Tài liệu Xây dựng văn hóa chất lượng trong nhà trường phổ thông tiếp cận xu hướng đổi mới giáo dục: TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 62 (02/2019) No. 62 (02/2019)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn
37
XÂY DỰNG VĂN HÓA CHẤT LƯỢNG TRONG NHÀ TRƯỜNG
PHỔ THÔNG TIẾP CẬN XU HƯỚNG ĐỔI MỚI GIÁO DỤC
Building quality culture in high schools to approach
the trend of education innovation
ThS. Lê Thanh Hải
Phòng Giáo dục Quận 5, TP.HCM
Tóm tắt
Nhà trường là đơn vị cơ sở của hệ thống giáo dục, đồng thời là một dạng của tổ chức trong xã hội. Văn
hóa chất lượng nhà trường là công cụ không thể thiếu trong xây dựng và phát triển giáo dục. Văn hóa chất
lượng góp phần giúp nhà trường tạo dựng được hệ thống quản lý ổn định, thích nghi với môi trường bên
ngoài và có sự hài hòa của môi trường bên trong. Bài viết giới thiệu và phân tích một số nghiên cứu liên
quan đến văn hóa chất lượng của các tác giả trong và ngoài nước, nghiên cứu thực trạng về văn hóa ...
13 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 375 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng văn hóa chất lượng trong nhà trường phổ thông tiếp cận xu hướng đổi mới giáo dục, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 62 (02/2019) No. 62 (02/2019)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn
37
XÂY DỰNG VĂN HÓA CHẤT LƯỢNG TRONG NHÀ TRƯỜNG
PHỔ THÔNG TIẾP CẬN XU HƯỚNG ĐỔI MỚI GIÁO DỤC
Building quality culture in high schools to approach
the trend of education innovation
ThS. Lê Thanh Hải
Phòng Giáo dục Quận 5, TP.HCM
Tóm tắt
Nhà trường là đơn vị cơ sở của hệ thống giáo dục, đồng thời là một dạng của tổ chức trong xã hội. Văn
hóa chất lượng nhà trường là công cụ không thể thiếu trong xây dựng và phát triển giáo dục. Văn hóa chất
lượng góp phần giúp nhà trường tạo dựng được hệ thống quản lý ổn định, thích nghi với môi trường bên
ngoài và có sự hài hòa của môi trường bên trong. Bài viết giới thiệu và phân tích một số nghiên cứu liên
quan đến văn hóa chất lượng của các tác giả trong và ngoài nước, nghiên cứu thực trạng về văn hóa chất
lượng ở các trường phổ thông hiện nay; từ đó làm cơ sở cho các trường phổ thông xây dựng văn hóa chất
lượng được thể hiện qua: văn hóa trách nhiệm, văn hóa tinh thần và văn hóa quản lý tiếp cận xu hướng đổi
mới giáo dục.
Từ khóa: mô hình văn hóa, văn hóa chất lượng, văn hóa chất lượng trường phổ thông.
Abstract
The school is the basic unit of the education system, and is also a form of organization in society. School
quality culture is an indispensable tool in construction and educational development. Quality culture in the
school plays a role in creating a stable management environment, helping the school adapt to the external
environment, creating a harmonious internal environment. The article first introduces and analyses some
research related to quality culture of domestic and foreign authors; it then studies the status of quality
culture in schools at present; thereby serving as a basis for high schools to build a quality culture shown
by: culture of responsibility, spiritual culture and management culture to approach the trend of education
innovation.
Keywords: cultural models, quality culture, quality culture in high schools.
1. Đặt vấn đề
Quá trình toàn cầu hóa và cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0 đã tác động mạnh
đến các quốc gia trong tất cả các lĩnh vực
hoạt động của con người, trong đó có giáo
dục. Mỗi một cơ sở giáo dục (CSGD) đều
có sứ mạng xây dựng và phát triển nhà
trường. Chất lượng giáo dục theo xu thế
khu vực hóa, toàn cầu hóa đang tạo động
lực thúc đẩy các tổ chức giáo dục phải xây
dựng và phát triển văn hóa chất lượng
(VHCL).
Tất cả các CSGD phải luôn luôn đổi
mới, phát triển tích cực, định hướng chiến
Email: lethanhhaih@yahoo.com
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019)
38
lược và xây dựng lộ trình phát triển phù
hợp với tình hình chung của quốc gia, khu
vực và quốc tế để có thể đáp ứng sự phát
triển của nền kinh tế tri thức [1]. VHCL
trong nhà trường là công cụ không thể
thiếu trong xây dựng và phát triển giáo
dục. VHCL có thể được xem là ý thức,
nhận thức và trách nhiệm của tất cả mọi
người trong CSGD về chất lượng, phù hợp
với chiến lược và mục tiêu chung khi thực
hiện bất kỳ công việc gì. Điều này được
hiểu là bản thân mỗi người luôn có ý thức
và trách nhiệm về công việc mình làm và
đặt chất lượng phù hợp với chiến lược và
mục tiêu lên hàng đầu. VHCL trong nhà
trường tạo nên niềm tin, giá trị, chuẩn mực,
thói quen và truyền thống hình thành trong
quá trình phát triển của nhà trường, được
các thành viên trong nhà trường thừa nhận,
làm theo và được thể hiện trong các hoạt
động của nhà trường. VHCL trong nhà
trường tạo ra một môi trường quản lý ổn
định, giúp cho Nhà trường thích nghi với
môi trường bên ngoài, tạo ra sự hoà hợp
môi trường bên trong. Ở bất kỳ giai đoạn
nào, các CSGD phải nỗ lực tìm kiếm giải
pháp xây dựng VHCL để phù hợp với bối
cảnh bên trong, đáp ứng yêu cầu bên ngoài,
hướng đến tăng cường và đồng thuận nhận
thức chất lượng của các cá nhân và tập thể.
