Tài liệu Xu hướng phát triển của thị trường tài chính Việt Nam và những đòi hỏi hoàn thiện chính sách lãi suất tiến tới hội nhập kinh tế: Chương III.
Xu hướng phát triển của thị trường tài chính Việt Nam và những đòi hỏi hoàn thiện chính sách lãi suất tiến tới hội nhập
kinh tế.
Qua chương 2 chúng ta có thể nhận thấy bối cảnh kinh tế của từng giai đoạn có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến mục tiêu điều hành chính sách lãi suất trong từng giai đoạn. Trong quá trình hội nhập kinh tế sắp tới, việc đi đánh giá những tác động của hội nhập kinh tế đến nền kinh tế Việt Nam nói chung và thị trường tài chính nói riêng là cần thiết để thấy được đòi hỏi phải hoàn thiện chính sách lãi suất theo hướng tự do hoá, từ đó đưa ra một số gợi ý về điều hành chính sách lãi suất trong thời gian tới. Đó cùng là nội dung chính được nghiên cứu trong chương này.
1.Tác động của hội nhập kinh tế đến nền kinh tế Việt Nam nói chung và thị trường tài chính nói riêng.
Có thể nói quá trình hôị nhập kinh tế đang diễn ra một cách rộng khắp trên toàn thế giới. Việt Nam cũng đang trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới. Trong quá trình đó, tự do và ...
32 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1128 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Xu hướng phát triển của thị trường tài chính Việt Nam và những đòi hỏi hoàn thiện chính sách lãi suất tiến tới hội nhập kinh tế, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương III.
Xu hướng phát triển của thị trường tài chính Việt Nam và những đòi hỏi hoàn thiện chính sách lãi suất tiến tới hội nhập
kinh tế.
Qua chương 2 chúng ta có thể nhận thấy bối cảnh kinh tế của từng giai đoạn có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến mục tiêu điều hành chính sách lãi suất trong từng giai đoạn. Trong quá trình hội nhập kinh tế sắp tới, việc đi đánh giá những tác động của hội nhập kinh tế đến nền kinh tế Việt Nam nói chung và thị trường tài chính nói riêng là cần thiết để thấy được đòi hỏi phải hoàn thiện chính sách lãi suất theo hướng tự do hoá, từ đó đưa ra một số gợi ý về điều hành chính sách lãi suất trong thời gian tới. Đó cùng là nội dung chính được nghiên cứu trong chương này.
1.Tác động của hội nhập kinh tế đến nền kinh tế Việt Nam nói chung và thị trường tài chính nói riêng.
Có thể nói quá trình hôị nhập kinh tế đang diễn ra một cách rộng khắp trên toàn thế giới. Việt Nam cũng đang trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới. Trong quá trình đó, tự do và hội nhập kinh tế trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng đã trở thành một nội dung chủ yếu, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hầu hết các quan hệ kinh tế, tài chính của mỗi quốc gia. Trong vòng hai thập kỉ qua nhiều nước phát triển và đang phát triển cũng như các nền kinh tế chuyển đổi đã có những bước đi quan trọng để tự do hoá hệ thống tài chính của mình thông qua việc mở rộng thị trường, đổi mới các công cụ tài chính, các biện pháp quản lí hành chính và can thiệp của Nhà nước đối với các hoạt động tài chính, tiền tệ. Mục tiêu của tự do hoá là làm cho các hoạt động tài chính được thực hiện theo tín hiệu thị trường, vốn được luân chuyển tự do hơn mà không bị ngăn cản bởi các biện pháp quản lí hành chính. Tự do hóa tài chính còn nhằm thúc đẩy sự phát triển sáng tạo trong lĩnh vực tài chính, tăng cường tính cạnh tranh, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng. Quá trình này đã và đang tạo ra nhiều cơ hội cũng như đặt ra nhiều thách thức cho hệ thống tài chính tiền tệ của mỗi nước.
Những cơ hội của tự do hoá và hội nhập quốc tế về tài chính, tiền tệ.
Hội nhập và hệ thống tài chính tiền tệ quốc tế mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho mỗi quốc gia và toàn thế giới. Những thành tựu kinh tế trong thời gian qua mà các nước đang phát triển đạt được có sự đóng góp không nhỏ của quá trình này. Có thể đánh giá những lợi ích của hội nhập tài chính tiền tệ quốc tế trên nhữnh khía cạnh chủ yếu sau:
1.1.1. Góp phần nâng cao hiệu quả phân phối nguồn lực và thúc đẩy phát triển kinh tế.
Khi đánh giá những lợi ích từ quá trình hội nhập kinh tế có một điều mà hầu hết các quốc gia đều nhận thấy đó là khả năng để các quốc gia có thể huy động được nguồn tiết kiệm từ bên ngoài, cho phép các thực thể kinh tế được tự do lựa chọn nơi vay, nơi đầu tư, trao đổi tài sản sao cho có lợi nhất. Đặc biệt đối với các nền kinh tế đang phát triển, tỷ lệ vốn tính trên đầu người còn thấp như Việt Nam thì việc mở cửa cho dòng vốn nước ngoài vào sẽ giúp cho các nền kinh tế này tăng nhanh tốc độ tích tụ vốn và có thể mở rông đầu tư trong nước mà không bị hạn chế, phụ thuộc vào nguồn vốn nội địa và tích luỹ trong nước. Đầu tư nước ngoài có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển, giúp họ có cơ hội tiếp cận dễ dàng với công nghệ mới, trình độ quản lí và kinh doanh tiên tiến, kỹ năng quản trị rủi ro và nâng cao hiệu quả sản xuất, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Đồng thời quá trình này cũng góp phần cải thiện hiệu quả phân phối, sử dụng các nguồn lực thông qua sự gia tăng cạnh tranh, tăng khả năng sẵn có của nguồn tài chính để đáp ứng nhu cầu đầu tư, tài trợ thương mại, hỗ trợ các lĩnh vực kinh tế quan trọng khác.
1.1.2. Tăng cường khả năng thanh toán và thúc đẩy thị trường tài chính trong nước phát triển ổn định.
Khi mục tiêu thu hút nguồn vốn nước ngoài chảy vào, nhất là luồng vốn đầu tư gián tiếp đạt hiệu quả thì nó sẽ có tác dụng làm tăng khả năng thanh toán và hiệu suất của thị trường vốn nội địa. Thị trường vốn phát triển và có khả năng thanh toán cao sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư cải thiện danh mục đầu tư của mình, các TCTD và ngân hàng mở rộng tín dụng và phát triển dịch vụ một cách hiệu quả. Tự do hoá tài chính và luân chuyển vốn quốc tế sẽ góp phần bình ổn đầu tư và tiêu dùng trong nền kinh tế thông qua khả năng vay vốn từ nước ngoài và đầu tư ra nước ngoài, kìm giữ được mức tiêu dùng và đầu tư phù hợp với mức sản xuất và thu nhập của nền kinh tế. Sự phát triển của thị trường tài chính nhờ tác dụng của dòng vốn nước ngoài đã tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân có thể trao đổi thu nhập tương lai lấy tiêu dùng, đầu tư hiện tại và ngược lại. Trên cơ sở đó mức tiêu dùng và đầu tư được bình ổn. Khi thị trường tài chính có khả năng thanh toán cao, các dòng vốn đầu tư gián tiếp trên thị trường sẽ có xu hướng vận động linh hoạt hơn, từ đó kích thích các nhà đầu tư, các định chế tài chính và doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn.
1.1.3. Tăng cường chất lượng hoạt động của hệ thống ngân hàng và các trung gian tài chính khác.
Một lợi ích quan trọng nữa của hội nhập tài chính- tiền tệ là góp phần củng cố nâng cao chất lượng hoạt động của các ngân hàng, trung gian tài chính . Nhờ mở cửa mà các ngân hàng trong nước có thể bổ sung được nguồn vốn hoạt động từ các nguồn bên ngoài, tiếp cận được các công nghệ ngân hàng tiên tiến, mở rộng hoat động kinh doanh về ngoại hối, chứng khoán, phát triển các dịch vụ ngân hàng mới. Hơn nữa, mở cửa sẽ tăng cường sức ép cạnh tranh từ bên ngoài, buộc các NHTM trong nước phải cải tiến quản lí, tuân thủ các nguyên tắc thị trường, đổi mới kiểm soát nội bộ, phòng ngừa rủi ro và giám sát an toàn hoạt động, mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ tốt hơn, cải thiện vị thế của mỗi quốc gia trên thị trường thế giới.
Hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế, cùng với dòng vốn sẽ là kinh nghiệm quản lí, kỹ thuật phòng ngừa rủi ro, công nghệ và sản phẩm mới được đưa vào thị trường nội địa. Các yếu tố này có thể làm tăng hiệu quả cung cấp dịch vụ của các ngân hàng và các tổ chức tài chính, tăng cường khả năng quản lí rủi ro đối với các hoạt động tài chính trong nước và quốc tế.
