20 cho thấy trong giai đoạn 2014- 2015, khối lượng và kim ngạch dăm gỗ xuất khẩu của
các tháng từ tháng 1 đến tháng 5 đều cao hơn các tháng cùng kz của năm 2013. Tuy nhiên, đến đầu 2016,
lượng và kim ngạch xuất khẩu dăm gỗ trong tháng 1-2 giảm rất nhiều so với các tháng cùng kz của các năm
trước đó. Cụ thể, khối lượng dăm gỗ xuất khẩu tháng 1 năm 2014 và 2015 đều đạt mức trên 600.000 tấn,
trong khi tháng 1 năm 2016 khối lượng xuất khẩu chỉ đạt 175.000 tấn. Lượng dăm gỗ xuất khẩu của tháng
2 năm 2016 giảm đột biến, chỉ đạt 28.000 tấn, chỉ tương đương 5,4% lượng xuất của tháng 2 năm 2015 và
7,8% lượng xuất của tháng 2 năm 2014.
-
500
1,000
1,500
2,000
2,500
3,000
3,500
2013 2014 2015 2016
-
50
100
150
200
250
300
350
400
450
500
2013 2014 2015 2016
-
200,000
400,000
600,000
800,000
1,000,000
1,200,000
1,400,000
2013 2014 2015 5 T 2016
14
Sang tháng 3 và tháng 4 năm 2016 khối lượng dăm gỗ xuất khẩu của Việt Nam đã tăng trở lại, đạt mức cao
hơn cùng kz năm 2015 nhưng giá trị kim ngạch xuất khẩu dăm chỉ tương đương. Điều này cho thấy sự tụt
giảm về giá xuất khẩu. Đến tháng 5, khối lượng xuất khẩu dăm gỗ đạt 461.000 tấn giảm 30% so với cùng kz
năm 2015, kéo theo sự suy giảm về kim ngạch (giảm 35%)
Hình 20. Kim ngạch dăm gỗ xuất khẩu của Việt Nam theo các tháng từ 2013 (USD)
Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016
4.5. Cơ cấu loài gỗ cho dăm gỗ xuất khẩu của Việt Nam
Hầu hết gỗ nguyên liệu làm dăm là gỗ keo, tràm, chiếm tỉ lệ trên 90% trong tổng cơ cấu gỗ nguyên liệu
dăm. Bảng 6 và Bảng 7 chỉ ra lượng và giá trị của từ loại gỗ nguyên liệu trong dăm xuất khẩu.
Bảng 6. Cơ cấu dăm xuất khẩu theo lượng và chủng loại gỗ giai đoạn 2013-2015
Tên gỗ
Lượng (kg)
2013 2014 2015
Keo/tràm 6.608.942 6.719.785 7.469.465
Bạch đàn 367.885 157.200 338.462
Khác (keo, bạch đàn, cao su, thông) 86.635 94.755 268.943
Tổng lượng XK 7.063.461 6.971.740 8.076.870
Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016
Thống kê của Hải quan Việt Nam cho thấy xuất khẩu dăm của Việt Nam trong năm 2016 không chỉ giảm về
lượng và giá trị mà còn giảm về số lượng doanh nghiệp tham gia thị trường xuất khẩu. Cụ thể, trong 5
tháng đầu năm 2016 chỉ có 64 doanh nghiệp tham gia thị trường xuất khẩu, giảm sâu từ con số 101 doanh
nghiệp của năm 2015. Suy giảm số lượng doanh nghiệp tham giam xuất khẩu dăm phản ánh các khó khăn
của thị trường xuất khẩu.
-
20,000,000
40,000,000
60,000,000
80,000,000
100,000,000
120,000,000
140,000,000
160,000,000
180,000,000
200,000,000
2013 2014 2015 5 T 2016
15
Bảng 7 Cơ cấu dăm xuất khẩu theo kim ngạch và chủng loại gỗ giai đoạn 2013-2015
Tên Gỗ
Trị giá (USD)
2013 2014 2015
Keo/tràm 919.511.869 923.801.617 1.081.979.207
Bạch đàn 52.863.364 21.152.500 45.366.800
Khác (keo, bạch đàn, cao su, thông) 11.015.012 13.090.492 39.054.698
Tổng giá trị XK 983.390.245 958.044.609 1.166.400.705
Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016
Dựa trên những thông tin thu thập được từ khảo sát thực địa, Phần 5 dưới đây tập trung phân tích những
thay đổi trong các khâu của chuỗi cung, từ các hộ trồng rừng đến khâu xuất khẩu.
5. Những thay đổi trong chuỗi cung ứng dăm xuất khẩu
5.1. Chuỗi cung ứng dăm gỗ xuất khẩu
Về cơ bản chuỗi cung ứng dăm gỗ xuất phát từ các hộ trồng rừng đến người thu mua vận chuyển, các cơ
sở sản xuất dăm gỗ và cuối cùng là người thu mua để xuất khẩu .
Hình 21. Chuỗi cung ứng ngành chế biến dăm gỗ xuất khẩu
Thông thường các hộ trồng rừng ít khi tham gia khai thác mà bán rừng trực tiếp cho các cơ sở khai thác và
vận chuyển. Sau khi khai thác, gỗ được tuyển chọn, với phần gỗ có đường kính lớn (trên 12 cm) được bán
cho các cơ sở chế biến như xẻ thanh hoặc làm ván ép, phần còn lại là gỗ có đường kính nhỏ, được chuyển
tới các nhà máy dăm. Ở các địa bàn không có các cơ sở chế biến gỗ thì toàn bộ số gỗ khai thác được bán
cho các nhà máy dăm.
Dăm gỗ, sau khi được chế biến, được vận chuyển và tập kết tại các điểm tập kết của các công ty/doanh
nghiệp thu mua dăm gỗ. Tùy thuộc vào địa phương mà các cơ sở thu mua được đặt tại các bến sông hoặc
bến cảng. Những địa phương như Đoan Hùng, Phú Thọ, dăm gỗ sẽ được tập kết, thu mua ở bến sông sau
đó được vận chuyển qua đường sông đến cảng biển. Ở những tỉnh như Thanh Hóa, Nghệ An, Bình Định,
Thu mua
khai thác
Các hộ trồng
rừng
Nhà máy
CB dăm
Thu mua dăm
và XK
Cty thu mua
dăm trung gian
Cty. Chế biến
và XK dăm
Xưởng xẻ,
ván bóc
Phế liệu
Giá mua rừng Giá mua gỗ N/L Giá mua dăm gỗ Giá dăm gỗ XK
16
Quảng Nam và Quảng Ngãi, dăm gỗ được vận chuyển trực tiếp ra cảng biển. Chính vì vậy, so với chuỗi
cung ứng dăm gỗ tại Thanh Hóa, Nghệ An, Bình định và Quảng Nam, chuỗi cung ứng dăm gỗ từ Phú Thọ ra
đến Quảng Ninh sẽ qua nhiều khâu trung gian hơn vì thêm khâu trung gian thu mua để vận chuyển bằng
đường sông.
5.2. Giá nguyên liệu dăm tại các khâu trong chuỗi cung ứng
Theo Thông Tư 182/2015/TT-BTC ngày 16/11/2015 của Bộ Tài Chính đưa ra mức thuế 2% đối với mặt
hàng dăm gỗ xuất khẩu. Vào thời điểm thuế xuất khẩu dăm gỗ bắt đầu có hiệu lực cũng là lúc giá dăm trên
thị trường thế giới giảm mạnh. Thay vì cắt giảm lợi nhuận của mình, hầu hết các doanh nghiệp chế biến và
xuất khẩu dăm đẩy các chi phí có liên quan đến thuế xuất khẩu cho người trồng rừng. Điều này làm cho giá
thu mua dăm gỗ trong nước giảm.