Vì vậy, VHCL là công cụ không thể thiếu
trong xây dựng và phát triển giáo dục.
Trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi tìm
hiểu một số nghiên cứu liên quan đến
VHCL của các tác giả trong và ngoài nước.
Đồng thời, nghiên cứu thực trạng về
VHCL trong nhà trường phổ thông hiện
nay. Từ đó đề xuất một số giải pháp xây
dựng VHCL trong trường phổ thông tiếp
cận xu hướng đổi mới giáo dục.
2. Quan niệm và một số yếu tố cấu
thành văn hóa chất lượng trường phổ thông
Nhiều tác giả trong và ngoài nước có
những quan điểm khác nhau về VHVL,
cụ thể:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, VHCL
là tất cả mọi người trong CSGD cùng nhau
gánh vác và chịu trách nhiệm về chất lượng
[8] và nhận định VHCL chỉ thật sự có khi
mọi người đoàn kết xung quanh những giá
trị chung và nhằm mục đích đạt được kết
quả khác thường cho rằng VHCL
(Blanchard, O’Connor, 1988). VHCL là
yếu tố kích hoạt sử dụng hợp lý các nguồn
lực khác nhau trong một CSGD [4].
Quan điểm thứ hai theo hướng hành
động cho rằng, VHCL có liên quan chặt
chẽ đến văn hóa tổ chức (VHTC) nhằm
mục tiêu nâng cao và cải tiến chất lượng
liên tục [7, 9], trong đó văn hóa học
đường/VHCL được xem như một công cụ
để phản ánh chất lượng của CSGD [1, 14]
và việc đánh giá và cải tiến liên tục tạo
thành vòng tròn chất lượng dần dần hình
thành văn hóa chất lượng [5].
Quan điểm thứ ba theo hướng nhận
thức cho rằng, tập trung vào yếu tố con
người có thói quen làm việc có chất lượng
[4], VHCL như một chủ đề bối cảnh (bản
chất phong cách sống, cách suy nghĩ và
cách hiểu, là một cái gì đó không thể hiện
được bằng văn bản) thay vì một tập các
thủ tục [10, 3] nhấn mạnh thêm yếu tố
nhận thức của cá nhân và tập thể trong
VHCL (dựa trên quan điểm của Lanarès
[11]).
VHCL được xem như một tiểu văn
hóa, dựa trên giá trị của văn hóa tổ chức và
đề xuất khung quan sát quá trình tiến triển
VHCL như hình 1 [11].
LÊ THANH HẢI TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
39
2. Chuyển các giá trị
thành hành động
1. Gia tăng số người
đồng thuận
1+2 = Sự phát triển
của VHCL
Hình 1. Sơ đồ phát triển VHCL 2 chiều
Năm 2012, tác giả Ngô Doãn Đãi đưa
ra giải pháp xây dựng VHCL qua các giải
pháp như: (1) Bồi dưỡng kiến thức về đảm
bảo chất lượng, kiểm định chất lượng cho
các cán bộ quản lý các cấp và (2) Phát triển
đội ngũ chuyên gia về đảm bảo chất lượng
trong các cơ sở giáo dục [2]. Tác giả Lê Văn
Hảo và Nguyễn Kim Dung năm 2012 đã
trình bày những điều kiện cần thiết để xây
dựng và phát triển VHCL trong CSGD gồm:
(1) Thay đổi tư duy, trước hết ở cấp lãnh
đạo; (2) Xác định đúng vị trí của VHCL; (3)
Xây dựng hệ thống giá trị và chính sách
triển khai; (4) Tạo sự đồng thuận trong GV,
cán bộ viên chức và người học [4].
Qua việc nghiên cứu về VHCL trong
các CSĐT của các tác giả trên cho thấy
VHCL luôn gắn liền với các hoạt động của
một CSGD. VHCL nhà trường là hệ thống
niềm tin, giá trị, chuẩn mực, thói quen và
truyền thống hình thành trong quá trình
phát triển của nhà trường, được các thành
viên trong nhà trường thừa nhận, làm theo
và được thể hiện trong các hình thái vật
chất và tinh thần, từ đó tạo nên bản sắc
riêng cho mỗi tổ chức sư phạm.
Tổng hợp các yếu tố cấu thành VHCL,
chúng ta có sơ đồ dưới đây:
Hình 2: Một số yếu tố cấu thành VHCL trường phổ thông
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019)
40
VHCL trong nhà trường nhằm mục tiêu
khẳng định được phong cách, xác định hệ
thống giá trị, chuẩn mực đạo đức của nhà
trường. Một số yếu tố cấu thành VHCL
trường phổ thông thể hiện qua (hình 2) được
biểu hiện cụ thể qua các phương diện sau:
Từ phương diện cá nhân: các cá nhân
phải cùng nhau chia sẻ những khó khăn,
thách thức; đặt hết niềm tin vào công việc
hiện tại vì sự phát triển; có trách nhiệm với
nhà trường, xã hội; sống hòa đồng, đồng
thuận trong kế hoạch, chiến lược của nhà
trường, đấu tranh với những việc làm trái
với quy định.