1.1.4. Hội nhập quốc tế thúc đẩy và duy trì hệ thống chính sách lành mạnh.
Trong một nền kinh tế với thị trường tài chính mở, nếu các chính sách không lành mạnh và thiếu ổn định, các qui định quản lí không hợp lí có thể gây nên những bất ổn kinh tế, từ đó nảy sinh tình trạng bất ổn của các dòng vốn. Do vậy, mở cửa thị trường tài chính sẽ là động lực thúc đẩy các nước phải phát triển và duy trì hệ thống chính sách lành mạnh và đáng tin cậy, tăng cường các công cụ quản lí hiệu quả và nâng cao tính minh bạch trong chính sách và hệ thống các công cụ quản lí. Đặc biệt chính sách tiền tệ quốc gia của NHTƯ không thể đứng độc lập mà phải đặt trong bối cảnh của một nền kinh tế mở, có sự tham gia vào các hiệp định kinh tế khu vực và quốc tế, chẳng hạn như AFTA, IMF, WB, WTO với nhiều ràng buộc và điều kiện. Đồng thời quá trình hội nhập kinh tế sẽ đưa đến nhiều thay đổi về mặt cơ cấu cho nền kinh tế có liên quan đến việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ. Với vai trò là một chính sách kinh tế vĩ mô điều tiết nền kinh tế, chính sách tiền tệ cần phải có những điều chỉnh sao cho thích hợp với quá trình thay đổi cơ cấu này. Mà những điều chỉnh đó có thể dẫn đến sự thay đổi các mục tiêu của chính sách tiền tệ, các chiến lược dài hạn, các công cụ và khuôn khổ thể chế tối ưu cho chính sách tiền tệ.
1.2. Những thách thức của hội nhập tài chính tiền tệ
Những lợi ích của hội nhập tài chính tiền tệ trên đây là rõ ràng, nhưng phần lớn là lợi ích tiềm năng. Mức độ đạt được những lợi ích đó như thế nào còn phụ thuộc vào điều kiện, trình độ phát triển, công cụ chính sách và bước đi cụ thể của mỗi quốc gia. Nếu không có chính sách đúng đắn và phù hợp thì không những không thu được lợi ích mà còn làm cho nền kinh tế phải đối mặt với những rủi ro lớn. Một hệ thống tài chính- ngân hàng được tự do hóa và hội nhập quốc tế theo một tiến trình không thích hợp, thiếu sự giám sát thận trọng, kết hợp với môi trường kinh tế vĩ mô kém ổn định, các chính sách không đồng bộ có thể gây ra nguy cơ của khủng hoảng hoặc sự hỗn loạn. Có thể đánh giá những rủi ro và tác động tiêu cực của hội nhập tài chính, tiền tệ theo những khía cạnh chủ yếu sau:
1.2.1. Những rủi ro của quá trình chuyển dịch từ hệ thống tài chính kiểm soát trực tiếp sang hệ thống tài chính tự do
Kiểm soát tài chính bằng các công cụ trực tiếp là đặc trưng của hầu hết các nền kinh tế đang phát triển. Mặc dù kiểm soát tài chính trực tiếp đã có ý nghĩa tích cực nhất định trong những điều kiện cụ thể, nhưng không thể tiếp tục duy trì các phương pháp này trong một thế giới đang toàn cầu hoá và hội nhập ngày càng cao như hiện nay. Khi hội nhập vào hệ thống tài chính, tiền tệ quốc tế thì phương pháp can thiệp của chính phủ đối với các hoạt động tài chính cần phải được thay đổi. Sự dịch chuyển từ hệ thống tài chính được kiểm soát trực tiếp sang hệ thống tài chính tự do hoá ở các nước đang phát triển trong thời gian qua đã chứng minh tầm quan trọng của vấn đề này. Quá trình tự do hoá tài chính của các nước Mỹ la tinh từ những năm 80 được tiến hành khá nhanh chóng bởi việc mở cửa các giao dịch tài chính quốc tế và giải trừ các qui định điều chỉnh, các qui chế kiểm soát hoạt động tài chính- ngân hàng một cách không đồng bộ, thiếu lành mạnh đã dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Đó là việc vốn chạy ồ ạt ra khỏi đất nước để tránh những rủi ro biến động trong nước. Ngược lại, việc chuyển từ hệ thống tài chính kiểm soát trực tiếp sang kiểm soát gián tiếp ở một số nước châu á theo một tiến trình thận trọng hơn đã đem lại sự tăng trưởng và ổn định qua nhiều năm cho tới khi cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra năm 1997.
Như vậy, trong quá trình tự do hoá tài chính thì việc chuyển dịch từ hệ thống kiểm soát trực tiếp sang hệ thống kiểm soát gián tiếp là một bộ phận quan trọng và cần thiết của quá trình hội nhập. Quá trình này là một quá trình phức tạp và rất nhạy cảm, do đó cần phải tính đến các yếu tố về di chuyển các luồng vốn quốc tế cũng như sự thâm nhập của các yếu tố nước ngoài vào hoat động cuả hệ thống ngân hàng quốc gia
1.2.2. Những thách thức từ sự hội nhập thị trường tài chính và dòng luân chuyển vốn.
Khi mở cửa cho vốn được luân chuyển tự do qua biên giới, nếu thiếu các biện pháp củng cố hệ thống tài chính, ngân hàng trong nước thì các rủi ro sau có thể sẽ phát sinh:
Thứ nhất, đó là rủi ro liên quan đến khả năng vốn đầu tư nước ngoài bị rút ra đột ngột với khối lượng lớn. Nguyên nhân có thể là do ảnh hưởng của những biến động kinh tế lan rộng từ các nước trong khu vực. Khi khó khăn nảy sinh ở một quốc gia khác, các nhà đầu tư có thể cảm nhận được sự ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế của quốc gia mà họ đang đầu tư thông qua các mối quan hệ về thương mại, quan hệ vay nợ hoặc sự liên kết giữa các hệ thống tài chính, ngân hàng, nên họ sẽ có động cơ rút vốn để tránh rủi ro. Cũng có thể do ảnh hưởng của một chính sách và môi trường kinh tế- chính trị, có thể tác động đến tâm lí của các nhà đầu tư. Ví dụ, một chính sách tiền tệ không thích hợp, gây ra áp lực lạm phát và làm giảm giá trị đồng tiền, gây mất ổn định kinh tế. Hay một chính sách tài khoá không đáng tin cậy cũng có thể gây ra thâm hụt tài chính lớn, mức nợ gia tăng, làm xói mòn lòng tin của các nhà đầu tư.
Thứ hai, luân chuyển vốn qua biên giới có thể gây mất cân đối vĩ mô làm thay đổi tỷ giá hối đoái, ảnh hưởng đến cán cân than toán. Nếu dòng vốn chảy vào trong nước quá lớn có thể thúc đẩy khả năng vay ngoại tệ với mức độ lớn một cách thiếu thận trong, hiện tượng này sẽ nguy hiểm hơn khi mức độ biến động tỷ giá vượt qua khả năng kiểm soát của các nhà quản lí tiền tệ. Ngược lại, nếu dòng vốn chảy ra quá lớn cũng gây nên biến động tỷ giá, làm giảm giá trị đồng nội tệ, gây khó khăn cho các tổ chức xuất nhập khẩu và việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ nước ngoài.
Thứ ba, đó là nguy cơ của tình trạng “đô la hoá” nền kinh tế. Đó là hiện tượng sử dụng đồng ngoại tệ thay thế đồng bản tệ trong các giao dịch. Khi vốn lưu chuyển tự do trong một thị trường hội nhập thì các nước có đồng tiền yếu sẽ xuất hiện xu hướng chuyển sang sử dụng ngoại tệ mạnh. Hậu quả là hiện tượng đầu cơ tiền tệ có thể xuất hiện, gây ra những khó khăn cho công tác quản lí tiền tệ và hoạt động của hê thống ngân hàng.
1.2.3. Những ảnh hưởng của việc mở cửa thị trường hoạt động với bên ngoài.
Với sự mở cửa cho việc tham gia của hệ thống ngân hàng nước ngoài vào hoạt động ngân hàng trong nước và cho phép các ngân hàng trong nước thực hiện các hoạt động kinh doanh ở nước ngoài cũng sẽ có những tác động tiêu cực đối với hệ thống ngân hàng của từng quốc gia, nhất là đối với những nước đang phát triển.
Thứ nhất, sự thâm nhập của ngân hàng nước ngoài có thể gây ra những khó khăn cho nền kinh tế và đe doạ chủ quyền kinh tế quốc gia. Trong các nền kinh tế chuyển đổi, sự gia tăng sở hữu của các ngân hàng nước ngoài có thể gây ra những lo ngại về chủ quyền kinh tế quốc gia bởi những ngân hàng nước ngoài có thể chi phối hoạt động của hệ thống ngân hàng và sự lệ thuộc của nền kinh tế vào một số ít các ngân hàng nước ngoài. Hơn nữa, sự gia tăng số lượng các ngân hàng nước ngoài cũng làm giảm khả năng tiếp cận nguồn vốn của các DNNN, các DN vừa và nhỏ- đó là những DN có hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp. Do vậy, việc mở cửa cho sự tham gia của các ngân hàng phải ở mức độ phù hợp với qui mô của nền kinh tế và trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng trong nước.
Thứ hai, hoạt động của NH ngày càng rộng lớn và hiện đại trong môi trường hội nhập sẽ làm hạn chế khả năng kiểm soát của các nhà quản lí trong từng quốc gia. Hoạt động của các ngân hàng nước ngoài với nhiều sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại cùng với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ làm cho nhiều ngân hàng thoát khỏi sự kiểm soát của cơ chế giám sát đã đặt ra. Trong một môi trường kinh doanh ngân hàng hiện đại với nhiều rủi ro thì hệ thống tài chính quốc gia không thể chỉ được kiểm soát bằng các phương pháp truyền thống.