Bảng 8. Thay đổi giá trong các khâu của chuỗi cung 2015-20163
Giá trong chuỗi cung ứng Năm 2015 Năm 2016 Tỷ lệ giảm (%)
Giá dăm gỗ xuất khẩu (USD/tấn khô) 144 136 -5,6%
Chuỗi cung ứng: Phú thọ-Quảng Ninh
Giá thu mua dăm gỗ tại Phú Thọ (Ngàn đồng/tấn khô) 2.500 2.050 -18,0%
Giá thu mua dăm gỗ tại Cái Lân (Ngàn đồng/tấn khô) 2.870 2.420 -15,7%
Giá thu mua gỗ nguyên liệu tại Phú Thọ (Ngàn đồng/tấn tươi) 1.100 850 -22,7%
Giá thu mua gỗ nguyên liệu tại Hoành Bồ (Ngàn đồng/tấn tươi) 1.200 875 -27,1%
Giá thu mua rừng tại Phú Thọ (Ngàn đồng/tấn tươi) 800 550 -31,3%
Giá thu mua rừng tại Hoành Bồ (Ngàn đồng/tấn tươi) 850 525 -38,2%
Chuỗi cung ứng ở Nghệ An, Thanh Hóa
Giá mua dăm gỗ Thanh Hóa, Nghệ An (Ngàn đồng/tấn khô) 2.700 2.550 -5,6%
Giá mua gỗ nguyên liệu Thanh Hóa-Nghệ An (Ngàn đồng/tấn tươi) 1.210 1.115 -7,9%
Giá thu mua mua rừng tại Nghệ An (Ngàn đồng/tấn tươi) 675 625 -7,4%
Chuỗi cung ứng ở Quảng Nam – Quảng Ngãi
Giá xuất khẩu dăm gỗ Cảng Dung Quất (USD/tấn khô) 138 128 -7.2%
Giá gỗ nguyên liệu tại Núi Thành (Ngàn đồng/tấn tươi) 1.226 1.140 -7.0%
Giá mua rừng Núi Thành (Ngàn đồng/tấn tươi) 700 600 -14.3%
Chuỗi cung ứng ở Bình Định
Giá xuất khẩu Cảng Quy Nhơn (USD/tấn khô) 136 125 -8.1%
Giá gỗ N/L tại Quy Nhơn (Ngàn đồng/tấn tươi) 1.250 1.150 -8.0%
Giá mua rừng Vân Canh (Ngàn đồng/tấn tươi) 750 650 -13.3%
Nguồn: Số liệu khảo sát năm 2016
Năm 2016 ngành dăm đối mặt với sự giảm giá trong xuất khẩu. Giảm giá xuất khẩu tác động trực tiếp đến
giá thu mua nguyên liệu đầu vào, và điều này tác động trực tiếp tới các hộ trồng rừng. Mức độ tác động
phụ thuộc vào số lượng các khâu trung gian trong chuỗi cung ứng. Số lượng các khâu trung gian càng
3 Giá trong bảng là giá mua bán trên thực tế, theo thông tin khảo sát 2 tấn gỗ tươi bằng 1 tấn dăm khô, giá thu mua rừng được quy đổi cùng với các cơ
sở thu mua rừng theo năng suất và sản lượng rừng ở từng địa phương
17
nhiều thì các hộ trồng rừng càng bị ảnh hưởng mạnh. Bảng 8 thể hiện mức độ giảm giá trên 2 chuỗi cung
ứng trong đó Chuỗi cung ứng ở Phú Thọ-Quảng Ninh với nhiều khâu trung gian hơn bị ảnh hưởng mạnh
hơn so với chuỗi cung ở Nghệ An và Thanh Hóa. Tại Quảng Ninh và Phú Thọ giá thu mua dăm gỗ giảm rất
mạnh từ 15 đến 18% do vậy giá thu mua nguyên liệu cũng giảm từ 22-27%, giá mua rừng của các hộ gia
đình giảm từ 30-40% (Bảng 8). Tại Thanh Hóa và Nghệ An, khi giá thu mua dăm giảm 5,6% thì giá thu mua
nguyên liệu và mua rừng từ các hộ gia đình giảm từ 7-8%.
Các hộ trồng rừng tại Quảng Ninh và Phú Thọ khi thấy giá nguyên liệu giảm mạnh có xu hướng ngừng bán,
không khai thác rừng và chờ đợi giá mua nguyên liệu phục hồi trở lại.
5.3. Phát triển các cơ sở chế biến dăm quy mô nhỏ tại một số địa phương
Trong giai đoạn từ 2010 đến 2014 giá dăm gỗ tăng đã tạo lợi thế cho Việt Nam xuất khẩu dăm gỗ sang các
nước lân cận như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Từ đó, nhiều cơ sở thu mua dăm gỗ đã được hình
thành. Ở một số địa phương như Đoan Hùng - Phú Thọ, tại bến sông Lô, trước năm 2013 chỉ có 3 công ty
thu mua dăm gỗ; đến cuối năm 2014 đã xuất hiện 14 công ty trực tiếp tham gia vào thu mua và chế biến
dăm. Nhu cầu thu mua dăm gỗ tăng cao tạo ra sự cạnh tranh về nguyên liệu giữa các cơ sở thu mua chế
biến. Năm 2014 - 2015, nhiều cơ sở đã không quan tâm đến việc kiểm định chất lượng dăm, thu mua cả
dăm tạp, lẫn cả vỏ cây và các loại cây khác như gỗ xoan, gỗ xoài Điều này dẫn đến sự suy giảm về chất
lượng dăm gỗ. Hệ quả là dăm của nhiều cơ sở thu mua không đạt chất lượng và không xuất khẩu được
sang các thị trường khó tính như Nhật Bản và Hàn Quốc. Giá dăm gỗ xuất khẩu giảm, kết hợp với chất
lượng kém gây ra ùn tắc trong xuất khẩu, với lượng dăm gỗ bị tồn kho tại các bến sông, bến cảng lớn, gây
tổn thất cho các cơ sở thu mua, chế biến và xuất khẩu.
Chất lượng dăm giảm cũng có một phần là do sự phát triển nhanh chóng, tự phát và nằm ngoài sự kiểm
soát của chính quyền đối với các cơ sở chế biến và thu mua dăm tại một số địa phương. Tại một số địa
phương như Thanh Hóa, Nghệ An, nhiều cơ sở chế biến dăm quy mô nhỏ, bao gồm cả các cơ sở quy mô
hộ gia đình, với nhiều cơ sở hoạt động trái phép đã được mọc lên trong đó có nhiều cơ sở công suất nhỏ,
khoảng 100-150 tấn dăm/ngày. Sự phát triển tự phát, chạy theo thị trường dẫn đến hiện tượng tranh mua
tranh bán, bao gồm cả mất kiểm soát về chất lượng dăm, đã gây ảnh hưởng đến hình ảnh của toàn ngành.
5.4. Chi phí và lợi ích của các khâu trên chuỗi cung ứng.
Việc giảm giá dăm xuất khẩu đã ảnh hưởng đến hầu hết các khâu trong chuỗi cung ứng dăm. Tùy thuộc
vào quy mô kinh doanh và địa bàn hoạt động mà các nhóm tham gia chuỗi cung có mức độ ảnh hưởng
khác nhau.