Từ phương diện tập thể: các báo cáo
của đơn vị được phản ánh đúng thực trạng;
nhà trường có xây dựng kế hoạch tự điều
chỉnh; tăng cường trách nhiệm của CBQL
và GV; nâng cao nhận thức chất lượng
trong giảng dạy và học tập; có biện pháp
đổi mới chính sách nâng cao chất lượng.
3. Thực trạng của văn hóa chất
lượng ở các trường phổ thông
VHCL trong nhà trường đều được
biểu hiện qua bốn phương diện đặc trưng:
văn hoá quản lí giáo dục, văn hoá học tập,
chia sẻ, văn hoá dạy học và tư vấn, văn
hoá cộng đồng và giao tiếp. Có thể thấy
những yếu tố trên là tập hợp những giá trị
tích hợp chủ yếu như những truyền thống
tốt dẹp, những giá trị cốt lõi tích luỹ được
trong phát triển với những nét khác biệt
tùy theo từng CSGD. Tiêu chí quyết định
của VHCL của nhà trường phổ thông
chính là sự khác biệt [4]. Đặc biệt văn hoá
nghề nghiệp của mỗi nhà giáo, văn hoá
học tập của mỗi người học, văn hoá quản lí
của mỗi nhà quản lí càng sâu sắc thì
VHCL trong nhà trường đó càng tạo được
sự khác biệt.
Để tìm hiểu thực trạng của VHCL ở
trường phổ thông, chúng tôi đã tiến hành
phỏng vấn một số cán bộ quản lý (CBQL)
và giáo viên (GV) ở một số trường phổ
thông bằng các hình thức như trao đổi trò
chuyện hoặc qua các buổi họp. Trong một
vài trường hợp không thể phỏng vấn trực
tiếp, tác giả trao đổi thông tin qua điện
thoại. Tổng số đối tượng phỏng vấn là 17
người. Phương pháp trưng cầu ý kiến và
thực hiện qua 60 phiếu khảo sát gồm 20
CBQL và 40 GV từ một số trường tại khu
vực thành phố Hồ Chí Minh để tìm hiểu
những biểu hiện văn hóa cũng như những
suy nghĩ của họ về công việc đổi mới giáo
dục mà nhà trường phổ thông đã thực hiện.
Như chúng ta đều biết, trong môi
trường giáo dục không thể tránh khỏi
những đối kháng hoặc bất đồng quan điểm
dẫn đến chưa đồng thuận giữa các cá nhân,
đơn vị, giữa nguồn lực bên trong và nguồn
lực bên ngoài. Vì vậy, các vấn đề này sẽ
được giải quyết nếu chúng ta có được
VHCL. VHCL là cầu nối hài hòa và logic
chất lượng giữa các thực thể trong và ngoài
trường. Khảo sát hành vi của mọi người
trong trường phổ thông chúng tôi thu được
kết quả (bảng 1) như sau:
LÊ THANH HẢI TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
41
Bảng 1: Tỉ lệ phần trăm ý kiến của GV về những biểu hiện của mọi người trong CSGD
Biểu hiện CBQL GV
1. Cùng nhau chia sẻ những khó khăn, thách thức 80% 88%
2. Tin tưởng, chia sẻ, sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau 90% 80%
3. Đặt hết niềm tin vào công việc hiện tại vì sự phát triển 85% 75%
4. Hỗ trợ, giúp đỡ đồng nghiệp mới 75% 70%
5. Có trách nhiệm với nhà trường, xã hội 70% 75%
6. Sống hòa đồng, đồng thuận trong kế hoạch, chiến lược 90% 80%
7. Đấu tranh với những việc làm trái với quy định 70% 73%
8. Lãnh đạo luôn khuyến khích, tạo điều kiện 80% 75%
Kết quả thu được không có sự khác
biệt đáng kể giữa 2 đối tượng CBQL và
GV. Các tiêu chí đạt kết quả từ 70% trở
lên. Điều này thể hiện sự đồng thuận, niềm
tin, cam kết và bình đẳng của mọi người
đối với công việc và những người xung
quanh. Tiêu chí đấu tranh với những việc
làm trái với quy định và có trách nhiệm với
nhà trường, xã hội, tỉ lệ chỉ ở mức từ 70%
đến 75%. Điều này có nguyên nhân từ đặc
điểm văn hóa của người Việt Nam, thích
sống yên ổn, ngại đụng chạm nếu như lợi
ích của bản thân không bị ảnh hưởng.
VHCL của nhà trường phổ thông thể
hiện qua các yếu tố cá nhân cùng nhau chia
sẻ, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau trong công việc,
đặc biệt là mỗi cá nhân phải có trách nhiệm
trong công việc, kết quả thu được như hình 3.
Hình 3: Ý kiến của CBQL, GV về những biểu hiện của mọi người trong trường phổ thông
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019)
42
Một số CBQL, GV cho rằng vai trò
của lãnh đạo đơn vị rất quan trọng trong
việc tạo nên sự hòa thuận, bình đẳng trong
môi trường giáo dục. Mặc khác, tuy có sự
ủng hộ và tạo điều kiện thuận lợi của lãnh
đạo trường, nhưng một số ít các cá nhân
trong trường vẫn còn gây khó khăn hoặc
chưa hợp tác chặt chẽ với nhau để thực
hiện công việc. Niềm tin của cá nhân về
một vấn đề nào đó có thể dựa vào một
người khác mà họ tin tưởng để có thể đi
đến một quyết định chấp nhận hay bác bỏ.