Tóm lại, tự do hoá và hội nhập quốc tế về tài chính, tiền tệ đang là một xu thế tất yếu trên thế giới, Việt Nam cũng đang trong quá trình đó. Bên cạnh việc mang lại những lợi ích to lớn thì quá trình này cũng đặt ra những thách thức cho hệ thống tài chính, ngân hàng của mỗi nước. Vì thế, mỗi quốc gia cần phải chủ động hội nhập vào hệ thống tài chính toàn cầu để khai thác những lợi ích, đồng thời cũng phải có các chính sách và giải pháp để giảm thiểu những tác động tiêu cực. Là một bộ phận của chính sách tiền tệ quốc gia cho nên chính sách lãi suất cũng đòi hỏi phải có những cải cách thích hợp cho phù hợp với tình trạng tài chính Việt Nam trong những năm tới. Việc Thống đốc NHNNVN ra quyết định thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại đối với VND của các TCTD đã chứng tỏ một bước chuyển đổi quan trọng trong chính sách lãi suất. Vậy để hiểu rõ hơn, chúng ta cần phải tìm hiểu tại sao các nhà lập chính sách lại có quan điểm điều hành chính sách lãi suất như vậy và liệu việc thực hiện chính sách lãi suất mới này có đặt ra những thách thức gì cho hệ thống ngân hàng Việt Nam hay không.
2. Những đòi hỏi về chuyển đổi cơ chế lãi suất và những thách thức trong chính sách lãi suất mới.
2.1. Sự cần thiết phải chuyển đổi lãi suất theo hướng thị trường.
2.1.1. Cải cách kinh tế theo định hướng thị trường đòi hỏi phải cải cách lãi suất.
Qua hơn 10 năm thực hiện đổi mới kinh tế toàn diện, các chính sách về giá cả (giá hàng hoá, tỷ giá hối đoái…) ở Việt Nam đã được cải cách đáng kể theo định hướng thị trường. Theo định hướng đó, cơ chế bao cấp ở khu vực ngân hàng cũng từng bước được xoá bỏ và thay vào đó là cơ chế hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường. Hệ thống ngân hàng hai cấp được xác lập: NHNN thực hiện chức năng NHTƯ và quản lí nhà nước; hệ thống NHTM thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng theo cơ chế thị trường. Lãi suất ngân hàng với tư cách là một loại giá- giá của quyền sử dụng tiền tệ, cũng đã từng bước được chuyển đổi theo hướng thị trường: từ lãi suất thực âm sang lãi suất thực dương với các mức khống chế trần, sàn lãi suất cho vay, loại bỏ dần các mức khống chế. Ngày 2/8/2000, NHNN đã tiến một bước quan trọng trong việc chuyển đổi chính sách lãi suất sang cơ chế thị trường qua việc thực hiện cơ chế“ lãi suất cơ bản”. Theo đó, NHNN tham khảo lãi suất của các NHTM chủ chốt để đưa ra lãi suất cơ bản và cho phép các NHTM được tự do quyết định lãi suất trên cơ sở không vượt quá biên độ mà NHNN khống chế. Thực chất cơ chế này cũng vẫn là một hình thức trần lãi suất. Vì vậy, việc chuyển đổi lãi suất theo định hướng thị trường hơn nữa là cần thiết.
2.1.2. Cải cách khu vực ngân hàng theo định hướng thị trường đòi hỏi cải cách lãi suất.
Bắt đầu từ những năm 90 Việt Nam đã đổi mới toàn diện khu vực ngân hàng. Nội dung và mục tiêu quan trọng trong chương trình cải cách ở khu vực ngân hàng theo định hướng thị trường đối với Việt Nam gồm 2 mục tiêu chính đó là: cải cách NHNN về công cụ chính sách, mô hình tổ chức nhằm nâng cao điều hành chính sách tiền tệ và kiểm soát thị trường tài chính trong điều kiện kinh tế thị trường phát triển và hội nhập quốc tế; cơ cấu lại hệ thống NHTM (quốc doanh và cổ phần) nhằm đảm bảo tính an toàn lành mạnh và hiệu quả trong hoat động.
Thứ nhất, cải cách NHNN và chính sách tiền tệ. Từ năm 1990 đến nay, NHNN đã từng bước đưa ra các công cụ gián tiếp thay thế dần các công cụ trực tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ, vai trò quản lí nhà nước được tăng cường nhưng NHNN vẫn còn gián tiếp hoặc trực tiếp can thiệp vào công việc kinh doanh của các NHTM như chỉ đạo cho vay, khống chế lãi suất hoạt động... Như vậy, xét trên phương diện điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian qua, Việt Nam đã đặt mục tiêu trung gian bao gồm cả mục tiêu lãi suất và mục tiêu cung tiền. Trong điều kiện hiện nay cũng như trong tương lai, NHNN không thể duy trì khống chế lãi (mục tiêu lãi suất) đồng thời với mục tiêu cung tiền (MS) bởi sự mâu thuẫn giữa hai mục tiêu này như đã phân tích ở chương II. Do vậy, việc chuyển đổi cơ chế lãi suất sang lãi suất thị trường tức là không theo đuổi mục tiêu lãi suất là hợp lí.
Thứ hai là chương trình cải cách NHTM gắn với cải cách doanh nghiệp theo định hướng thị trường. Cải cách lãi suất cùng với cải cách quan hệ tín dụng giữa NHTM và DN là cần thiết nhằm đảm bảo tính hiệu quả của nền kinh tế. Trong một nền kinh tế mà thị trường chứng khoán chưa phát triển (đặc biệt là các nước đang chuyển đổi như Việt Nam), NHTM và các DN có quan hệ mật thiết, đặc biệt là quan hệ tín dụng. NHTM là người cung ứng vốn theo cách thức và điều kiện nhất định (ví dụ như đánh giá tình hình hoạt động của DN, tính khả thi của dự án…), các DN là người sử dụng vốn tín dụng và là người tạo ra của cải vật chất thực sự cho nền kinh tế. Khi các NH không duy trì được sự độc lập trong việc ra các quyết định cho vay hay trong điều kiện thiếu thông tin thì sự phân bổ tín dụng trong một nền kinh tế sẽ không hiệu quả và danh mục tín dụng của các NHTM sẽ chứa đựng nhiều rủi ro. Tại Việt Nam, chương trình cải cách ngân hàng và DN cũng chứa đựng nội dung cải cách quan hệ tín dụng, bao gồm điều kiện tín dụng, chế độ lãi suất theo định hướng thị trường.
* Về điều kiện tín dụng: từ trước tới nay, các NHTMQD dường như chỉ cấp tín dụng cho các DNNN- nơi mà đằng sau là sự bảo lãnh ngầm của chính phủ. Bản thân các NHTM vẫn chưa đủ năng lực hay tỏ ra chưa chủ động trong kinh doanh, chưa phát huy cao độ tính độc lập, tự quyết trong cho vay như hạn mức cho vay, lãi suất cho vay… trên cơ sở phân tích đánh giá các DN hay các dự án. Các hình thức hỗ trợ, bao cấp cho các DNNN qua tín dụng ngân hàng (như cho vay chỉ định, giảm lãi suất, điều kiện tín dụng dễ dàng…) vẫn tồn tại trong các NHTM. Điều đó cũng có nghĩa là quan hệ tín dụng giữa các NH và DN chưa thực sự là quan hệ tín dụng thương mại. Thực hiện cải cách quan hệ tín dụng trong thời gian tới cần phải tiến tới bình đẳng giữa các NHTM trong việc cấp tín dụng cho các DN, không phân biệt nghành nghề, loại hình DN…
* Về chế độ lãi suất: Chế độ lãi suất theo hướng thị trường sẽ tăng cường khả năng hạch toán kinh doanh, nâng cao hiệu quả nguồn vốn xã hội. Trong những năm qua, các NHTMQD đóng một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ cho các thành phần kinh tế nhà nước. Sự hỗ trợ này là cần thiết để đảm bảo một số lĩnh vực kinh tế cần được khuyến khích do các DNNN thực hiện. Tuy nhiên, trong khi các DNNN đang được cải cách theo hướng thị trường và thực hiện hạch toán kinh tế thực sự hơn nữa thì sự bao cấp thông qua hình thức tín dụng ngân hàng sẽ dẫn đến bóp méo kết quả kinh doanh của các DN. Thực tế cho thấy trong những năm qua, có rất nhiều DNNN Việt Nam đang làm ăn thua lỗ nhưng lại là nơi nhận được phần lớn vốn tín dụng ngân hàng với lãi suất ưu đãi hoặc các điều kiện ưu đãi khác như không phải thế chấp.
Rõ ràng, quan hệ tín dụng giữa NH và DN được chuyển đổi theo hướng thị trường cũng đòi hỏi cơ chế lãi suất theo hướng thị trường. Các NHTM với chức năng của nó là huy động vốn từ các thành phần kinh tế và thực hiện cho vay trên cơ sở phân tích, đánh giá doanh nghiệp. Các DN hoạt động trong điều kiện nhất định( lĩnh vực, môi trường, độ rủi ro… ) và do đó họ sẵn sàng chấp nhận vay vốn với những mức lãi suất nhất định. Trong khi đó, NHTM cũng có trong tay hoặc có khả năng huy động một lượng vốn với những chi phí nhất định… và do đó, tại các điều kiện rủi ro nhất định, họ cũng sẵn sàng cho các DN vay với mức lãi suất nhất định để có lãi và đủ bù đắp chi phí và các rủi ro khác.