Công ty xuất khẩu dăm
Các công ty xuất khẩu hiện đang đối mặt với rất nhiều khó khăn do việc giảm giá xuất khẩu. Giảm giá xuất
khẩu, cộng với 2% thuế xuất khẩu làm cho các doanh nghiệp bắt buộc phải mua dăm với giá thấp hơn. Giá
xuất khẩu giảm, cầu tiêu thụ dăm của Việt Nam tại thị trường Trung Quốc co lại dẫn đến ùn tắc trong xuất
khẩu. Khảo sát thực địa cho thấy lượng dăm tồn tại các doanh nghiệp là rất lớn. Thông tin khảo sát từ một
số doanh nghiệp cho thấy trong 6 tháng đầu năm 2016 lượng dăm gỗ xuất khẩu của các doanh nghiệp này
giảm từ 40% đến 70% so với cùng kz năm 2015. Nhiều doanh nghiệp hiện không xuất khẩu được, điều này
dẫn đến tồn kho một lượng dăm gỗ tương đối lớn tại một số cảng xuất.
18
Cơ sở chế biến dăm gỗ quy mô hộ gia đình
Các hộ gia đình có xưởng chế biến dăm gỗ thường nằm ở vùng nguyên liệu, mỗi hộ gia đình thường chỉ có
từ 1 đến 2 xưởng chế biến với một dây chuyền băm dăm có công suất 100-150 tấn/ngày. Trong thời điểm
giá dăm xuống thấp, các cơ sở này ngừng hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng vì không thể mua nguyên
liệu đầu vào với giá thấp. Thông tin khảo sát thực địa tại một số địa phương cho thấy sản lượng dăm gỗ
sản xuất ở các cơ sở chế biến dăm gỗ quy mô hộ gia đình năm 2016 chỉ đạt 10-20% so với cùng kz năm
2015. Điều này dẫn đến sự sụt giảm về doanh thu cũng như lợi nhuận của các cơ sở này. Đặc biệt, những
cơ sở chế biến dăm mới hình thành từ năm 2015 đã và đang chịu ảnh hưởng nặng nề vì chưa kịp hoàn
vốn, có khả năng thua lỗ vì lợi nhuận không đủ để trả lãi suất vay ngân hàng đầu tư vào chế biến.
Công ty thu mua dăm gỗ trung gian (ở cảng sông)
Các công ty thu mua dăm gỗ ở cảng sông (trước khi dăm gỗ được vận chuyển ra các cảng biển để xuất
khẩu) thường không xuất khẩu trực tiếp mà bán cho các công ty xuất khẩu dăm có kho tập kết dăm tại các
cảng nước sâu. Do vậy, cũng tương tự các công ty xuất khẩu dăm gỗ, bắt đầu từ cuối năm 2015 và đầu
2016, khi giá dăm xuất khẩu giảm các công ty thu mua dăm gỗ ở cảng sông đã phải giảm khối lượng thu
mua và giảm giá thu mua đầu vào nên lợi nhuận cũng giảm theo. Trong năm 2015, vào thời điểm nhu cầu
mua dăm gỗ tăng mạnh, để cạnh tranh mua, một số công ty thu mua dăm gỗ tại cảng sông đã không quan
tâm đến chất lượng dăm, thu mua cả dăm có gỗ tạp nên bị tồn khi giá bắt đầu giảm. Từ nửa cuối năm
2015 lượng dăm tồn đọng tại bến sông ở các địa phương như Phú Thọ, Thanh Hóa và Quảng Ninh tương
đối lớn. Chất lượng dăm kém, bao gồm nhiều tạp chất như vỏ cây, mảnh nhỏ của ván bóc đã làm cho chất
lượng dăm giảm rất nhanh, đặc biệt trong các điều kiện dăm phơi mưa gió tại một số bến cảng, nhà kho.
Hộ thu mua và khai thác rừng
Các hộ tham gia vào khâu mua rừng và khai thác rừng thường thu mua và tổ chức khai thác trong thời gian
ngắn, khoảng một tháng để trả lại mặt bằng cho các hộ trồng rừng, nên cũng không bị ảnh hưởng nhiều
khi giá xuất khẩu giảm. Thông thường các hộ mua rừng đến định giá rừng và thương lượng với các hộ
trồng rừng dựa trên mức giá nhập gỗ nguyên liệu của các nhà máy sơ chế gỗ nguyên liệu hoặc các nhà
máy dăm. Tuy nhiên, khi dăm được giá một số hộ gia đình tại Tuyên Quang, Phú Thọ đã mua rừng với
diện tích lớn trong năm 2015 nhưng không khai thác hết trong năm. Giá dăm xuất khẩu giảm năm 2016
làm cho các hộ này thua lỗ.
Hộ gia đình trồng rừng
Hộ trồng rừng đóng vai trò quan trọng trong nguồn cung nguyên liệu cho ngành dăm. Giảm giá dăm xuất
khẩu đã có ảnh hưởng rất lớn đến người trồng rừng. Với mức giá thu mua năm 2016, người dân trồng
rừng mất 30% doanh thu cho một ha keo trồng sau 5 năm so với mức giá năm 2015. Ví dụ tại Hoành Bồ
(Quảng Ninh), với 1 ha keo trồng sau 5 năm, hộ có thể bán được khoảng 50 triệu đồng trong năm 2015;
cũng với 1 ha này, với cùng chu kz khai thác (5 năm) năm 2016 hộ chỉ bán được 35 triệu. Khi giá thu mua
giảm, nhiều hộ không muốn bán rừng mà tìm kiếm các nguồn thu khác để đảm bảo sinh kế. Tuy nhiên,
nhiều hộ có hoàn cảnh kinh tế khó khăn và lệ thuộc lớn và nguồn rừng trồng vẫn phải bán rừng của mình
để tạo nguồn thu. Ở một số địa bàn thuộc huyện Hoành Bồ, một số hộ sống gần rừng tự nhiên tìm kiếm
nguồn thu thay thế từ các hoạt động khai thác truyền thống trước đây như thu lượm củi và thu hái lâm
sản phi gỗ trong rừng tự nhiên hiện đang được quản lý bởi các cơ quan lâm nghiệp của nhà nước.
19
Xưởng xẻ và ván bóc quy mô hộ gia đình
Nguyên liệu đầu vào của ngành dăm có một phần là các sản phẩm phụ từ các cơ sở chế biến khác như
xưởng xẻ và ván bóc. Theo khảo sát thực tế, đối với nguồn gỗ rừng trồng đường kính lớn được sử dụng
làm gỗ nguyên liệu chế biến của các xưởng xẻ và ván bóc, chỉ có khoảng 60-70% nguồn gỗ này được sử
dụng cho xẻ và bóc. Phần còn lại (30-40%) là các phần như củi, bìa bóc, chỉ có thể sử dụng được làm
nguyên liệu dăm.
Giá thu mua nguyên liệu đầu vào giảm cũng ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn thu của các cơ sở xẻ và bóc.
Theo ước tính của một chủ xưởng xẻ tại Đoan Hùng, Phú thọ thì 1 xe gỗ 20 tấn nguyên liệu đưa vào xưởng
xẻ thì sẽ có 7 tấn sản phẩm phụ (củi, tu, bìa bóc) làm nguyên liệu phục vụ các cơ sở sản xuất dăm. Năm
2015, giá bán sản phẩm phụ là 1,05 triệu đồng/tấn đến 2016 giá bán sản phẩm phụ giảm chỉ còn 750 ngàn
đồng/tấn, trung bình giảm 300 ngàn đồng/tấn. Như vậy, năm 2016, 1 xe gỗ 20 tấn nguyên liệu sẽ mất đi
2,1 triệu đồng so với năm 2016.
