Tài liệu Xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức ở Việt Nam trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế - Nguyễn Khánh Vân: 86
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Chính trị - Xã hội
XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN
ĐẠI HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Nguyễn Khánh Vân*
TÓM TẮT
Trong tiến trình phát triển lịch sử nhân loại, trí thức luôn giữ một vị trí quan trọng. Hiện
nay, nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để thực
hiện được điều này không thể không nói đến vai trò cực kì quan trọng của đội ngũ trí thức mà nếu
được quan tâm đúng mức, lực lượng này sẽ tạo ra được một lực đẩy vô cùng to lớn làm chuyển biến
tích cực mọi mặt của đời sống xã hội theo hướng tiến bộ. Do vậy, việc xác định đúng đắn vai trò của
trí thức ở nước ta, để đề ra những giải pháp phù hợp nhằm xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức, tạo
điều kiện và động viên trí thức phát huy cao độ sức sáng tạo, góp trí tuệ vào sự nghiệp đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang là yêu cầu cấp thiết.
Từ khóa: Xây dựng, phá...
7 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 588 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức ở Việt Nam trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế - Nguyễn Khánh Vân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
86
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Chính trị - Xã hội
XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN
ĐẠI HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Nguyễn Khánh Vân*
TÓM TẮT
Trong tiến trình phát triển lịch sử nhân loại, trí thức luôn giữ một vị trí quan trọng. Hiện
nay, nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để thực
hiện được điều này không thể không nói đến vai trò cực kì quan trọng của đội ngũ trí thức mà nếu
được quan tâm đúng mức, lực lượng này sẽ tạo ra được một lực đẩy vô cùng to lớn làm chuyển biến
tích cực mọi mặt của đời sống xã hội theo hướng tiến bộ. Do vậy, việc xác định đúng đắn vai trò của
trí thức ở nước ta, để đề ra những giải pháp phù hợp nhằm xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức, tạo
điều kiện và động viên trí thức phát huy cao độ sức sáng tạo, góp trí tuệ vào sự nghiệp đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang là yêu cầu cấp thiết.
Từ khóa: Xây dựng, phát triển, trí thức, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế
CONSTRUCTION AND DEVELOPMENT OF THE INTELLIGENTSIA
IN VIETNAM IN BOOST PHASE OF INDUSTRIALIZATION,
MODERNIZATION AND INTERNATIONAL INTEGRATION
ABSTRACT
During the development process of human history, intellectuals always keep an important
position. Currently, our country is entering a period of accelerated industrialization and
modernization. To accomplish this impossible not to mention extremely important role of the
intelligentsia that if proper care, this force will create a tremendous thrust make positive changes
everything aspects of social life in the direction of progress. Therefore, the determination of proper
role of intellectuals in our country, to devise appropriate solutions in order to build and develop the
intelligentsia, facilitate and motivate highly promoted intellectual power light creation, intellectual
contribution to the cause of promoting industrialization and modernization of the country is an
urgent requirement.
Keywords: Construction, development, intellectuals, industrialization, modernization
and international integration
* TS. Giảng viên trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. Email: khanhvan@ueh.edu.vn
87
Xây dựng, phát triển . . .
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trí thức bao gồm những người lao động
trí óc phức tạp và sáng tạo, hoạt động trong
nghiên cứu, giảng dạy, ứng dụng khoa học,
văn hóa nghệ thuật, lãnh đạo, quản lý...Sản
phẩm lao động của họ quyết định đến năng
suất, chất lượng, hiệu quả, đến sự phát triển
của xã hội cả về vật chất và tinh thần.
Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học –
công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ và tác động
đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc
biệt, nhân loại đang bước vào thời đại của nền
kinh tế tri thức nên rất cần những con người
có trí tuệ cao, năng động và sáng tạo. Do vậy
đội ngũ trí thức càng có vai trò quan trọng
trong việc thúc đẩy sự phát triển nhanh của
mỗi quốc gia – dân tộc.
Sự phát triển của trí thức nhân loại là
nguyên nhân cơ bản của mọi biến đổi trong
đời sống xã hội; là yếu tố quyết định nhất đối
với tăng trưởng, phát triển kinh tế và tiến bộ
xã hội. Với ý nghĩa đó, tri thức trở thành lực
lượng sản xuất hàng đầu mọi ngành, mọi lĩnh
vực, mọi quốc gia đều phải dựa vào nó để
phát triển.