2.1.3. Hội nhập quốc tế và yêu cầu cải cách mạnh mẽ về lãi suất.
Trước những cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế đối với hệ thống tài chính Việt Nam thì việc chuyển đổi lãi suất sang cơ chế lãi suất thị trường là một đòi hỏi tất yếu. Những hạn chế về chu chuyển vốn quốc tế đang ngày một thu hẹp. Sự chêch lệch quá lớn về lãi suất trong nước (do áp dụng hạn chế hoặc kiểm soát lãi suất) sẽ dẫn đến sự chu chuyển không hiệu quả các nguồn lực tài chính. Việc khống chế lãi suất nội tệ ở mức cố định trong khi lãi suất ngoại tệ lại biến động theo lãi suất trên thị trường tài chính quốc tế sẽ dẫn đến hiện tượng điều chỉnh danh mục tài sản trong công chúng do hiệu ứng thu nhập. Giả sử lãi suất ngoại tệ tăng lên do diễn biến kinh tế trong nước và quốc tế sẽ dẫn đến sự “chạy trốn” khỏi đồng nội tệ để tìm đến đồng ngoại tệ. Hơn nữa, trong nền kinh tế hội nhập, lãi suất và tỷ giá hối đoái có sự liên hệ với nhau. Sự thay đổi lãi suất trong nước làm cho các tài sản được định giá bằng đồng bản tệ trở nên hấp dẫn hơn so với các tài sản được định giá bằng đồng tiền của các nước khác. Điều này làm thay đổi mức cầu về tài sản và dẫn đến việc tăng chu chuyển vốn vào nước này từ các nước khác. Sự thay đổi này sẽ làm tăng giá đồng bản tệ. Trên thực tế, một yếu tố quan trọng nhất quyết định các thay đổi tỷ giá hối đoái ngắn hạn là thay đổi chênh lệch lãi suất thực tế giữa các nước. Ví dụ như ở Mĩ, một nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự tăng lên 1% lãi suất dài hạn (10 năm) trong điều kiện không có sự thay đổi lãi suất nước ngoài sẽ đưa đến 10% sự tăng lên của tỷ giá hối đoái thực. Sau khi đồng USD tăng giá lên sẽ có kỳ vọng đông USD giảm giá khoảng 1% trong vòng 10 năm tiếp theo. Kết quả của sự tăng giá đồng USD và kỳ vọng giảm giá ngược trở lại là khái niệm được gọi là cân bằng lãi suất quốc tế. Như vậy, mức lợi tức của việc nắm giữ tài sản của Mĩ và của nước ngoài bằng các đồng bản tệ tương ứng được cân bằng, xóa bỏ sự thay đổi mức cầu tài sản hay chu chuyển vốn. Điều đó có nghĩa là mức lợi tức cao hơn của tài sản Mĩ
(tính bằng USD) được bù trừ bởi sự giảm giá kỳ vọng giá trị của tài sản được tính bằng đồng tiền nước ngoài. Đây là cơ chế làm cho các mức lợi tức được cân bằng giữa các quốc gia thông qua chu chuyển vốn quốc tế. Thực tế cho thấy, sự thay đổi của tỷ giá hối đoái do thay đổi của lãi suất ở Mĩ (tương quan với lãi suất nước ngoài) ngày càng tăng lên. Điều này có thể thể hiện việc xóa bỏ các hạn chế kiểm soát vốn của nhiều nước công nghiệp lớn trong những năm 70 và đầu những năm 80 thế kỷ 20 đã góp phần vào sự tăng lên mạnh của chu chuyển vốn quốc tế. Như vậy, sự hợp nhất tăng lên của các thị trường tài chính giữa các quốc gia đã có một tác động quan trọng hơn đến việc làm tăng mức độ nhạy cảm của tỷ giá hối đoái đối với các thay đổi lãi suất so với việc nó liên kết trực tiếp với lãi suất của quốc gia. Do vậy, hội nhập vào nền tài chính quốc tế, chính sách lãi suất của Việt Nam cần được cải cách theo cơ chế thị trường, phù hợp với các nước khác bởi nếu không được điều chỉnh linh hoạt theo tín hiệu thị trường thì bất kì sự biến động nào của lãi suất các nước cũng có thể tác động tới lãi suất trong nước, tới chu chuyển vốn quốc tế và tỷ giá hối đoái, từ đó tác động tới nhiều khía cạnh khác của nền kinh tế.
2.2. Những thách thức trong chính sách lãi suất mới.
Trước hết có thể khẳng định lãi suất thảo thuận về bản chất kinh tế cũng chính là lãi suất thị trường. Do vậy nó chỉ hoạt động và phát huy tác dụng trong điều kiện thị trường tài chính phát triển. Những điều kiện cơ bản đó bao gồm:
Thứ nhất, môi trường kinh tế vĩ mô ổn định: Đây là yếu tố cơ bản giúp cho việc tự do hóa lãi suất thành công. Vì nếu môi trường kinh tế vĩ mô không ổn định nó sẽ làm áp lực tăng lãi suất sau khi thực hiện tự do hoá lãi suất. Sự ổn định kinh tế vĩ mô đảm bảo cho nền kinh tế chịu được những tác động của các cú sốc ở bên trong và bên ngoài có thể xảy ra đối với nền kinh tế khi tự do hoá lãi suất hoàn toàn.
Thứ hai, hệ thống tài chính lành mạnh an toàn: Đây là yếu tố quyết định tới khả năng thanh toán của các NHTM đảm bảo hoạt hộng an toàn và bền vững trước sự cạnh tranh trên thị trường tiền tệ khi tự do hoá lãi suất. Tự do hoá lãi suất làm chi phí vốn tăng lên, sự cạnh tranh giữa các NHTM trở nên gay gắt hơn, làm giảm khả năng sinh lời của NHTM, đặc biệt là các ngân hàng nhỏ. Do vậy, các NHTM phải có sự chuẩn bị các điều kiện cần thiết để đủ sức tham gia kinh doanh trên thị trường tiền tệ và đủ sức chịu đựng những cú sốc do thả nổi lãi suất.
Thứ ba, NHTƯ có khả năng giám sát và điều hành thị trường tiền tệ. NHTƯ cần có cơ chế giám sát và can thiệp đủ mạnh bằng quỹ dự phòng và các công cụ của chính sách tiền tệ để phản ứng kịp thời trước biến động bất thường của thị trường tiền tệ từ việc tự do hoá lãi suất.
Ngoài các yếu tố cơ bản trên thì cũng cần phải kể đến một số điều kiện khác như: các DN sản xuất kinh doanh có hiệu quả và có khả năng tài chính, tài chính công mạnh, chính sách tỷ giá điều chỉnh linh hoạt…Đối chiếu các điều kiện đó ở Việt Nam hiện nay thì ta thấy việc thực hiện lãi suất thoả thuận cũng đặt ra không ít thách thức cho cả những người lập chính sách cũng như cho cả hệ thống ngân hàng.
2.2.1. Khả năng điều tiết lãi suất thị trường của NHNN qua các công cụ gián tiếp trong thời gian qua là chưa thật hiệu quả.
Chuyển từ điều hành chính sách tiền tệ trực tiếp sang chính sách tiền tệ gián tiếp trong điều kiện khả năng điều tiết lãi suất qua các công cụ gián tiếp còn hạn chế sẽ là thách thức lớn cho NHNN.
Trong suốt thời gian qua, công cụ tái cấp vốn của NHNN vẫn còn mang nặng tính bao cấp, chỉ định, xin cho dẫn đến hiệu quả của công cụ này không cao. NHNN mới chỉ tái cấp vốn cho một số NHTMQD còn các NHTM ngoài quốc doanh thì hầu như không được hưởng qui chế này. Hơn nữa, lãi suất tái cấp vốn của Việt Nam trong thời gian qua không có tác động và mối liên hệ nhiều với lãi suất thị trường. Do vậy, chuyển sang tự do hoá lãi suất, NHNN chỉ can thiệp thông qua công cụ gián tiếp là tái cấp vốn thì sẽ gặp nhiều khó khăn khi xảy ra những biến động về lãi suất thị trường.
Bên cạnh đó, một công cụ gián tiếp khác có tác động rất hữu hiệu đến lãi suất thị trường trong điều kiện tự do hoá lãi suất là hoạt động thị trường mở cũng chưa có mấy tác dụng điều tiết thị trường, đặc biệt là đối với thị trường liên ngân hàng. Sở dĩ như vậy là do nghiệp vụ thị trường mở mới được đưa vào hoạt động từ tháng 7/2000, qui mô còn nhỏ, công cụ nghèo nàn, số lượng thành viên tham gia vào thị trường còn ít. (xem bảng sau)
Bảng 20: Tình hình hoạt động thị trường mở Việt Nam.
Đơn vị : tỷ đồng.
6 tháng cuối 2000
2001
6 tháng đầu 2002
Tổng cộng
Doanh số hoạt động
1903,5
3933,8
5521,5
11358,8
-NHNN mua
1353,5
3313,8
5321,5
9988,8
-NHNN bán
550
620
200
770
% M2
0,85
1,2
0,99
Nguồn:Tài liệu hội nghị tổng kết hoạt động đấu thầu tín phiếu kho bạc và thị trường mở T7/ 2002, NHNN
Hơn nữa, việc NHNN tiếp tục công bố lãi suất cơ bản để cho các TCTD tham khảo sẽ không có hiệu quả trong việc điều tiết lãi suất thị trường khi thị trường tài chính xảy ra những bất ổn. Vì thế, công cụ gián tiếp chủ yếu để điều hành lãi suất là công cụ tái cấp vốn và nghiệp vụ thị trường mở. Nhưng khi mà những công cụ này vận hành chưa thật hiệu quả thì sẽ gây khó khăn cho hệ thống ngân hàng khi có những biến động về lãi suất trên thị trường tiền tệ.
2.2.2. Mức độ tiền tệ hoá nền kinh tế VN không cao so với các nước trong khu vực gây ảnh hưởng không tốt đến khả năng truyền tải của chính sách lãi suất.