Người lao động
Chuỗi cung dăm xuất khẩu còn có sự tham gia đông đảo của nhiều người dân lao động, đặc biệt trong
khâu khai thác rừng, làm công nhân trong các công ty và doanh nghiệp chế biến dăm gỗ. Khi giá dăm xuất
khẩu giảm, quy mô của các khâu trong chuỗi cung, từ khai thác đến xuất khẩu giảm. Điều này tác động
trực tiếp tới những người lao động làm việc trong các khâu này. Thông tin khảo sát tại Hoành Bồ cho thấy
số lượng lao động tham gia khai thác rừng giảm khoảng 80% so với năm 2015. Trong các cơ sở chế biến
dăm gỗ, số lượng lao động cũng giảm từ 50% đến 70% tùy thuộc vào quy mô sản xuất.
6. Thảo luận: Chính sách, thị trường và sinh kế hộ trồng rừng
Ngành chế biến dăm gỗ xuất khẩu của Việt Nam đang trải qua một giai đoạn vô cùng khó khăn, thể hiện
qua các con số tụt giảm nghiêm trọng về cả khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. Cụ thể, con số thống kê
của Tổng cục Hải quan Việt Nam cho thấy lượng và kim ngạch xuất khẩu dăm của Việt Nam 5 tháng đầu
năm 2016 sụt giảm khoảng 40% so với lượng và kim ngạch 5 tháng cùng kz năm 2015. Tụt giảm về xuất
khẩu, bao gồm cả giá, đã và đang ảnh hưởng tiêu cực đến tất cả các khâu trong chuỗi cung ứng. Nhiều hộ
trồng rừng với nguồn thu hạn hẹp phải chấp nhận bán gỗ của mình với giá thấp hơn, từ đó dẫn đến suy
giảm nguồn thu. Các hộ có điều kiện kinh tế khá hơn thì tạm thời không bán rừng, kz vọng mức giá của
dăm sẽ tăng trở lại. Nhiều cơ sở băm dăm hạn chế hoặc dừng sản xuất, hoạt động sản xuất kinh doanh co
hẹp, điều này không những tác động trực tiếp đến các cơ sở này mà còn gây ảnh hưởng tới hàng nghìn lao
động trực tiếp làm việc tại các cơ sở này và tại các khâu khác trong chuỗi ứng. Giá xuất khẩu giảm, việc co
hẹp nhu cầu tiêu thụ dăm của Việt Nam tại thị trường Trung Quốc đã gây ra sự ùn tắc trong xuất khẩu, gây
thiệt hại cho các công ty trực tiếp tham gia xuất khẩu. Sụt giảm về xuất khẩu dăm làm ảnh hưởng trực tiếp
đến kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành gỗ. Hiện chưa có bất cứ dấu hiệu nào về tính ổn định của thị
trường tiêu thụ dăm, đặc biệt tại Trung Quốc đối với sản phẩm dăm của Việt Nam.
Cho đến nay, tại Việt Nam còn tồn tại nhiều ý kiến trái chiều về sự tồn tại và lớn mạnh của ngành dăm.
Trên 90% nguồn nguyên liệu dăm có nguồn gốc từ rừng trồng, chủ yếu là từ keo và tràm, trên 60% trong
lượng cung này là từ các hộ gia đình. Các cơ quan quản lý cho rằng xuất khẩu dăm gỗ thực chất vẫn là xuất
khẩu nguyên liệu thô, với giá trị gia tăng trong sản phẩm hầu như không có. Dựa trên quan điểm này, sử
dụng hoàn toàn nguồn gỗ rừng trồng để băm dăm không đem lại lợi ích kinh tế thỏa đáng cho các hộ trồng
rừng, trái lại làm mất cơ hội cải thiện sinh kế của hộ, bao gồm nhiều hộ dân nghèo sống ở vùng núi. Cùng
20
với các quan điểm này, ngành chế biến đồ gỗ cũng cho rằng ngành dăm hiện đang lãng phí nguồn nguyên
liệu, bởi trong bối cảnh ngành chế biến đồ gỗ phải phụ thuộc rất nhiều vào nguyên liệu gỗ nhập khẩu, sử
dụng gỗ rừng trồng băm dăm làm mất cơ hội trong việc tạo nguồn cung gỗ rừng trồng, đặc biệt là gỗ có
đường kính lớn cho ngành công nghiệp chế biến đồ gỗ. Điều này làm hạn chế việc tạo giá trị gia tăng cho
nguồn gỗ rừng trồng, từ đó kéo dài sự phụ thuộc của ngành chế biến gỗ vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu,
bao gồm cả việc nhập khẩu từ một số nguồn được coi là có độ rủi ro cao về nguồn gốc pháp lý.
Quan điểm về các hạn chế của ngành dăm đã được thể hiện trong chính sách của các cơ quan quản lý
được đưa ra nhằm hạn chế sản xuất và xuất khẩu dăm. Chiến lược Phát triển lâm nghiệp của Quốc gia đến
năm 2020 nêu rõ “giảm dần chế biến dăm giấy xuất khẩu.”4 Đề án tái cơ cấu ngành lâm nghiệp năm
2013 nhấn mạnh “điều chỉnh cơ cấu sản phẩm gỗnhất là các sản phẩm xuất khẩu theo hướng tăng tỷ
trọng giá trị lâm sản sử dụng nguồn nguyên liệu được gây trồng trong nước. hạn chế tối đa xuất khẩu
sản phẩm thô (bao gồm cả dăm gỗ)”.5 Kế hoạch hành động nâng cao giá trị sản phẩm gỗ qua chế biến giai
đoạn 2014-2020 đề ra mục tiêu “duy trì khối lượng dăm xuất khẩu 6 triệu tấn như hiện nay” và “đến năm
2020 chế biến dăm xuất khẩu 3 triệu tấn/năm (giảm 3 triệu tấn, tương đương với 50% so với năm 2015,
bình quân 10%/năm.” 6 Kế hoạch triển khai phương án quản lý sản xuất dăm gỗ giai đoạn 2014-2020 của
Bộ NN & PTNT năm 2015 nhấn mạnh: “rà soát, sắp xếp các cơ sở sản xuất dăm gỗ gắn với vùng nguyên
liệu nhằm đổi mới nâng cao hiệu quả trong sản xuất dăm.”7 Trong Quyết định 5115 của Bộ NN & PTNT về
việc Phê duyệt phương án quản lý sản xuất dăm giai đoạn 2014-2020 nêu rõ: “Quản lý chặt chẽ việc sản
xuất, chế biến dăm gỗ xuất khẩu, hạn chế tối đa việc sử dụng nguyên liệu gỗ khai thác từ rừng trồng để
sản xuất dăm, nhằm nâng cao giá trị sản phẩm chế biến từ gỗ rừng trồng khai thác trong nước.” Bên cạnh
đó, Quyết định cũng đưa ra định hướng “không phát triển cơ sở sản xuất dăm gỗ ở các vùng Đồng bằng
Sông Hồng, Tây Bắc, Tây Nguyên, Đồng Bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ.” Quyết định nhấn mạnh “hạn
chế phê duyệt đầu tư mới các cơ sở sản xuất dăm gỗ, chỉ xem xét trong trường hợp những dự án đầu tư
chế biến sau dăm gỗ giai đoạn từ năm 2016-2020, nhưng phải có sự thỏa thuận của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn.” Quyết định cũng đề nghị Chính phủ ”Tăng thuế xuất khẩu dăm gỗ lên từ 5-10%.
Áp mức thuế giá trị gia tăng là 10% và thuế doanh nghiệp là 25% đối với doanh nghiệp sản xuất dăm gỗ.”
Dựa trên các kiến nghị này, Thông tư 182 của Bộ Tài chính ban hành ngày 16 tháng 11 năm 2015 đã đưa ra
mức thuế xuất khẩu dăm gỗ là 2%, bắt đầu thực hiện từ đầu 2016.