Khảo sát CBQL, GV trong những tình
huống khó khăn hoặc quyết định một vấn
đề quan trọng liên quan đến công việc, họ
sẽ tham khảo ý kiến các đối tượng nào
(hình 4). Kết quả khảo sát (hình 4) cho
thấy đồng nghiệp thân nhất là người tin cậy
nhiều nhất để CBQL, GV tham khảo ý
kiến. Điều này cho thấy GV và CBQL rất e
dè trong việc bày tỏ những tình huống khó
khăn của mình với Ban giám hiệu cũng
như tổ trưởng của mình.
Hình 4: Tỉ lệ CBQL, GV tham khảo ý kiến các đối tượng trong tình huống khó khăn
Những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả
làm việc và chất lượng trong công việc
của lãnh đạo và GV ở một số trường phổ
thông, qua phỏng vấn cho thấy ý thức,
môi trường làm việc và hiệu quả công việc
là những yếu tố tác động, ảnh hưởng đến
chất lượng công việc rõ nhất. Đây là
những yếu tố tạo niềm tin và động lực để
họ quan tâm đến chất lượng. Nhìn chung,
sự tin tưởng là động lực thúc đẩy mỗi cá
nhân, tập thể quyết tâm thực hiện mục
tiêu, kế hoạch đã vạch ra, là nền tảng cho
sự thành công trong mọi hoạt động. Số
liệu khảo sát (bảng 1) chứng tỏ sự bình
đẳng và đồng thuận của mọi người trong
đơn vị. Các trường phổ thông cần tăng
cường trao đổi chuyên môn, tăng cường
tiếp xúc, trao đổi, giao lưu giữa lãnh đạo
nhà trường đối với GV để tạo mối quan hệ
thân thiện hơn nữa, từ đó GV có thể đặt
niềm tin vào nhà trường nhiều hơn trong
việc giải quyết các vấn đề khó khăn liên
quan đến giảng dạy và học tập. Ngoài ra,
để tìm hiểu về các hoạt động ở trường phổ
thông chúng tôi còn lấy ý kiến của CBQL,
GV về hoạt động hiện tại mà nhà trường
đang thực hiện, kết quả thu được ở bảng 2
như sau:
LÊ THANH HẢI TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
43
Bảng 2: Tỉ lệ ý kiến của CBQL và CB về thực trạng hoạt động giáo dục trường PT
Nội dung CBQL GV
1. Các báo cáo phản ánh đúng thực trạng 95% 95%
2. Nhà trường có xây dựng kế hoạch tự điều chỉnh 90% 80%
3. Tăng cường trách nhiệm của CBQL và GV 85% 83%
4. Nâng cao nhận thức chất lượng trong giảng dạy và học tập 80% 88%
5. Đổi mới mục tiêu, phương pháp, nội dung giảng dạy 85% 80%
6. Có biện pháp đổi mới chính sách nâng cao chất lượng 90% 83%
7. Thực hiện đánh giá kết quả giảng dạy đảm bảo khách quan 90% 80%
8. Kết quả sau các đợt kiểm tra được sử dụng hợp lý 80% 75%
9. Các hoạt động chuyên môn và phong trào được các cá nhân
tham gia với tinh thần tích cực
80% 85%
Kết quả của bảng 2 chỉ ra rằng các
hoạt động tại trường phổ thông hiện nay có
chất lượng khá tốt, đội ngũ CBQL và GV
luôn ý thức trong công tác quản lý và giảng
dạy. Mặt khác, 95% vừa CBQL và GV đều
nhìn nhận các báo cáo phản ánh đúng thực
trạng của các CSGD. Tổng hợp thông tin
từ các CSGD hiện nay, việc báo cáo công
việc hoạt động của các CSGD khá ổn định
và nề nếp, đây là bước tiến đáng kể của
hoạt động ĐBCL và từng bước hình thành
VHCL trong trường phổ thông. Về cơ bản
các trường phổ thông đã nhận thức được
các việc làm cần thiết phải thực hiện và có
những bước đi khác nhau để thúc đẩy và
nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập,
tạo sự đồng thuận của mọi người trong
trường, đặc biệt GV là những người tham
gia trực tiếp vào hoạt động này. Các thông
tin khảo sát chỉ ra ảnh hưởng từ nhận thức
chất lượng của CBQL và GV đã có sự thay
đổi qua cách nhìn nhận vấn đề mới, thể
hiện sự đổi mới, nhận thức, trách nhiệm
trong bước đầu hình thành và phát triển
VHCL. Từ ý kiến của CBQL và GV cho
thấy họ đã đồng thuận với hoạt động này
trong nhận thức, góp phần tăng cường năng
lực, hành động đối với các hoạt động trong
nhà trường phổ thông hiện nay, điều này là
nền tảng cho việc hình thành VHCL ở
trường phổ thông.
Ngoài ra, VHCL trong trường phổ
thông trước hết thể hiện ở phong cách hoạt
động quản lí và chuyên môn hài hoà, hiểu
biết lẫn nhau để tạo nên môi trường học tập
thân thiện, hợp tác và cởi mở cho người
học. Trong học tập, nếu nhà trường tạo
điều kiện thuận lợi để người học học hỏi,
chia sẻ và trải nghiệm xã hội trong học tập
tương tác lẫn nhau thì đây là điều kiện thúc
đẩy môi trường văn hóa phát triển.