Như chúng ta đã biết, lãi suất là một công cụ của chính sách tiền tệ, qua đó để đạt được mục tiêu hoạt động, mục tiêu trung gian và mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ. Mức độ hiệu quả của cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh lãi suất phụ thuộc rất lớn vào mức độ tiền tệ hóa nền kinh tế, hoặc cơ cấu bảng cân đối tài sản của các chủ thể phi tài chính. Nếu trong cơ cấu tài sản của các chủ thể phi tài chính, tỷ lệ tài sản tài chính chiếm tỷ trọng lớn thì mức ảnh hưởng của chính sách lãi suất sẽ tăng cao thông qua các hiệu ứng của lãi suất. Đối với một quốc gia thì mức độ tiền tệ hoá nền kinh tế được thể hiện thông qua chỉ số M2/ GDP. Một nền kinh tế mà mức độ tiền tệ hoá cao, các chủ thể kinh tế nắm giữ nhiều tài sản tài chính thì khả năng truyền tải chính sách lãi suất sẽ cao.
Xét về độ sâu tài chính, mức độ tiền tệ hoá nền kinh tế (M2/GDP), thị trường tài chính Việt Nam vẫn còn lạc hậu so với hầu hết các nước trong khu vực, tỷ lệ M2/GDP thấp hơn so với các nước trong khu vực.(xem bảng)
Bảng 21: Độ sâu tài chính của Việt Nam và một số nước trong khu vực (M2/GDP)(%)
91
92
93
94
95
96
97
98
VietNam
26,5
24,6
23,6
25,3
23,7
25,0
25,3
25,3
Trungquoc
83,0
92,1
101,3
110,7
107,1
-
-
-
Indonexia
43,3
43,7
45,8
45,6
49,1
54,3
27,0
-
Malaixia
66,2
69,2
78,3
89,9
89,1
96,0
105,0
-
Hanquoc
38,3
38,8
40,0
42,0
43,5
43,8
46,0
-
Singapore
91,1
92,3
93,5
87,1
86,8
84,5
86,0
-
Philippines
34,1
34,5
36,2
42,1
45,7
50,3
3,0
-
Thailand
69,8
72,7
72,7
79,2
78,7
79,5
90,0
-
Nguồn: Tạp chí ngân hàng số 8/2002
2.2.3. Cơ chế cung cấp thông tin của Việt Nam không minh bạch, không đáng tin cậy, đặc biệt là thông tin về tài chính, ngân hàng và những thông tin về doanh nghiệp
Tại điều 1 của Quyết định số 546/2002/QĐ -NHNN qui định: “Tổ chức tín dụng xác định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam trên cơ sở cung –cầu vốn trên thị trường và mức độ tín nhiệm đối với khách hàng vay là các tổ chức pháp nhân và cá nhân Việt Nam, pháp nhân và cá nhân nước ngoài hoạt động tại Việt Nam”. Đó là một qui định rất hợp với cơ chế thị trường và nó đặt ra yêu cầu về chế độ thông tin phù hợp nhằm đảm bảo để các NHTM có thể ra quyết định cho vay một cách độc lập với mức lãi suất phù hợp theo từng đối tượng khách hàng ở các thời điểm nhất định. Cũng có thể nói cách khác là các DN cần được định mức tín nhiệm một cách tương ứng để tránh tình trạng “bằng đầu như vại”…Việc xác định đâu là DN có nhu cầu vốn thực sự cho sản xuất kinh doanh cũng đòi hỏi một chế độ thông tin cập nhật, minh bạch như chế độ công bố thông tin tài chính, chế độ kế toán và kiểm toán theo chuẩn mực quốc tế…DN yếu kém, làm ăn thua lỗ…đặc biệt là các trường hợp lừa đảo thường sẵn sàng chấp nhận vay với mọi giá. Tình trạng chấp nhận vay với mọi giá nhắc nhở các NH rằng lợi nhuận cao thường gắn với rủi ro cao, do đó hãy cảnh giác với những trường hợp sẵn sàng vay với lãi suất cao.
Xây dựng thể chế thị trường như việc tăng cường tính công khai về thông tin, điều kiện đảm bảo an toàn, giám sát tài chính là việc cần thiết phải tiến hành song song với quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế về tài chính tiền tệ nhằm tránh những thất bại của thị trường. Sự chậm trễ của các nước Đông Nam á trong việc củng cố thể chế thị trường là một bài học quí giá cho Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng. Hệ thống kế toán theo tiêu chuẩn Việt Nam là một trở ngại lớn và làm lệch lạc việc đánh giá hiệu quả kinh doanh và kiểm tra giám sát đối với hoạt động của các NH và DN trong nước. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng( credit information center) của NHNN đã đi vào hoạt động nhưng vẫn trong giai đoạn thí điểm, do đó chưa có cơ quan đánh giá tín nhiệm DN một cách độc lập. Điều này đưa đến khó khăn cho các NHTM trong việc đưa ra một mức lãi suất thoả thuận phù hợp với mức độ tín nhiệm của từng DN và diễn biến thị trường. Hơn nữa, đó cũng là thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng tín dụng ngân hàng hơn nữa theo cơ chế thương mại- lãi suất thị trường thực sự.
2.2.4. Mức độ cạnh tranh của hệ thống ngân hàng Việt Nam không cao, dẫn đến hoạt động của các qui luật thị trường không hiệu quả, dễ dẫn đến thất bại của thị trường tài chính.
Chỉ có hệ thống ngân hàng lành mạnh mới có thể đưa ra chính sách lãi suất phù hợp và hiệu quả. Điều này có thể được lí giải như sau: Khi NH hoạt động lành mạnh, có hiệu quả, có năng lực quản lí rủi ro, có khả năng đánh giá doanh nghiệp thì NH mới có khả năng đưa ra một mức lãi suất cho vay thấp nhất ứng với mức rủi ro nhất định. Ngược lại, khi các NH hoạt động kém hiệu quả (chi phí cao, khả năng quản lí rủi ro kém…) thì NH sẽ thường xuyên đưa ra mức lãi suất cho vay cao hơn bình thường. Đối với lãi suất huy động, các NH hoạt động yếu kém thường đưa ra mức lãi suất khá cao để huy động được nhiều tiền từ công chúng nhằm duy trì hoạt động cầm chừng của nó. Điều này nhắc nhở những người gửi tiền hãy cảnh giác với những NH chào với lãi suất huy động cao một cách bất thường.
Trong quá trình tự do hoá tài chính, chuyển đổi sang cơ chế thị trường có sự hội nhập quốc tế, các NHTM trong nước sẽ phải cạnh tranh quyết liệt hơn. NHTM nào có đủ sức cạnh tranh, làm ăn có lãi sẽ tồn tại, ngược lại NH nào làm ăn thua lỗ sẽ có thể bị đóng cửa. Trước sức ép của cạnh tranh, các NH phải không ngừng nâng cao năng lực, cắt giảm chi phí… để cho vay với lãi suất hấp dẫn nhất. Chính vì vậy, sự cạnh tranh cao sẽ đưa đến sự chu chuyển vốn với chi phí thấp nhất. Chi phí này có thể được xác định bởi chênh lệch giữa lãi suất cho vay và huy động: nếu mức này cao, chứng tỏ thị trường cạnh tranh thấp dẫn đến chi phí vốn vẫn còn cao.
Tại Việt Nam hiện nay, hệ thống NHTMQD vẫn còn chiếm đa số cả về qui mô và thị phần: Với 6 NHTMNN nhưng thị phần huy động đã chiếm tới trên 70% (xem bảng dưới đây), tổng tài sản có của hệ thống NHTMQD cũng chiếm gần 80% tổng tài sản có của hệ thống NHTMVN. Các NHTMQD lại cho các DNNN vay là chủ yếu.
Bảng 22: Thị phần của các Ngân hàng Việt Nam( cuối năm 2000)
Số lượng định chế
Huy động vốn
( % cả hệ thống)
Tín dụng
(% cả hệ thống)
Các NHTMQD
6a
73,0
71,2
Các NHTMCP
48
10,6
10,5
Chi nhánh NH nước ngoài và NH liên doanh
30b
15,0
16,5
Quỹ tín dụng nhân dân
948
1,4
1,8
Nguồn: Tạp chí ngân hàng số 8/2002
Ghi chú: a) bao gồm VCB, INCOMBANK, BIDV & NH phục vụ người nghèo & NH phát triển đồng bằng sông Cửu Long
b) NH Chace Mahattan hầu như chưa đi vào hoạt động
Điều này dẫn đến khó khăn trong việc cải cách NHTMQD nhằm chuyển hoạt động của một sân chơi bình đẳng trong lĩnh vực ngân hàng; đồng thời nó làm cản trở việc phát huy tác dụng của qui luật kinh tế thị trường (market discipline). Vì vậy, tính cạnh tranh trong khu vực ngân hàng còn thấp.
2.2.5. Hệ thống NHTMVN dễ bị tổn thương do trình độ quản lí không cao, đặc biệt là quản lí rủi ro lãi suất
Các NHTMVN có mức vốn rất thấp, nợ quá hạn cao (nhất là các NHTMCP). Sự dễ tổn thương của hệ thống NHTMVN có thể là thách thức lớn khi hệ thống này chuyển đổi sang một cơ chế thị trường thực sự, đặc biệt là khi tự do hóa lãi suất, thả nổi tỷ giá trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Các NHTMCPVN là khu vực dễ bị tổn thương nhất. Các NHTMCP dường như được thành lập khá dễ dàng từ những năm 1993-1996 và phát triển với tốc độ khá nhanh. Từ 15 NHTMCP vào năm 1990, đến năm 1997 đã tăng lên 53. Đến nay, một số NHTMCP không đủ vốn điều lệ theo qui định, quản lí yếu kém đã bị đóng cửa (bị sát nhập, bị mua lại…) và chỉ còn 43 NHTMCP.