Thông tin từ các doanh nghiệp dăm cho thấy với mức thuế 2%, chi phí sản xuất cho mỗi tấn nguyên liệu
dăm xuất khẩu tăng 2,5-2,8 USD. Theo kế hoạch của Chính phủ, thuế xuất khẩu dăm sẽ tiếp tục tăng trong
tương lai.
Thuế xuất khẩu dăm được áp dụng trong bối cảnh cảnh cung – cầu thế giới về dăm gỗ đang có nhiều thay
đổi. Đến nay, tại Châu Á, đặc biệt là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc vẫn là trung tâm tiêu thụ dăm của
toàn thế giới. Giá dầu thô trên thế giới giảm đã làm giảm giá thành vận chuyển. Điều này tạo động lực
trong việc giảm giá dăm trên thị trường thế giới. Tại Châu Á, Úc là quốc gia có lượng cung dăm rất lớn,
4
5 Quyết định 1565/QĐ-BNN-TCLN ngày 8 tháng 7 năm 2013 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phê duyệt “Đề án tái cơ cấu ngành lâm
nghiệp”.
6 Quyết định 919/QĐ-BNN-TCLN ngày 5 tháng 5 năm 2014 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phê duyệt kế hoạch hành động nâng cao giá trị
gia tăng sản phẩm gỗ qua chế biến giai đoạn 2014-2020
7 Quyết định 651/QĐ-BNN-TCLN ngày 27 tháng 2 năm 2015 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phê duyệt kế hoạch triển khai phương án
quản lý sản suất dăm gỗ giai đoạn 2014-2020.
21
cạnh tranh với lượng cung dăm từ Việt Nam. Bên cạnh đó, dăm của Úc có hàm lượng bột cao hơn nhiều so
với chất lượng dăm của Việt Nam (53-57% trong dăm của Úc, so với 40-50% trong dăm của Châu Á) (New
Forest, 2015). Trong tương lai, nguồn cung dăm có chất lượng cao, bao gồm cả dăm có chứng chỉ FSC từ
quốc gia này sẽ tiếp tục tăng ổn định. Giá dầu thô trên thế giới giảm dẫn đến giảm giá cước vận chuyển.
Điều này đã và đang tạo ra lợi thế cạnh cạnh lớn cho nguồn dăm của Úc trong việc chiếm lĩnh các thị
trường tiêu thụ dăm trong khu vực Châu Á. Dăm gỗ Việt Nam sẽ tiếp tục phải đối mặt với cạnh tranh rất
lớn với nguồn dăm từ Úc.
Bên cạnh đó, dăm gỗ từ Việt Nam cũng đang đứng trước sức ép cạnh tranh với nguồn cung dăm từ Thái
Lan, bởi các diện tích rừng trồng của quốc gia này bắt đầu đến chu kz khai thác và chi phí vận chuyển dăm
từ quốc gia này tới các thị trường tiêu thụ trong khu vực không có nhiều khác biệt so với chi phí vận
chuyển dăm từ Việt Nam. Số liệu thống kê của Hải quan Trung Quốc cho thấy một sự thật đáng báo động
cho ngành dăm của Việt Nam – thị phần dăm gỗ Việt Nam tại thị trường Trung Quốc trong các tháng đầu
của năm 2016 bị suy giảm, với sự suy giảm này được thay thế bởi sự gia tăng về nguồn cung dăm từ Úc và
Thái Lan (một phần từ Chi Lê). Cũng theo thống kê của Hải quan Trung Quốc, nhu cầu dăm gỗ tại thị
trường này không hề giảm mà vẫn đang tiếp tục gia tăng. Cho đến nay, tại Việt Nam vẫn chưa có thông tin
nào chắc chắn lý giải được sự co lại của thị phần dăm Việt Nam tại thị trường Trung Quốc. Tuy nhiên, một
trong những lý do dẫn đến sự suy giảm có thể là do chất lượng dăm của Việt Nam không ổn định, một
phần do chất lượng kém. Giá dăm trên thị trường thế giới giảm cùng với biến động về thị phần giữa các
nguồn cung tại Trung Quốc, quốc gia tiêu thụ dăm lớn nhất trên thế giới đã có tác động trực tiếp tới tình
hình sản xuất và xuất khẩu dăm tại Việt Nam. Việt Nam là nước cung dăm lớn nhất trên thế giới, tuy nhiên
vẫn chưa có vai trò quyết định đến việc vận hành của thị trường quốc tế. Nói cách khác, ngành dăm của
Việt Nam vẫn chưa tạo được thế chủ động trên thị trường quốc tế.
Báo cáo này cho rằng việc áp dụng 2% thuế xuất khẩu dăm kể từ đầu năm 2016 không phải là nguyên
nhân quan trọng dẫn đến sự tụt giảm lượng và kim ngạch xuất khẩu dăm của Việt Nam. Tuy nhiên, báo
cáo cho rằng thuế xuất khẩu 2% làm ngành chế biến xuất khẩu dăm của Việt Nam đã khó khăn lại càng trở
nên khó khăn hơn. Chí phí nguyên liệu tăng (2,5-2,8 USD/tấn) trong lúc nhu cầu tiêu thụ dăm của Việt Nam
tại Trung Quốc bị thu hẹp và giá xuất khẩu giảm đã làm cho mức độ cạnh tranh giữa các nguồn cung dăm
trên thị trường quốc tế trở nên khốc liệt hơn. Lệ thuộc vào thị trường tiêu thụ quốc tế, các doanh nghiệp
dăm của Việt Nam không thể tăng giá bán. Một số doanh nghiệp tìm cách chuyển các chi phí có liên quan
đến thuế xuất khẩu xuống khâu đầu tiên của chuỗi cung, là các hộ gia đình trồng rừng. Kết quả là những
hộ nghèo không có nguồn thu thay thế bắt buộc phải bán rừng và chịu thua thiệt, với lợi ích kinh tế từ
rừng trồng năm 2016 bị giảm 30-40% so với năm 2015. Một số doanh nghiệp khác cắt giảm lãi suất, chia sẻ
chi phí gia tăng do thuế với các hộ trồng rừng và các khâu khác trong chuỗi cung. Một số doanh nghiệp thu
nhỏ quy mô hoặc thậm chí ngừng sản xuất kinh doanh. Điều này tác động đến hàng trăm nghìn lao động
tham gia vào chuỗi cung ứng dăm.
Báo cáo này cũng cho rằng giá xuất khẩu dăm gỗ của Việt Nam giảm không chỉ bởi sự giảm giá mặt hàng
dăm trên thị trường thế giới mà còn do một số vấn đề nội tại của chính ngành dăm Việt Nam. Ngành dăm
Việt Nam hiện nay phát triển chưa đồng bộ, thiếu chiến lược dài hạn, vẫn còn mang nặng tính chạy theo
phong trào. Trong ngành dăm đã và đang có hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, phát triển mất kiểm
soát, đặc biệt là đối với cơ sở chế biến quy mô nhỏ, hộ gia đình ở một số địa phương. Báo cáo gần đây của
Ủy Ban Nhân Dân (UBND) tỉnh Thanh Hóa cho thấy trong 42 cơ sở sản xuất dăm gỗ nằm trong địa bàn tỉnh
thì chỉ có 11 cơ sở được chấp thuận sản xuất dăm gỗ, với tổng công suất 330.000 tấn/năm, trong khi công
22
suất băm dăm gỗ thực tế của các cơ sở này đã lên tới 729.000 tấn/năm, vượt 2,2 lần công suất cho phép.8
Điều này có nghĩa rằng 74% số cơ sở dăm hiện đang hoạt động trên địa bàn tỉnh là bất hợp pháp. Bên cạnh
đó, 26% số cơ sở hoạt động hợp pháp là các cơ sở hiện có công suất hoạt động vượt xa so với công suất
cho phép. Nếu nói theo một cách chặt chẽ thì hầu hết các cơ sở sản xuất dăm tại địa bàn này đều là các cơ
sở hoạt động không hợp pháp. Thanh Hóa không phải là địa phương duy nhất đang tồn tại thực trạng này;
một số địa bàn khác của tỉnh Nghệ An và Phú Thọ cũng có những vấn đề tương tự.