Mọi người trong đơn vị có trách
nhiệm, hòa thuận, bình đẳng và cam kết
chất lượng hay không phần lớn do sự lãnh
đạo của lãnh đạo đơn vị, môi trường và
không khí làm việc.
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019)
44
Bảng 3: Tỉ lệ ý kiến của CBQL và CB về công tác hỗ trợ của Nhà trường
Nội dung CBQL GV
1. Điều kiện, môi trường học tập tốt 100% 93%
2. Nhà trường luôn tạo điều kiện thuận lợi 95% 80%
3. Công khai, minh bạch các hoạt động hỗ trợ 90% 80%
4. Đội ngũ CBQL nhiệt tình hướng dẫn hỗ trợ GV và người học 85% 75%
5. Định kỳ, nhà trường có tổ chức trao đổi kinh nghiệm học tập 90% 78%
6. Cách ứng xử của CBQL nhã nhặn, nhiệt tình 95% 80%
7. Hỗ trợ đầy đủ trang thiết bị học tập 95% 78%
8. Thông tin có liên quan đến công việc được đáp ứng kịp thời 85% 73%
9. GV được tham gia phản hồi ý kiến về các mặt hoạt động liên quan 85% 83%
Qua số liệu thu thập được hầu hết đánh
giá của CBQL và GV về công tác hỗ trợ
nhà trường khá cao hơn mức trung bình.
Nội dung 2, 4, 5, 7 và 8 ở đối tượng CBQL
và GV có độ chênh lệch trong ý kiến. Các
nội dung còn lại không có sự chênh lệch
đáng kể. Việc hỗ trợ giữa các thành viên
trong nhà trường và giữa nhà trường với
bên ngoài cũng là những tiêu chí giúp xã
hội nhìn vào mà xem xét VHCL của nhà
trường. Nó là những giá trị riêng thể hiện ở
nghi thức, phong cách hành vi và ngôn ngữ
giao tiếp tương đối tiêu biểu cho những
chuẩn mực chung và truyền thống của
trường. Cách ứng xử của CBQL nhã nhặn,
nhiệt tình giúp cho tập thể đoàn kết và mọi
người hợp tác cùng nhau làm việc.
Tóm lại, qua sự phân tích thực trạng
về văn hóa chất lượng của trường phổ
thông, chúng tôi thấy các hoạt động của
giáo dục phổ thông hiện nay tương đối ổn
định, hầu hết CBQL và GV đều nhận xét
việc đổi mới giáo dục có tác động nhất
định đối với bản thân, mọi hoạt động của tổ
chức thay đổi và phát triển theo hướng tích
cực tiếp cận xu thế đổi mới hiện nay. Tuy
nhiên, giữa 2 đối tượng CBQL và GV còn
có sự chênh lệch trong một số nội dung
như: nhà trường luôn tạo điều kiện thuận
lợi; định kỳ, nhà trường có tổ chức trao đổi
kinh nghiệm học tập.v.v. Bên cạnh đó, qua
phỏng vấn, CBQL và GV đều nhìn nhận có
sự tiến triển tốt, tích cực trong các hoạt
động quản lý và giảng dạy, chất lượng đào
tạo có thay đổi theo hướng tích cực, có sự
thay đổi về quy trình làm việc trong cách
quản lý, điều hành. Trong các báo cáo cho
thấy mỗi cá nhân đều có ý thức về hoạt
động phản hồi, chất lượng làm việc được
cải thiện sau công tác kiểm tra. Tuy nhiên,
những thay đổi còn chậm và chưa được
rộng khắp vì hiện tại những thay đổi còn
mang tính hình thức và chưa đi vào thực
chất. VHCL chưa có sẵn mà đang từng
bước hình thành tạo nền tảng cho sự phát
triển vững chắc. Hơn nữa, đa số các
CBQL, GV cho rằng việc xây dựng và phát
triển VHCL là hoạt động không thể thiếu ở
một trường phổ thông trong thời kỳ hội
nhập và phát triển.
LÊ THANH HẢI TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
45
4. Đề xuất biện pháp xây dựng văn
hóa chất lượng trường phổ thông
Trong quá trình hình thành và phát
triển, trường phổ thông cần tạo nên một
hệ thống các giá trị phản ánh niềm tin,
truyền thống văn hóa, chuẩn mực về
chuyên môn, để xây dựng và phát triển
thương hiệu của Nhà trường. VHCL trong
trường phổ thông là những giá trị và khát
vọng chung, là sức mạnh tinh thần tích
cực, dám nghĩ dám làm cho sự phát triển
và lớn mạnh trong mọi hoàn cảnh, là sức
mạnh tập thể thể hiện trong việc truyền
cảm hứng cho các thành viên để đạt được
những mục tiêu hiệu quả hơn. Vì vậy, dựa
trên kết quả khảo sát, đánh giá, chúng tôi
sẽ đề xuất 3 biện pháp xây dựng VHCL
trong môi trường giáo dục phổ thông trên
3 phương diện là: xây dựng VHCL về mặt
trách nhiệm (văn hóa trách nhiệm),
VHCL về mặt tinh thần (văn hóa tinh
thần) và VHCL về mặt quản lý (văn hóa
quản lý).