Nợ quá hạn của hệ thống NHTMVN có chiều hướng gia tăng kể từ năm 1997. Qua số liệu của IMF, WB thì tỷ lệ nợ quá hạn của hệ thống NHTMVN dường như không cao so với các nước trên thế giới và không đáng lo ngại.
(xem bảng)
Bảng 23: Nợ quá hạn của hệ thống ngân hàng Việt Nam
95
96
97
98
99
00*
Hệ thống ngân hàng
7,9
9,3
12,4
12,0
13,2
13,1
NHTMQD
9,1
11,0
12,0
11,0
11,1
11,0
NHTM ngoài QD
3,3
4,2
13,5
16,4
23,0
24,4
Nguồn: IMF- Table 21. VietNam: Statistical Appendix& Background Notes, IMF Staff Country Report No 00/116, August 2000
*: Số liệu tháng 3/2000
Ghi chú: % tổng dư nợ cho vay
Tuy nhiên, điều cần bàn là chế độ hạch toán kế toán, phân loại tài sản (cách định nghĩa nợ quá hạn) của Việt Nam là không theo tiêu chuẩn quốc tế. Ngoài ra, có một số các khoản nợ khó đòi liên quan đến một số vụ án không được hạch toán vào khoản mục nợ khó đòi mà thường được hạch toán vào “khoản mục chờ xử lí”. Do vậy, chế độ báo cáo cũng làm cho các con số nợ quá hạn bị bóp méo đi rất nhiều. Theo các chuyên gia trong lĩnh vực kế toán thì con số này có thể tăng lên gấp 3 lần nếu tính theo tiêu chuẩn quốc tế.
Tóm lại, việc chuyển đổi sang cơ chế lãi suất thị trường ở Việt Nam hiện nay là cần thiết và là yêu cầu của công cuộc cải cách kinh tế toàn diện theo định hướng thị trường. Tuy nhiên, phía trước vẫn còn nhiều thách thức như: thị trường tài chính còn lạc hậu, năng lực điều hành chính tiền tệ của NHHN còn hạn chế, các NHTM vẫn còn yếu kém, tính cạnh tranh còn thấp…Vì vậy, để chính sách lãi suất mới đi vào thực tế ở Việt Nam cần phải biết kết hợp nhiều yếu tố trong quá trình điêù lãi suất nói chung cũng như nỗ lực của các bộ nghành nói riêng. Sau đây là một số gợi ý về điều hành chính sách lãi suất trong thời gian tới và những kiến nghị đối với các bộ nghành liên quan để chính sách lãi suất này thực sự phát huy tác dụng.
3. Một số gợi ý về điều hành chính sách lãi suất trong thời gian tới và những kiến nghị đối với bộ nghành liên quan.
3.1. Một số gợi ý về chính sách lãi suất
3.1.1. Điều hành chính sách lãi suất theo lãi suất chỉ đạo, có thể lấy lãi suất tái cấp vốn là lãi suất cho vay qua đêm làm lãi suất chỉ đạo thị trường.
Theo quyết định số 546 của Thống đốc NHNNVN về việc chuyển sang thực hiện chính sách lãi suất thỏa thuận đối với cho vay bằng VND của các TCTD đối với khách hàng và quyết định số 547 về việc công bố lãi suất cơ bản cho các TCTD tham khảo thì từ nay trở đi tất cả các TCTD được quyền ấn định mức lãi suất kinh doanh của mình. NHNN không can thiệp trực tiếp vào việc hình thành nên mức lãi suất thị trường. Tuy nhiên, tự do hoá lãi suất không có nghĩa là NHNN hoàn toàn đứng ngoài cuộc để mặc các TCTD trong quá trình cạnh tranh về lãi suất. Điều này có thể dẫn đến những nguy hiểm không chỉ cho 1 TCTD nói riêng mà còn cho toàn hệ thống NH và nền kinh tế nói chung khi có những đột biến về lãi suất. Chính vì vậy, NHTƯ các nước đã để cho các TCTD được tự do ấn định mức lãi suất kinh doanh theo quan hệ cung –cầu vốn trên thị trường nhưng mỗi nước có một lãi suất để định hướng gọi là lãi suất chỉ đạo. Lãi suất này được hình thành thông qua các kênh tác động gián tiếp tới chính sách lãi suất như chính sách tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở…Theo kinh nghiệm điều hành chính sách lãi suất của một số nước phát triển trên thế giới thì lãi suất chỉ đạo của NHTƯ đóng một vai trò cực kì quan trọng, nó quyết định hành vi của các chủ thể kinh tế. Mỗi sự thay đổi lãi suất chỉ đạo của NHNN sẽ dẫn đến sự thay đổi lãi suất trên thị trường, tác động tới hành vi của các chủ thể kinh tế thông qua kênh truyền tải lãi suất, từ đó tác động tới tổng cầu nền kinh tế.
Tại Việt Nam, NHNN đóng vai trò là NHTƯ của hệ thống ngân hàng và là người cho vay cuối cùng đối với các TCTD. Vì vậy, lãi suất tái cấp vốn của NHNN nhằm bù đắp thiếu hụt trong thanh toán liên ngân hàng có thể coi là lãi suất không mong muốn trong quá trình điều hành mục tiêu trung gian (mức cung tiền). Trên thực tế điều hành lãi suất tái cấp vốn của các quốc gia đang phát triển thì lãi suất cho vay qua đêm chính là lãi suất phạt của NHNN. Như vậy, lãi suất cho vay qua đêm của NHNN phải là lãi suất cao nhất, sau đó mới đến lãi suất trên thị trường mở(OMO) và cuối cùng là lãi suất tiền gửi của các TCTD và kho bạc nhà nước tại NHNN. Diễn biến lãi suất phải tuân theo qui luật sau:
Hình 12: Mô hình diễn biến lãi suất trong nền kinh tế thị trường
i
LS cho vay qua đêm của NHTƯ
LS cho vay Lãi suất OMO
LS liên NH
Lãi suất huy động
Lãi suất tiền gửi tại NH
t
Theo kinh nghiệm điều hành chính sách tiền tệ của một số nước phát triển trên thế giới, NHTƯ là người đưa ra lãi suất chỉ đạo, định hướng thị trường. Căn cứ vào chiến lược và sách lược tiền tệ của quốc gia trong từng thời kỳ, mỗi một quốc gia có một lãi suất chỉ đạo riêng.
Ngân hàng trung ương châu Âu sử dụng 3 loại lãi suất làm lãi suất chỉ đạo đó là: lãi suất NHTƯ cho các NHTM vay qua đêm, lãi suất tiền gửi của các NHTM tại NHTƯ châu Âu, lãi suất thị trường mở. Ba loại lãi suất này có quan hệ mật thiết với nhau, chênh lệch giữa lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất tiền gửi qua đêm của các NHTƯ cho các NHTM luôn được duy trì ở mức 2%/ năm và lãi suất thị trường mở thường được duy trì ở mức giữa hai lãi suất này.
NHTƯ Nhật Bản thì lại lấy lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất chiết khấu làm lãi suất chỉ đạo, điều tiết toàn bộ lãi suất thị trường tiền tệ.
Biểu đồ 1:
Nguồn: Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ số 7/2002.
Qua đồ thị trên ta có thể nhận thấy các loại lãi suất trên thị trường tiền tệ của Nhật có quan hệ mật thiết với nhau, diễn biến theo nhau.
Đối với Mĩ thì cục dự trữ liên bang Mĩ (FED) lại đưa ra 2 loại lãi suất chỉ đạo toàn bộ thị trường tiền tệ.
Thứ nhất, là lãi suất thị trường liên bang, thực chất là lãi suất cho vay qua đêm của FED cho các NHTM nhằm bù đắp thiếu hụt khả năng thanh toán.
Thứ hai, là lãi suất chiết khấu. Cục dự trữ liên bang Mĩ lấy đây là lãi suất chỉ đạo thị trường vì lãi suất trên thị trường liên ngân hàng(lãi suất cho vay qua đêm giữa các NHTM) và lãi suất trên thị trường mở thường xoay quanh lãi suất này và từ đó tác động đến lãi suất của NHTM đối với khách hàng. Lãi suất này luôn thấp hơn lãi suất cho vay qua đêm 0,5%/ năm.
Biểu đồ 2:
Nguồn: Federal Reseves Bullentin, 2001.
Qua hình trên chúng ta thấy diễn biến các loại lãi suất của Mỹ giai đoạn 1993-1999 là tương đối ổn định. Các loại lãi suất chính trên thị trường có mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ với nhau, diến biến theo nhau. Vì FED theo đuổi mục tiêu cung tiền nên lãi suất chiết khấu của FED thường là lãi suất thấp nhất.
3.1.2. Điều hành lãi suất đảm bảo mối tương quan hài hoà giữa lãi suất ngoại tệ, lạm phát, tỷ giá hối đoái để chống hiện tượng đô la hoá, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trong những năm qua cùng với xu thế suy thoái chung của nền kinh tế thế giới, Việt Nam cũng nỗ lực thực hiện các biện pháp để kích cầu nền kinh tế. Một trong những biện pháp đó là tiến tới thực hiện một chính sách lãi suất thấp. Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách lãi suất thấp dẫn đến hiện tượng đô la hoá gia tăng. Rõ ràng Việt Nam cần phải có một chính sách lãi suất phù hợp. Vậy câu hỏi đặt ra là Việt Nam cần duy trì lãi suất cao hay thấp. Nếu duy trì chính sách lãi suất thấp thì có thể kích thích đầu tư nhưng lại ảnh hưởng đến tiết kiệm và tăng tình trạng đô la hoá. Nếu lãi suất cao thì ảnh hưởng tới đầu tư, tuy nhiên có thể loại bỏ được những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ do công nghệ lạc hậu, quản lí yếu kém.