Phát triển tự phát, thậm chí mất kiểm soát của cơ sở chế biến dăm quy mô nhỏ tại một số địa phương
đang làm phát sinh một số vấn đề gây tác động tiêu cực đến toàn bộ ngành dăm, trong đó có vấn đề cạnh
tranh về nguồn nguyên liệu giữa các nhà máy dăm. Báo cáo của UBND tỉnh Thanh Hóa nhấn mạnh: “Tình
trạng thiếu nguyên liệu đã tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh, tranh mua, tranh bán, gây mất trật tự
xã hội Các cơ sở sản xuất dăm gỗ trái phép nhưng không được xử lý kịp thời” Cạnh tranh không lành
mạnh về nguồn nguyên liệu giữa các cơ sở chế biến dăm là một trong những nguyên nhân đẩy giá xuất
khẩu giảm sút. Cuộc chạy đua của các cơ sở sản xuất dăm, đặc biệt là các cơ sở quy mô nhỏ có hình hài của
một cuộc chạy đua xuống đáy, điều này đi ngược lại với xu thế phát triển trong sản xuất kinh doanh.
Phát triển nóng, chạy theo thị trường đặc biệt trong khối các cơ sở sản xuất dăm quy mô nhỏ dẫn đến hiện
tượng mất kiểm soát về chất lượng dăm xuất khẩu. Tại một số địa bàn của tỉnh Phú Thọ, một số cơ sở chế
biến đã trộn dăm với một số sản phẩm ván bóc, gây hiện tượng mùn hóa dăm trong thời gian ngắn. Một
số cơ sở sản xuất dăm của Thanh Hóa trộn dăm lẫn vỏ cây. Chất lượng dăm giảm, gây mất lòng tin khách
hàng, đặc biệt là tại các thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc. Chất lượng dăm giảm cũng tạo cơ
hội cho người nhập khẩu trong việc ép giá dăm gỗ xuất khẩu của Việt Nam. Điều này ảnh hưởng đến toàn
ngành dăm, bao gồm cả những địa phương có chất lượng dăm mảnh cao như vùng Quảng Ngãi, Bình
Định. Cho đến nay, hiện chưa có quy định hoặc chính sách nào của các cơ quan quản l{ quy định về chất
lượng dăm xuất khẩu. Bên cạnh đó, hiện cũng chưa có bất cứ một tổ chức hoặc hiệp hội nào có tiếng nói
đại diện cho cả ngành chế biến xuất khẩu dăm của Việt Nam. Thiếu vắng cơ chế kiểm soát chất lượng và
liên kết trong ngành dăm là các vấn đề nội tại rất lớn của ngành dăm, tác động đến sự sống còn của ngành
hiện tại và trong tương lai.
Hạn chế xuất khẩu dăm gỗ nhằm tạo nguồn nguyên liệu gỗ lớn cho ngành chế biến đồ gỗ xuất khẩu, tạo
giá trị gia tăng cho nguồn gỗ rừng trồng là định hướng hoàn toàn đúng đắn của các cơ quan quản lý. Thuế
xuất khẩu là một trong những công cụ quan trọng của Chính phủ, nhằm hạn chế sự phát triển ồ ạt của
ngành chế biến dăm, gây tác động tiêu cực không phải chỉ riêng cho ngành dăm mà còn cho toàn ngành gỗ
nói chung. Tuy nhiên, chính sách thuế xuất khẩu chỉ là một trong những điều kiện cần, chưa phải là đủ.
Chính sách này chỉ có thể phát huy được tác dụng trong những điều kiện sau:
Hộ gia đình trồng rừng có nguồn lực để trồng rừng gỗ lớn. Bên cạnh nguồn lực tiếp cận đất đai, hộ cần có
nguồn vốn đầu tư để trồng rừng gỗ lớn. Chu kz cây kéo dài đòi hỏi hộ phải có nguồn sinh kế thay thế.
Trong bối cảnh này, chỉ có các hộ có nguồn lực kinh tế mới có khả năng tham gia đầu tư. Ngược lại, các hộ
gia đình hạn hẹp về nguồn thu và nguồn sinh kế thay thế hạn chế, không ổn định sẽ không có nguồn lực
thực hiện hoạt động đầu tư này.
8 Thông báo số 76 của UBND Tỉnh Thanh Hóa ngày 17 tháng 5 năm 2016 về Kết luận của Phó Chủ tịch thường trực UBND Tỉnh Nguyễn Đức Quyền
tại Hội nghị nghe báo cáo kết quả kiểm tra, đánh giá tình hình hoạt độn sản xuất của các cơ sở băm dăm trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
23
Hạn chế về sinh kế của hộ gia đình trong việc tham gia đầu tư trồng rừng gỗ lớn có thể được giải quyết nếu
có các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài dành cho hộ. Các nguồn vốn này có thể là vốn vay ưu đãi trực tiếp
từ Chính phủ và /hoặc vốn đầu tư từ các công ty tư nhân, đặc biệt là các công ty cần nguồn nguyên liệu gỗ
rừng trồng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình (ví dụ công ty chế biến gỗ, xưởng xẻ). Mặc dù đến
nay đã có nhiều thảo luận và kiến nghị đối với Chính phủ về các chính sách tín dụng ưu đãi dành cho hộ
trồng rừng, hiện vẫn chưa có một chính sách cụ thể nào nhằm giải quyết các khó khăn trong việc tiếp cận
nguồn vốn lâu dài cho hộ. Bên cạnh đó, nguồn vốn đầu tư tư nhân vào trồng rừng thông qua hình thức
liên doanh liên kết với các hộ có đất đến nay vẫn rất hạn chế, bởi những khó khăn liên quan đến chi phí
giao dich (transaction cost), tính không chuyên nghiệp của các hộ trồng rừng khi tham gia vào các hoạt
động liên doanh liên kết với công ty. Các hạn chế này có thể được giảm thiểu nếu chính quyền địa phương
đóng vai trò mạnh mẽ hơn trong việc thúc đẩy kết nối hình thành liên doanh liên kết giữa công ty và các hộ
trồng rừng. Tuy nhiên, đến nay vai trò của chính quyền địa phương trong những mô hình này hết sức mờ
nhạt.
Tiếp cận với nguồn vốn dài hạn, ưu đãi chưa đủ để có thể giúp cho hộ gia đình phát triển trồng rừng gỗ
lớn. Giống, tiếp cận khoa học kỹ thuật và rủi ro thiên tai đối với rừng trồng đóng vai trò quan trọng cho hộ
gia đình trong việc quyết định trồng rừng làm dăm hay làm nguyên liệu chế biến gỗ. Hạn chế về tiếp cận
các nguồn giống tốt, chống chịu sâu bệnh và thời tiết khắc nghiệt như gió bão không cho phép các hộ gia
đình kéo dài chu kz rừng trồng của mình. Trong điều kiện hạn chế này, các hộ gia đình lựa chọn giải pháp
trồng rừng làm dăm và không lựa chọn trồng rừng gỗ lớn. Nói cách khác, bên cạnh việc tiếp cận về nguồn
vốn đầu tư, các giải pháp về khoa học công nghệ có tiềm năng sẽ góp phần thúc đẩy các hộ gia đình
chuyển đổi từ sản xuất nguyên liệu dăm sang nguyên liệu gỗ.