4.1. Nâng cao trách nhiệm của cá nhân
hình thành VHCL về mặt trách nhiệm
Theo tác giả Mergler (2007) định
nghĩa tinh thần trách nhiệm cá nhân là khả
năng nhận biết và kiểm soát suy nghĩ, cảm
xúc và hành vi của bản thân, sẵn sàng chịu
trách nhiệm trước bản thân và xã hội về kết
quả các việc đã thực hiện do bản thân đảm
nhận. Mergler đưa ra cấu trúc tinh thần
trách nhiệm cá nhân gồm bốn thành phần
như Hình 4 [7].
Hình 4. Các thành tố của tinh thần trách nhiệm cá nhân
Từ các thành phần của tinh thần trách
nhiệm cá nhân, chúng ta có thể thấy rằng
tinh thần trách nhiệm cá nhân rất quan
trọng và là nền tảng để hình thành các loại
hình văn hóa trong trường phổ thông. Tinh
thần trách nhiệm của mỗi cá nhân cần được
thể hiện qua các hoạt động trong nhà
trường để hình thành văn hóa trách nhiệm
trong từng bộ phận, đơn vị theo chức năng,
nhiệm vụ trên tinh thần nhận thức, kiểm
soát và chịu trách nhiệm những gì họ đã
làm. Mỗi giá trị trách nhiệm (tác phong,
quy trình làm việc, thực hiện nội quy, quy
định của đơn vị, cơ quan,) trong tinh
thần trách nhiệm của mỗi cá nhân góp phần
xây dựng tập hợp các giá trị trách nhiệm
trong văn hóa trách nhiệm của tập thể, đơn
vị. Vì vậy, mỗi cá nhân cần rèn luyện các
phẩm chất và kĩ năng cụ thể như:
+ Rèn luyện tinh thần vượt khó trong
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019)
46
công việc.
+ Kĩ năng nhận thức và giải quyết vấn
đề nảy sinh trong nghề nghiệp.
+ Tự học và tự nghiên cứu các văn
bản, nội quy, quy định cùng những đổi mới
về mặt chuyên môn nghiệp vụ giảng dạy.
+ Rèn luyện thái độ hòa nhã đối với
đồng nghiệp, học sinh và cộng đồng.
Đối với mỗi cá nhân nếu có tinh thần
trách nhiệm thì các hoạt động giáo dục
của trường phổ thông sẽ được triển khai
hiệu quả, đúng kế hoạch, phản ánh đúng
thực trạng, hỗ trợ cải tiến, nâng cao chất
lượng. Tinh thần trách nhiệm cá nhân sẽ
mang lại kết quả tích cực sẽ tạo ra các giá
trị chất lượng thẩm thấu vào ý thức của cá
nhân. Văn hóa trách nhiệm được hình
thành hoặc được đánh thức trong mỗi cá
nhân khi tham gia vào hoạt động giáo dục
và đào tạo. Vì vậy, văn hóa trách nhiệm là
tích hợp kết quả hoạt động hiệu quả vào
tinh thần trách nhiệm cá nhân. Khi văn
hóa trách nhiệm được hình thành sẽ thúc
đẩy nâng cao tinh thần trách nhiệm của
mỗi cá nhân.
4.2. Nâng cao tinh thần làm việc lên
tầm cao thành VHCL về mặt tinh thần
Văn hóa tinh thần trong trường phổ
thông được thể hiện trong cách suy nghĩ,
cách cư xử và cách sống của mỗi cá nhân
thông qua lý tưởng chung về mặt đạo đức,
quy tắc và đặc trưng của mọi hoạt động ở
trường học và cuộc sống hàng ngày của cá
nhân. Đời sống, vật chất và tinh thần luôn
gắn kết chặt chẽ với nhau trong mối quan hệ
biện chứng. Tinh thần làm việc tốt sẽ tạo
động lực thúc đẩy sự phát triển, chuyển hóa
các giá trị tinh thần thành hoạt động tạo ra
vật chất. Nếu mỗi người làm việc với tâm thế
thoải mái sẽ hình thành các giá trị tinh thần
tích cực qua hoạt động tạo ra sản phẩm vật
chất nhằm phát triển văn hóa tinh thần.
Ở góc độ quá trình phát triển, VHCL
tinh thần trong nhà trường phổ thông phải
có tính ổn định, bền vững và thường
xuyên; ở góc độ hệ thống, văn hóa tinh
thần trong trường phổ thông nhấn mạnh sự
lãnh đạo, khai trí, thẩm thấu và giáo dục
khai phóng; ở góc độ hình thức, văn hóa
tinh thần phải có tính nhân văn, mỗi thành
viên đều phải có đặc điểm tinh thần này,
được thể hiện qua lời nói, quy tắc, hoạt
động, môi trường hoặc phong cách làm
việc, học tập, phong cách sống; ở góc độ
cống hiến, văn hóa tinh thần trong trường
phổ thông thể hiện bốn đặc điểm gồm tính
nhân văn, tính hiện đại, tinh thần đổi mới
và phẩm chất của các thành viên. Cách
tăng cường xây dựng văn hóa tinh thần
trong trường chủ yếu là xây dựng hệ giá trị
cốt lõi, phát triển ý thức trách nhiệm của
mọi người trong trường và hình thành mô
hình văn hóa tinh thần mới. Hệ giá trị cốt
lõi là các giá trị phản ánh được các yêu cầu
thiết yếu của nhà trường. Ngày nay, sự
phát triển mạnh mẽ về mọi mặt của đời
sống xã hội dẫn đến đa dạng hóa các giá trị
trong đời sống. Do đó, đa dạng hóa các giá
trị trong trường phổ thông là điều cần thiết
để đáp ứng sự thay đổi của xã hội. Vì vậy,
mỗi CBQL, GV cần rèn luyện một số phẩm
chất sau:
+ Tâm huyết với nghề nghiệp, có ý
thức giữ gìn danh dự, lương tâm nhà giáo.