Việc xác định lãi suất cao hay thấp đã phù hợp với mục tiêu tăng trưởng và chống đô la hoá hay chưa thì cần phải tính đến mức độ phát triển của thị trường tài chính so với quốc tế. Hơn nữa, việc điều hành lãi suất nội tệ phải đảm bảo tương quan với lãi suất ngoại tệ để tránh gây ra tình trạng đô la hoá, tác động tiêu cực đến tỷ giá hối đoái. Theo Irving Fisher thì giữa lãi suất nội tệ và ngoại tệ có quan hệ chặt chẽ với nhau.
id= if+ DE+s
Trong đó: id: lãi suất nội tệ
if: lãi suất ngoại tệ
DE: chênh lệch tỷ giá hối đoái dự tính
: hệ số điều chỉnh phụ thuộc vào lòng tin của người dân đối với đồng tiền, dự báo của các chủ thể kinh tế về diễn biến lãi suất, thu nhập tương lai. Theo kinh nghiệm một số nước thì s thường dao động từ 5 đến 10%( ví dụ như đồng Real của Braxin)
3.1.3. Điều hành lãi suất trong mối tương quan với dự trữ bắt buộc phải phù hợp mục tiêu tăng cường huy động vốn và kích thích đầu tư
Trong chính sách tiền tệ truyền thống, dự trữ bắt buộc là một công cụ quan trọng tác động trực tiếp đến số nhân tiền tệ, từ đó tác động đến phương tiện thanh toán. Bên cạnh vai trò cơ bản đó, dự trữ bắt buộc đóng một vai trò quan trọng không kém trong việc tác động đến lãi suất cho vay trên thị trường thông qua cơ chế tác động như đã phân tích trong chương 1.
Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi. Gọi A là khối lượng tín dụng mà NHNN mong muốn cung cấp cho nền kinh tế; D là khối lượng tiền mà NHNN cần huy động; r là dự trữ bắt buộc bằng đồng nội tệ; rf là dự trữ bắt buộc bằng đồng ngoại tệ; COF là chi phí huy động vốn nội tệ của các NHTM; COFf là chi phí huy động vốn ngoại tệ của các NHTM. Khi đó:
Chi phí huy động nội tệ của các NHTM là:
COF=D.i
COF=
Chi phí huy động ngoại tệ của các NHTM là:
COFf =D.if
COFf =
Trong điều kiện thả nổi lãi suất ngoại tệ, nếu NHTƯ muốn hạn chế hiện tượng đô la hoá, ngoài các biện pháp như qui định tỷ lệ kết hối, áp đặt lãi suất ngoại tệ…NHTƯ có thể thông qua biện pháp điều hành lãi suất và dự trữ bắt buộc để làm tăng chi phí huy động ngoại tệ của các NHTM sao cho:
COF< COFf
<
<
Như vậy, trong quá trình điều hành chính sách tiền tệ, NHNN phải chú ý đến mối tương quan giữa lãi suất và dự trữ bắt buộc để có thể tác động trực tiếp đến chi phí vốn của các TCTD, từ đó tác động tới lãi suất thị trường. Tuy nhiên, như đã phân tích trong chương 1, trong số các nhân tố tác động tới lãi suất thì dự trữ bắt buộc chỉ là công cụ thứ yếu bởi tác động quá nhạy cảm của nó. Do vậy, điều hành tương quan giữa dự trữ bắt buộc và lãi suất ở đây chủ yếu là thông qua chính sách dự trữ bắt buộc để tác động tới tương quan lãi suất nội, ngoại tệ, qua đó tác động tới tỷ giá hối đoái.
3.1.4. Chính sách lãi suất phải thể hiện mối tương quan giữa lãi suất, mức cung tiền và tỷ giá hối đoái.
Có thể nói lãi suất và tỷ giá là hai biến số tổng hợp đại diện cho hai khu vực kinh tế đối nội và đối ngoại và chúng có mối quan hệ với mức cung tiền.
Mối quan hệ giữa lãi suất, tỷ giá và mức cung tiền được minh hoạ trong hình sau:
Hình 13: Mối quan hệ giữa lãi suất , mức cung tiền và tỷ giá .
E2
E1
i2 i1 i
M1
M2
Tại mức cung tiền M1 thì lãi suất là i1 và tỷ giá hối đoái là E1. Thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng để kích cầu, NHTƯ sẽ tăng lượng tiền cơ sở từ M1 đến M2, lãi suất sẽ giảm xuống i2 và tỷ giá hối đoái giảm xuống E2. Khi đó hàng hóa nội tệ trở nên rẻ hơn ở nước ngoài, xuất khẩu sẽ tăng. Ngược lại, khi NHTƯ thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt giảm mức cung tiền thì lãi suất và tỷ giá sẽ tăng, khuyến khích nhập khẩu và sẽ tác động ngược đến tổng cầu.
Bên cạnh đó, NHTƯ cũng cần phải xác định rõ mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ trong thời gian tới là gì, NHTƯ không thể theo đuổi cùng một lúc cả hai mục tiêu là lãi suất và mức cung tiền. Trong thời gian tới, khi lãi suất đã được tự do hóa thì NHTƯ nên lựa chọn mục tiêu là mức cung tiền. Ngoài ra, không nên cứng nhắc lựa chọn mức cung tiền là mục tiêu trung gian trong mọi thời kỳ. Chúng ta có thể lựa chọn một số mục tiêu khác như tỷ giá hối đoái, M2…làm mục tiêu trung gian trong các trường hợp cụ thể như các nước đã làm bởi trong một nền kinh tế hội nhập các biến số kinh tế đó cũng tác động mạnh đến chính sách tiền tệ trung ương. Có thể tham gia một số chiến lược và sách lược tiền tệ ở các nước kinh tế thị trường mới nổi sau đây:
Bảng 24: Mục tiêu hoạt động của chính sách tiền tệ ở một số nước.
Tên nước
Chỉ tiêu chính
Những chỉ tiêu bổ sung
1. HongKong
Tỷ giá
2. AnĐo
Dự trữ ngân hàng
LSNH, LS repo3-14 ngày
3. Indonexia
Tiền mặt và dự trữ NH
LS liên NH
4. HanQuoc
Dự trữ ngân hàng, lãi suất cho vay qua đêm
Tỷ giá
5. Mailaixia
Lãi suất can thiệp của NHTƯ 3 tháng
6. Singapore
Tỷ giá
LS liên NH
7. Thailand
MB
LS liên NH, LS qua đêm, LS repo 1 tháng, Tỷ giá
8. Braril
Lãi suất repo qua đêm
9. Chile
Lãi suất 1 ngày
10. Colombia
Lãi suất qua đêm
11. Mehico
Tổng dự trữ ngân hàng
12. Peru
MB
LS liên NH, Tỷ giá
13. Isarel
LS cho vay ngắn hạn và LS tiền gửi của NH
14. Balan
Lãi suất ngắn hạn
15. Nga
TS có ngoại tệ ròng tối thiểu, nội tệ ròng tối đa.
LS tín phiếu kho bạc, LS liên ngân hàng qua đêm.
16. Arapsaudi
Dự trữ ngân hàng, LS repo qua đêm.
17. Nam Phi
LS NH qua đêm đến T3/98, sau đó là LS repo qua đêm.
Nguồn: Tạp chí khoa học và đào tạo Ngân hàng (số 4, T7+8/2002)
Tóm lại, việc thực hiện tự do hoá lãi suất trong thời gian tới là một quá trình hoàn toàn hợp lí. Để chính sách lãi suất phát huy tác dụng thì trên đây chỉ là một số gợi ý về điều hành chính sách lãi suất. Để thực hiện được điều này thì cần phải có sự phối hợp của các bộ ngành nói chung, đặc biệt là hệ thống ngân hàng nói riêng. 3.2. Một số kiến nghị đối với các cơ quan để hoàn thiện chính sách lãi suất
3.2.1. Những kiến nghị với bộ nghành liên quan
Thực hiện tự do hoá lãi suất thì một trong những điều kiện không thể thiếu đó là một hành lang pháp lý tương đối đồng bộ, hoàn chỉnh, thực hiện có hiệu lực và hiệu quả. Liên quan đến vấn đề pháp lý chúng ta cần thấy vấn đề đáng chú ý sau: Nhiều văn bản pháp luật của ta đã lạc hậu, vẫn chưa được sửa đổi hoặc còn nhiều bất cập như pháp lệch thương phiếu, luật về séc.
Thứ nhất, những qui định trong Nghị định thanh toán séc còn có những bất cập sau:
Phạm vi thanh toán séc hẹp, chủ yếu séc chỉ được lưu hành trên một địa bàn tỉnh, thành phố.
Séc lĩnh tiền mặt chỉ được lĩnh tiền tại ngân hàng thanh toán (NH nơi người phát hành séc có tài khoản)
Chưa có những qui định cụ thể để đảm bảo quyền lợi của người thụ hưởng khi chấp nhận thanh toán séc.
Séc vô danh chưa được phép lưu hành.