Tiếp cận thị trường cho các sản phẩm gỗ đầu ra của các hộ gia đình sẽ đóng vai trò rất quan trọng trong
quyết định của hộ trong việc lựa chọn trồng rừng làm dăm hay làm gỗ nguyên liệu cho ngành chế biến đồ
gỗ. Tại các địa phương như Thanh Hóa, Nghệ An nơi còn thiếu vắng các cơ sở chế biến gỗ nguyên liệu, giải
pháp kéo dài chu kz cây, tạo nguồn nguyên liệu gỗ lớn phục vụ cho ngành chế biến đồ gỗ không phải là giải
pháp tối ưu, thậm chí còn ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế trong việc trồng rừng của hộ. Thiếu các cơ sở
chế biến gỗ nguyên liệu bắt buộc các hộ gia đình phải bán gỗ làm dăm. Nói cách khác, trong bối cảnh thiếu
vắng các cơ sở chế biến gỗ nguyên liệu cho ngành chế biến thay thế cho ngành dăm, kéo dài chu kz cây
nhằm tạo gỗ lớn không đảm bảo nguồn gỗ này sẽ được đưa vào chế biến đồ gỗ.
Tóm lại, việc trồng rừng làm dăm hay làm nguyên liệu gỗ phụ thuộc vào một tập hợp các yếu tố có liên
quan đến nội tại của hộ trồng rừng và các yếu tố bên ngoài, trong đó chính sách của Nhà nước bao gồm cả
chính sách thuế xuất khẩu dăm chỉ là một yếu tố trong tập hợp đó. Để tạo được sự dịch chuyển sản xuất
dăm sang sản xuất nguyên liệu cho chế biến đồ gỗ cần một gói chính sách, bao gồm cả các chính sách
mang tính chất hỗ trợ và bắt buộc. Trong ngắn hạn, xuất khẩu dăm gỗ của Việt Nam vẫn còn là một kênh
thị trường quan trọng cho hàng triệu hộ gia đình trồng rừng và người lao động, trực tiếp góp phần vào cải
thiện sinh kế, nâng cao độ che phủ của rừng. Vấn đề cần giải quyết trong ngắn hạn là đảm bảo chất lượng
dăm xuất khẩu và tạo tiếng nói chung của cả ngành dăm, từ đó góp phần giảm thiểu nguy cơ ép giá từ
người mua, gây thua thiệt cho ngành dăm nói riêng và cả ngành gỗ nói chung.
24
7. Kết luận
Báo cáo này tìm hiểu thực trạng của ngành dăm gỗ Việt Nam trong thời gian gần đây. Báo cáo đưa ra một
số thông tin nhằm định vị vai trò của ngành dăm Việt Nam trên bản đồ cung – cầu của thị trường dăm gỗ
thế giới. Bên cạnh đó, Báo cáo chỉ ra một số vấn đề nội tại của ngành dăm, bao gồm các vấn đề có liên
quan trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của ngành dăm trong tương lai.
Mặc dù là một trong những quốc gia có nguồn cung dăm lớn nhất trên thế giới, vị thế của ngành dăm gỗ
Việt Nam trên bản đồ cung – cầu dăm còn tương đối mờ nhạt, chưa khẳng định được thế chủ động của
mình trong việc vận hành thị trường cung – cầu quốc tế. Những tín hiệu cung – cầu của thị trường quốc tế
về dăm trong thời gian gần đây cho thấy ngành dăm của Việt Nam đang và sẽ tiếp tục phải đối mặt với sự
canh tranh khốc liệt với các nguồn cung dăm lớn trên thế giới, đặc biệt là từ Úc và Thái Lan (một phần từ
Chi Lê). Báo cáo của Công ty New Forest (Úc), là công ty cung cấp dăm lớn nhất của Úc, một năm có lượng
cung dăm lên tới 4 triệu tấn/năm chỉ ra một số điểm yếu, thể hiện tính không bền vững của ngành dăm
Việt Nam, bao gồm các khó khăn về khía cạnh kinh tế, thiếu tiếp cận nguồn vốn đầu tư và hạn chế trong
chính sách xuất khẩu dăm của Chính phủ (New Forest, 2015). Đây là các khó khăn hạn chế sự mở rộng và
phát triển của ngành dăm Việt Nam trong tương lai.
Khó khăn của ngành dăm Việt Nam không chỉ sản sinh từ các khía cạnh thị trường xuất khẩu, mà còn bởi
chính bản thân nội tại của ngành. Phát triển nóng, chạy theo thị trường, mất kiểm soát về chất lượng, cạnh
tranh không lành mạnh đã và đang tác động trực tiếp đến hình ảnh của toàn ngành dăm Việt Nam, làm
giảm vị thế cạnh tranh của mặt hàng này trên trường quốc tế. Đây cũng chính là những tín hiệu của ‘cuộc
đua xuống đáy’ hiện đang diễn ra, đặc biệt trong các cơ sở chế biến quy mô nhỏ, mới được hình thành.
Mặc dù còn có nhiều ý kiến trái chiều về sự tồn tại và phát triển của ngành dăm, đến nay ngành dăm vẫn
còn có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo và duy trì sinh kế của các hộ gia đình trồng rừng, trong đó
có nhiều hộ dân nghèo. Bên cạnh đó, tồn tại của ngành dăm cũng góp phần quan trọng trong việc nâng
cao độ che phủ của rừng. Tuy nhiên, để ngành dăm tồn tại bền vững cần có những giải pháp mạnh mẽ,
trong đó đòi hỏi phải tạo ra được tiếng nói chung của toàn ngành và nâng cao vị thế của ngành trên thị
trường quốc tế thông qua việc kiểm soát chất lượng sản phẩm và nghiên cứu đánh giá thị trường. Định
hướng chuyển đổi từ sản phẩm dăm sang sản phẩm đồ gỗ là định hướng hoàn toàn đúng đắn của Chính
phủ. Tuy nhiên, để tạo được sự chuyển đổi cần có những gói giảm pháp về cơ chế chính sách bên cạnh
những đánh giá đúng đắn về năng lực của hộ trồng rừng. Thiếu vắng các yếu tố này dẫn đến các hạn chế
về hiệu quả của các định hướng hiện tại và trong tương lai.
25
Tài liệu tham khảo
Bộ Tài Chính, 2015. Thông Tư số 182/2015/TT-BTC ngày 16 tháng 11 năm 2015 Ban hành Biểu thuế xuất khẩu, biểu
thuế nhập khẩu ưu đãi theo danh mục mặt hàng chịu thuế.
New Forest. 2015. Pulp & Paper: Focus on hardwood opportunities. New South Wales: A Report.
Quyết định 1565/QĐ-BNN-TCLN ngày 8 tháng 7 năm 2013 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phê duyệt
“Đề án tái cơ cấu ngành lâm nghiệp”.
Quyết định 919/QĐ-BNN-TCLN ngày 5 tháng 5 năm 2014 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phê duyệt kế
hoạch hành động nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm gỗ qua chế biến giai đoạn 2014-2020
Quyết định 651/QĐ-BNN-TCLN ngày 27 tháng 2 năm 2015 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phê duyệt kế
hoạch triển khai phương án quản lý sản xuất dăm gỗ giai đoạn 2014-2020.
RISI. 2016. International Pulpwood Trade Review 2016. At website:
international-pulpwood-trade-review/
Trần Lê Huy và Tô Xuân Phúc, 2013. Ngành công nghiệp dăm gỗ Việt Nam: Thực trạng và xu hướng phát triển trong
tương lai. Forest Trends, FPA Bình Định, VIFORES. Hà Nội, tháng 5 năm 2013.