+ Có tinh thần đoàn kết, thương yêu,
giúp đỡ đồng nghiệp trong cuộc sống và
trong công tác.
+ Có lòng nhân ái, bao dung, độ
lượng, đối xử hoà nhã với người học, đồng
nghiệp.
+ Sẵn sàng giúp đỡ, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp chính đáng của người học,
LÊ THANH HẢI TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
47
đồng nghiệp và cộng đồng.
+ Tận tụy với công việc, thực hiện
đúng điều lệ, quy chế, nội quy của đơn vị,
nhà trường, của ngành.
+ Công bằng trong giảng dạy và giáo
dục, đánh giá đúng thực chất năng lực của
người học; thực hành tiết kiệm, chống bệnh
thành tích, chống tham nhũng, lãng phí.
+ Thực hiện phê bình và tự phê bình
thường xuyên, nghiêm túc; thường xuyên
học tập nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học để hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu
cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục.
Bên cạnh việc rèn luyện các giá trị cốt
lõi trên, CBQL, GV còn phải nuôi dưỡng ý
thức trách nhiệm trong nhà trường. Để hình
thành văn hóa tinh thần trong nhà trường
cũng như những giá trị cốt lõi là một quá
trình tích lũy lâu dài và khó khăn. Sự vượt
trội của văn hóa nếu có từ ý thức trách
nhiệm của mọi thành viên trong nhà trường
phù hợp với sứ mệnh đã tuyên bố. Một số
cách phát triển ý thức trách nhiệm như:
kích thích sự nhiệt tình, động viên mọi
người làm việc, cư xử đúng mực, tuân thủ
nguyên tắc, bảo đảm hiệu quả và thời gian.
Đảm bảo mọi người đều biết về sứ mệnh,
mục tiêu và tầm nhìn của nhà trường. Chỉ
đạo quyết liệt từ cấp lãnh đạo: lãnh đạo tạo
động lực thúc đẩy ý thức trách nhiệm của
mọi người chuyển thành hành động trong
công việc của mình.
4.3. Xây dựng môi trường VHCL về
mặt quản lý
Các trường phổ thông gắn liền với văn
hoá quản lí, đó là những giá trị tích cực
trong phong cách, năng lực và hiệu quả
quản lí. Điều đó phải tích luỹ từ truyền
thống và bồi dưỡng bằng hiện tại, đặc biệt
từ những tác động của quá trình hiện đại
hoá giáo dục. Văn hoá quản lí cần thấm
đậm trong nhà quản lí, trong thủ tục và
công cụ quản lí, trong tác phong và nền
nếp làm việc (quản lí thời gian), đặc biệt
trong hiệu lực và hiệu quả giải quyết vấn
đề quản lí khi chúng nảy sinh, nhất là trước
những trạng thái khác nhau của đối tượng
quản lí. Những trạng thái này thường
không được áp trực tiếp vào các quy định
và thủ tục hành chính có sẵn. Chẳng hạn,
tình trạng khấn cấp mà nhà trường thường
phải đối mặt là hoả hoạn, bão lụt, bệnh
dịch, mất điện, ô nhiễm nước, sinh viên nổi
loạn hay chống đối.v.v. Cốt lõi của văn hoá
quản lí là những kĩ năng ra quyết định, kĩ
năng giải quyết vấn đề và kĩ năng thể hiện
phong cách quản lí thích hợp với quá trình
giải quyết vấn đề. Để xây dựng văn hoá
quản lý trong trường phổ thông, CBQL,
GV cần tạo dựng ra môi trường giáo dục
tích cực bằng cách thực hiện những việc
làm cụ thể sau:
(1) Xây dựng mối quan hệ lành
mạnh giữa các thành viên trong nhà
trường bằng cách thiết lập các chuẩn mực
đạo đức tạo dựng bởi mối quan hệ giữa GV
với GV, GV với nhân viên, giữa các nhân
viên với nhau và giữa hội đồng giáo dục
với HS. Trong môi trường này, mọi người
đều cảm thấy được tôn trọng, được yêu
thích vì thế mỗi người trong tập thể đều
tìm thấy sự thành công. Việc xây dựng các
mối quan hệ lành mạnh trong nhà trường
cần được duy trì và chú trọng bằng việc tạo
ra các tương tác tích cực giữa các thành
viên trong nhà trường, thể hiện dược sự
quan tâm của cá nhân về mục tiêu, hoạt
động và chính lí tưởng về sự phát triển bản
thân mỗi thành viên.