Với những hạn chế trên đã gây nhiều khó khăn cho khách hàng. Mà một trong những điều kiện để tự do hoá lãi suất là nền kinh tế phải đảm bảo nguồn cung ứng tín dụng dồi dào cho xã hội bởi khi cung tín dụng không đáp ứng được cầu tín dụng thì lãi suất khó có thể được tự do hoá hoàn toàn được. Muốn vậy, phải tạo điều kiện để mọi tổ chức, cá nhân mở tài khoản và thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng. Mà séc là một trong những phương tiện thanh toán rất tiện dụng. Do đó, các bộ có liên quan nên nghiên cứu ban hành luật séc theo hướng khắc phục những nhược điểm nêu trên để góp phần nâng cao tính pháp lý của thể thức thanh toán này, từ đó tạo điều kiện cho việc tự do hoá lãi suất phát huy tác dụng.
Thứ hai, pháp lệch thương phiếu của Việt Nam ra đời năm 1999 nhưng cho đến nay thương phiếu trong nước vẫn chưa xuất hiện nhiều do nhiều lí do, một trong số đó là môi trường pháp lý liên quan đến hối phiếu. Cụ thể là phương thức thanh toán uỷ nhiệm thư và thư tín dụng được qui định trong quyết định số 22/QĐ-NH1 về thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt ban hành ngày 21/2/1994 đã bộc lộ nhiều hạn chế ví dụ như cả 2 phương thức đều không đòi hối phiếu đi kèm, cả 2 phương thức đều qui định là trả tiền ngay khi bộ chứng từ được xuất trình mà không cần hỏi ý kiến người mua. Với những qui định mang tính áp đặt, kém thông thoáng đã làm cho các phương thức này không có điều kiện phát huy tác dụng. Trong khi đó, để tự do hoá lãi suất NHNN cần tăng cường các công cụ gián tiếp để tác động tới chính sách lãi suất như lãi suất tái chiết khấu. Nhưng hiện nay, NHNN chỉ tái chiết khấu tín phiếu kho bạc do các NHTM trúng thầu. Nếu chỉ dừng lại ở đó thì việc chiết khấu tín phiếu kho bạc coi như ngân hàng cho vay chính phủ, vì thế công cụ này không phát huy tác dụng. Muốn công cụ này phát huy được vai trò của nó thì cơ sở chủ yếu để NHNN tái chiết khấu phải là thương phiếu. Do vậy cần phải có những điều chỉnh trong pháp lệch thương phiếu để tạo điều kiện cho NHNN thực hiện đúng vai trò của mình thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu.
Hơn nữa, thực hiện tự do hoá lãi suất có thể sẽ dẫn đến một số rủi ro phát sinh như hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, khống chế thị trường, những kẽ hở về thoả thuận ngầm…Do vậy để tránh những tiêu cực này thì trong thời gian tới các bộ nghành liên quan cần phải ban hành luật cạnh tranh và chống độc quyền để loại bỏ những tiêu cực của cạnh tranh không lành mạnh và khống chế thị trường.
3.2.2. Những kiến nghị đối với NHNN
Để góp phần hoàn thiện môi trường pháp lý tạo điều kiện cho tự do hoá lãi suất ở Việt Nam thì trong thời gian tới NHNN cần thực hiện những công việc sau:
Thứ nhất, NHNN cần xây dựng một hệ thống thông tin, trong đó công bố những công bố những thông tin cần thiết để định hướng cho việc ấn định lãi suất của các TCTD. Chẳng hạn, kênh thông tin này sẽ công bố những kết quả nghiên cứu về xu hướng diễn biến của lãi suất quốc tế và lãi suất Việt Nam, công bố những nghiên cứu và những dự đoán về biến động của cung cầu về vốn. Trên cơ sở kinh doanh thực tế cộng với nguồn thông tin bổ sung này sẽ là cơ sở để các TCTD nghiên cứu xây dựng chính sách lãi suất chi từng ngân hàng của mình. Như vậy kênh thông tin này vừa có tác dụng trợ giúp cho các TCTD vừa có tác dụng là nơi truyền tải thông tin định hướng lãi suất thị trường từ NHNN.
Thứ hai, NHNN cần thực hiện cơ chế linh hoạt hơn về quản lý ngoại hối và điều chỉnh thị trường ngoại hối, bãi bỏ qui định có tính hành chính. Xem xét nới lỏng hơn nữa giới hạn qui định mang ngoại tệ ra nước ngoài. Đồng thời cần sớm xoá bỏ qui định tỷ lệ kết hối đối với các doanh nghiệp, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi ngoại tệ xuống để tạo điều kiện tăng lãi suất huy động ngoại tệ, thu hút USD trong dân cư vào hệ thống ngân hàng, chủ động điều chỉnh trạng thái ngoại hối cho các NHTM để tăng năng lực hoạt động ngoại hối cho các ngân hàng. Từ đó sẽ điều chỉnh được tương quan lãi suất nội và ngoại tệ.
Tóm lại, tự do hoá lãi suất thì NHNN cần phải có các biện pháp củng cố phát triển thị trường tài chính tiền tệ. Công việc quan trọng là củng cố hành lang pháp lý có liên quan. Bên cạnh đó cũng cần phải có sự phối hợp giữa NHNN và Bộ tài chính nhằm tạo ra sự thống nhất giữa hai chính sách cơ bản của Nhà nước là chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá.
3.2.3. Những kiến nghị đối với các TCTD
Thực hiện cho vay theo lãi suất thoả thuận hay lãi suất thị trường, các TCTD sẽ chủ động hơn trong việc đưa ra những mức lãi suất kinh doanh của mình. Tuy nhiên, thực hiện cơ chế lãi suất mới thì các TCTD phải đối mặt với rủi ro cao hơn trong hoạt động tín dụng của mình. Hơn nữa, có thể xuất hiện hiện tượng cạnh tranh không cân sức giữa một bên là các NHTMVN có tiềm lực về vốn, công nghệ, khả năng kinh doanh với một bên là các NHTMCP với khả năng vốn và điều kiện kinh doanh hạn hẹp sẽ luôn phải chịu thiệt hoặc phải đối mặt với rủi ro cao hơn. Cũng tương tự như vậy là cạnh tranh không cân sức giữa các TCTDVN với các TCTD, NHTM nước ngoài khi phải xoá bỏ dần những qui định hạn chế hoạt động kinh doanh của họ. Vì vậy, để các TCTD hoạt động tốt và thích ứng với cơ chế lãi suất mới thì trong thời gian tới các TCTD cần phải làm những việc sau:
Thứ nhất, Có các biện pháp đẩy mạnh sự phát triển và phối hợp hoạt động trên cả 3 thị trường: thị trường tiền tệ liên ngân hàng- thị trường hối đoái- thị trường chứng khoán.
Theo lý thuyết kinh tế học và thực tế diễn biến hoạt động của các thị trường này ở các nước phát triển và các nước công nghiệp mới cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa 3 thị trường. Do vậy, nếu phát triển được các thị trường này và có sự phối hợp chặt chẽ hoạt động giữa 3 thị trường thì chính sách cho vay theo lãi suất thoả thuận sẽ thành công với các ý nghĩa:
Một là, sự biến động của lãi suất sẽ được giảm thiểu bởi sự biến động tương tác chu chuyển vốn giữa các thị trường.
Hai là, ý muốn tác động tới lãi suất của NHNN và những chính sách cần thiết khác sẽ có cơ chế thuận lợi để đi vào nền kinh tế.
Vì vậy, trong thời gian tới các TCTD nên chủ động tham gia vào cả 3 thị trường với các công cụ đa dạng hoá.
Thứ hai, nâng cao vai trò của hiệp hội ngân hàng nhằm phối hợp và thống nhất hoạt động giữa các TCTD, tránh tình trạng các TCTD cạnh tranh không lành mạnh với nhau.
Về mặt lý thuyết, khi lãi suất đã được tự do hóa thì các TCTD không phải cạnh tranh nhau về mặt lãi suất mà chủ yếu cạnh tranh với nhau về chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Nhưng trong giai đoạn đầu thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận các TCTD chủ động ấn định mức lãi suất cho vay trong việc huy động vốn cũng như cho vay. Trong điều kiện nhu cầu vốn của nền kinh tế là rất lớn, khả năng huy động vốn và cho vay vốn cuả từng ngân hàng còn hạn chế sẽ dễ dẫn đến hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, lôi kéo khách hàng của nhau, làm cho thị trường vốn trở nên lộn xộn. Để tránh tình trạng này, hiệp hội ngân hàng và các TCTD cần phát huy vai trò trong việc phối hợp với các NHTM và TCTD trên cùng địa bàn nhằm ổn định lãi suất kinh doanh.
Tóm lại, tự do hoá lãi suất là xu thế tất yếu trong quá trình hội nhập nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới. Trước mắt vẫn còn nhiều thách thức đặt ra nhưng nếu có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ các giải pháp của các bộ ngành, NHNN và các TCTD thì sẽ tạo điều kiện về mặt pháp lý cũng như môi trường để chính sách lãi suất mới phát huy tác dụng. Do vậy, trong thời gian tới các bộ ngành và NHNN cũng như các TCTD cần nhanh chóng có những điều chỉnh thích hợp để cơ chế lãi suất mới đi vào thực tế. Những giải pháp trên đây chỉ mang ý nghĩa về mặt lý thuyết và dựa trên kinh nghiệm của một số nước mới nổi. Do đó để biết được tác dụng chính của chính sách lãi suất mới đối với nền kinh tế Việt Nam thì còn phải chờ xem nó đi vào thực tiễn như thế nào, qua đó sẽ đưa ra được những giải pháp hiệu quả và sát thực hơn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chuong III.doc