Tô Xuân Phúc, Trần Lê Huy, Nguyễn Tôn Quyền, Huznh Văn Hạnh, Cao Thị Cẩm, 2015. Xuất khẩu dăm gỗ của Việt
Nam 2012-2014. Forest Trends, HAWA, VIFORES, FPA Bình Định. Hà Nội, tháng 6 năm 2016.
26
Phụ lục
Phụ lục 1. Khối lượng dăm gỗ xuất khẩu của VN theo thị trường, 2013–5 tháng đầu năm 2016
Các nước
Lượng (Tấn khô)
2013 2014 2015 5 T 2016
Trung Quốc 4.223.510 3.680.632 4.084.667 512.548
Nhật Bản 2.202.691 2.348.872 3.169.567 550.499
Hàn Quốc 455.997 525.235 432.688 98.008
Singapore 71.519 97.000
368.255
Hồng Kông 800 36.125
293.732
Andorra
32.629 285.241
Đài Loan 90.700 89.106 59.960
Ấn Độ 17.000 21.500 23.300
Zimbabwe
133.130 20.119
Các nước khác 1.244 7.509 1.329 3.254
Tổng cộng 7.063.461 6.971.740 8.076.870 1.826.295
Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016
Phụ lục 2. Giá trị xuất khẩu dăm gỗ của VN theo thị trường giai đoạn 2013–5 tháng đầu năm 2016
Các nước
Trị giá (USD)
2013 2014 2015 5 T 2016
Trung Quốc 600.541.461 510.844.618 594.999.493 67.759.625
Nhật Bản 291.227.360 313.679.429 451.075.789 77.101.499
Hàn Quốc 66.478.547 75.335.636 66.710.335 13.663.676
Singapore 11.101.839 12.478.000
49.850.232
Hồng Kông 96.800 4.656.764
38.591.487
Andorra
4.989.200 38.848.810
Đài Loan 11.567.500 10.975.868 7.627.416
Ấn Độ 2.201.500 3.547.500 3.829.000
Zimbabwe
20.520.440 3.093.601
Các nước khác 175.237 1.017.152 216.260 1.180.378
Tổng cộng 983.390.245 958.044.609 1.166.400.705 248.146.898
Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016
27
Phụ lục 3. Khối lượng dăm gỗ xuất khẩu của Việt Nam theo các cảng biển
Cảng
Lượng (Tấn khô)
2013 2014 2015 5 T 2016
Cảng Cái Lân 984.860 895.279 1.472.644 153.443
Cảng Nghi Sơn 293.183 813.160 1.211.014 274.898
Cảng Qui Nhơn 1.068.950 766.050 1.147.758 168.010
Cảng Dung Quất 815.854 477.238 827.256 290.500
Cảng QT Germadept DQ 712.545 523.871 724.229 260.000
Cảng Chân Mây 557.200 493.000 535.996 94.067
Cảng Vũng Áng 493.800 371.691 447.605 100.387
Cảng SITV 288.625 191.300 291.000 34.000
Cảng Cửa Lò 145.654 171.503 286.479 105.270
Cảng Tiên sa 411.605 189.652 260.533 105.000
Các cảng khác 1.291.186 2.078.996 872.356 240.721
Tổng cộng 7.063.461 6.971.740 8.076.870 1.826.295
Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016
Phụ lục 4. Giá trị xuất khẩu dăm gỗ của Việt Nam theo các cảng biển
Cảng
Trị giá (USD)
2013 2014 2015 5 T 2016
Cảng Cái Lân 133.610.764 121.750.328 211.124.197 21.387.308
Cảng Nghi Sơn 43.580.619 117.146.717 175.933.904 36.525.825
Cảng Qui Nhơn 159.392.100 106.580.650 163.563.554 21.872.177
Cảng Dung Quất 109.658.666 62.907.020 117.648.688 39.914.500
Cảng QT Germadept DQ 107.203.083 80.960.646 111.852.452 35.890.683
Cảng Chân Mây 73.677.550 64.745.690 78.128.803 13.122.503
Cảng Vũng Áng 68.388.892 50.196.897 64.101.780 13.557.786
Cảng SITV 34.550.760 24.493.484 40.426.200 4.596.000
Cảng Cửa Lò 20.038.090 22.525.398 40.379.577 13.519.840
Cảng Tiên sa 55.240.296 25.273.756 37.000.224 14.593.880
Các cảng khác 178.049.425 281.464.024 126.241.326 33.166.397
Tổng cộng 983.390.245 958.044.609 1.166.400.705 248.146.898
Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016
28
Phụ lục 5. Lượng dăm gỗ xuất khẩu của Việt Nam theo các tháng từ 2013
Tháng
Lượng (Tấn)
2013 2014 2015 5 T 2016
Tháng 1 474.482 615.751 685.356 175.280
Tháng 2 482.061 629.654 532.892 28.827
Tháng 3 564.988 669.874 501.242 525.245
Tháng 4 608.261 629.350 604.780 635.614
Tháng 5 517.763 545.859 659.162 461.329
Tháng 6 643.806 426.723 609.913
Tháng 7 606.104 304.550 673.548
Tháng 8 636.323 734.163 684.846
Tháng 9 714.742 547.516 607.967
Tháng 10 627.083 631.989 675.631
Tháng 11 463.054 574.967 648.645
Tháng 12 724.794 661.343 1.192.889
Tổng XK 7.063.461 6.971.740 8.076.870 1.826.295
Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016
Phụ lục 6. Giá trị xuất khẩu dăm gỗ của Việt Nam theo các tháng từ 2013
Tháng
Trị giá (USD)
2013 2014 2015 5 T 2016
Tháng 1 66.266.621 87.514.966 98.527.799 24.324.371
Tháng 2 67.820.738 87.878.806 77.939.447 4.060.878
Tháng 3 78.978.643 91.918.207 71.548.192 73.332.675
Tháng 4 86.491.514 83.848.556 87.005.955 85.178.053
Tháng 5 75.549.353 73.014.946 95.387.740 61.250.921
Tháng 6 91.472.544 56.705.141 87.121.599
Tháng 7 82.775.978 39.579.112 97.293.801
Tháng 8 86.138.590 97.445.926 99.007.249
Tháng 9 96.732.541 74.585.256 88.315.176
Tháng 10 86.239.386 89.422.273 97.514.535
Tháng 11 63.039.737 81.558.710 94.328.985
Tháng 12 101.884.599 94.572.711 172.410.227
Tổng XK 983.390.245 958.044.609 1.166.400.705 248.146.898
Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016
29
Phụ lục 7. Lượng dăm gỗ xuất khẩu của Việt Nam theo loại gỗ giai đoạn 2013 –năm 2015
Tên gỗ
Khối lượng (BDMT)
2013 2014 2015
Keo/tràm 6.608.942 6.719.785 7.469.465
Bạch đàn 367.885 157.200 338.462
Khác (keo, bạch đàn, cao su, thông) 86.635 94.755 268.943
Tổng XK 7.063.461 6.971.740 8.076.870
Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016
Phụ lục 8. Giá trị dăm gỗ xuất khẩu của Việt Nam theo loại gỗ giai đoạn 2013 –năm 2015
Tên gỗ
Trị giá (USD)
2013 2014 2015
Keo/tràm 919.511.869 923.801.617 1.081.979.207
Bạch đàn 52.863.364 21.152.500 45.366.800
Khác (keo, bạch đàn, cao su, thông) 11.015.012 13.090.492 39.054.698
Tổng XK 983.390.245 958.044.609 1.166.400.705
Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_cao_viet_nam_xuat_khau_dam_go_2016_final_6859_2208234.pdf