(2) CBQL cần rèn luyện kĩ năng cần
thiết như kĩ năng lắng nghe, chia sẻ, ra
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019)
48
quyết định, phê bình và tự phê bình,...
những kĩ năng này phải được các nhà
QLCB quan tâm để tạo được sự tin cậy từ
phía GV, học sinh, phụ huynh và các đối
tượng có liên quan. Đó là tiền đề mọi người
trong tập thể có được sự trung thực nghề
nghiệp, sự nhạy cảm, quan tâm, tôn trọng,
đáng tin cậy và những bộ óc thông minh
trong việc tạo ra môi trường giáo dục nhân
văn và văn hoá quản lý tiếp cận xu hướng
đổi mới giáo dục phổ thông hiện nay.
(3) Tạo môi trường giáo dục công
bằng và dân chủ: Từng học sinh và từng
GV cần được thấy về tầm nhìn chiến lược
của nhà trường, nhận thấy nhà trường là
một môi trường công bằng và dân chủ, một
môi trường mà các nội quy nhất quán được
thực thi và đáng tin cậy dành cho tất cả mọi
thành viên. Điều đó có nghĩa là sự tin cậy
đã giúp duy trì và phát triển môi trường
giáo dục công bằng và dân chủ.
5. Kết luận
Nhà trường là một hệ thống xã hội và
là một dạng tổ chức. Những yếu tố thực thể
của hệ thống này gồm người học, người
dạy, các nhà quản lí, tài chính, tài sản, đất
đai, hạ tầng kĩ thuật, thư viện, học liệu.
Trong mỗi trường học, VHCL là thành tố
không thể thiếu được, nó được hình thành
và phát triển khi nhà trường được thành lập
và vận hành. Một nhà trường được xem
như một xã hội thu nhỏ với các chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn nhất định, hoạt
động trong khuôn khổ cho phép, là một
thành phần đang tồn tại trong xã hội.
Trường phổ thông là một tổ chức giáo dục
đào tạo những con người đáp ứng nhu cầu
của xã hội về kiến thức, kỹ năng, thái độ.
Trong đó, VHCL trong trường học là thành
tố cốt lõi quyết định chất lượng sản phẩm,
ảnh hưởng đến uy tín, thương hiệu của nhà
trường. Trong quá trình xây dựng và phát
triển VHCL, trường phổ thông phải chú
trọng đến các nội dung phát triển văn hóa
trách nhiệm, văn hóa tinh thần và văn hóa
quản lý để phù hợp với bối cảnh hiện tại.
Những nội dung nào tiên quyết phải thực
hiện, đặc biệt chú trọng tinh thần trách
nhiệm của mỗi cá nhân làm nền tảng xây
dựng lộ trình phát triển VHCL góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục, thương hiệu
và uy tín của nhà trường phổ thông.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Khánh Đức (2009), Giáo dục và phát
triển nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI,
NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
2. Ngô Doãn Đãi (2012), Những thách thức đối
với các trường ĐH Việt Nam trong việc xây
dựng và phát triển VHCL, Báo cáo tập huấn
Xây dựng hệ thống ĐBCL và VHCL bên
trong các trường ĐH, 22-24/02/2012, Vinh.
3. Nguyễn Chí Hòa, Vũ Minh Hiền (2011), Phát
triển văn hóa chất lượng hướng tới xây dựng
trường đại học đẳng cấp quốc tế, Kỷ yếu hội
thảo khoa học VHCL trong trường ĐH,
20/10/2011, NXB ĐH Quốc gia Hà Nội.
4. Lê Đức Ngọc (2008). Văn hóa tổ chức.
Trung tâm Kiểm định Đo lường và
Đánh giá chất lượng giáo dục (CAMEEQ),
Hà Nội.
5. Nguyễn Kim Sơn (2011), Bước đầu xây
dựng văn hóa chất lượng ở trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Kỷ yếu hội
thảo khoa học VHCL trong trường ĐH,
20/10/2011, NXB ĐH Quốc gia Hà Nội.
6. Thai, D. D. 2013. Forming Quality
Institutions in Higher Education
Establishment, 2013 AQAN Seminar and
Roundtable meeting: "Building Quality
Culture and National Qualifications
Framework", Ho Chi Minh City, Vietnam,
October 16th - 18th, 2013.
LÊ THANH HẢI TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
49
7. Ahmed S. M. (2008), “Quality Culture”,
College of Engineering and Computing,
Florida International University, Miami,
Florida.
8. Crosby P. B. (1986), Running Things – The
art of making things happen, New York:
McGraw Hill.
9. Gvaramadze I. (2008), “From Quality
Assurance to Quality Enhancement in the
European Higher Education Area”,
European Journal of Education (43), pp.
443-455.
10. Harvey L. (2009), Deconstructing quality
culture, EAIR Conference in Vilnius.
11. Lanarès J. (2009), Tracking the
development of a Quality Culture: Is the
discourse translated into action?,
University of Lausanne.
12. Mergler, A. 2007. Personal Responsibility:
The Creation, Implementation and
Evaluation of A School-Based Program.
Doctor thesis Doctor of Philosophy in
Education, Queensland University of
Technology.
13. Smith T. (1994). Changing University
Culture Through Promotion Policies.
1994 Frontiers in Education Conference,
pp. 552-556.
14. Vettori O. (2012), Examining Quality
Culture: Part III - From self-reflection to
enhancement, EUA Publications 2012,
European University Association.
15. Wang W. (2011). On the Destruction of
Spiritual Culture in University. 978-1-
4577-0536-6/11, IEEE, pp. 5656-5659.
Ngày nhận bài: 13/9/2018 Biên tập xong: 15/02/2019 Duyệt đăng: 20/02/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 64_3106_2214969.pdf