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới,
hội nhập, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và bắt đầu xây dựng nền kinh tế tri thức,
nên phải “ xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh,
có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển
đất nước”(4) Có thể khẳng định, xây dựng và
phát triển đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
vừa mang tính cấp bách, vừa có tính chiến
lược lâu dài; là động lực cơ bản góp phần thực
hiện thành công mục tiêu phát triển đến năm
2020: Việt Nam cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
Thực tế lịch sử đã chứng minh, trong mỗi
giai đoạn lịch sử nhất định, sự phát triển toàn
diện của mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào trí
thức con người. Vì thế, đội ngũ trí thức có vai
trò rất quan trọng trong sự phát triển của mỗi
quốc gia.
Dân tộc Việt Nam có truyền thống tôn
trọng trí thức, quý trọng hiền tài. “Tôn sư
trọng đạo”, “Chiêu hiền đãi sĩ”, “Trọng dụng
nhân tài”. Từ rất sớm, ông cha ta đã từng cho
rằng sự hưng thịnh của quốc gia phụ thuộc
rất lớn vào vai trò và thái độ của đội ngũ trí
thức đối với thể chế xã hội. Kế thừa giá trị
truyền thống tôn trọng trí thức của dân tộc ta,
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn có quan điểm nhất quán trong việc
xem xét, đánh giá đúng vai trò của trí thức,
xem trí thức là một nguồn lực trí tuệ quan
trọng của dân tộc và luôn quan tâm đến việc
chăm lo xây dựng phát triển đội ngũ trí thức.
2. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH
VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ
VAI TRÒ CỦA TRÍ THỨC
Ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã thấy
rõ vai trò, vị trí của trí thức trong tiến trình
phát triển của xã hội. Người thấy rõ tầm quan
trọng của nhận thức, học vấn - sự hiểu biết
nói chung của con người, trong tiến trình phát
triển của xã hội, nhất là trong sự nghiệp cách
mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Một
dân tộc dốt là một dân tộc yếu.” và giặc dốt
cũng nguy hại như giặc đói, giặc ngoại xâm.
Theo Hồ Chí Minh, trí thức là những người có
học thức cao trong dân chúng, tập trung trí tuệ
của dân tộc, tập trung “nguyên khí” của quốc
gia và người được coi là trí thức hoàn toàn,
trí thức chân chính phải là người có tri thức
và biết vận dụng tri thức ấy vào trong thực tế
cách mạng. Trong sự nghiệp cách mạng của
dân tộc ta, Hồ Chí Minh luôn thấy khả năng
to lớn của đội ngũ trí thức, coi trí thức là vốn
88
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
quý báu của dân tộc, là lực lượng xung kích
trên mọi lĩnh vực.
Nét nổi bật trong tư tưởng của Hồ Chí
Minh là trọng nhân tài, trọng trí thức, luôn
có cái nhìn sáng suốt, đúng đắn và quan tâm
sâu sắc đến việc phát huy vai trò của đội ngũ
trí thức trong xã hội. Ngay sau khi nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Người đã ra
lời kêu gọi, mong tìm những người tài đức ra
giúp dân, giúp nước. , Người nói: “chúng
tôi mong rằng đồng bào ta ai có tài năng và
sáng kiến về những công việc đó, lại sẵn lòng
hăng hái giúp ích nước nhà thì xin gửi kế
hoạch rõ ràng cho Chính phủ. Chúng tôi sẽ
nghiên cứu kế hoạch ấy một cách kỹ lưỡng
có thể thực hành được thì sẽ thực hành ngay.”
(1). Đồng thời, Hồ Chí Minh đã có nhiều sách
lược tài tình để đoàn kết và sử dụng năng lực
của đội ngũ nhân sĩ, trí thức có tư tưởng tiến
bộ, có tâm huyết với dân, với nước. Theo Hồ
Chí Minh , trong tiến trình của cách mạng
Việt Nam ở giai đoạn nào cũng đều cần đến trí
thức. Người chỉ rõ rằng, làm cách mạng phải
có tri thức và tầng lớp trí thức rất quan trọng
đối với cách mạng.
Do vậy, ngay trong thời kỳ đầu của sự
nghiệp cách mạng, Người đã chú ý xáy dựng
và phát triển đội ngũ trí thức mới, bên cạnh
việc cải tạo trí thức cũ. Con đường hình thành
và phát triển đội ngũ trí thức mới, theo Hồ Chí
Minh, là: “Đào tạo trí thức mới. Cải tạo trí thức
cũ. Công nông trí thức hóa. Trí thức công nông
hóa.” (2). Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng sớm
nhận ra rằng, sở dĩ trí thức chưa phát huy hết vai
trò của mình là do nhiều nguyên nhân, mà một
trong những nguyên nhân cơ bản là “Về mặt tổ
chức và lãnh đạo còn thiếu chặt chẽ chưa dựa
hẳn vào lực lượng của nhân dân, chưa dùng
hết khả năng của các nhà trí thức.”(3). Do đó,
để phát huy sức sáng tạo của trí thức, theo Hồ
Chí Minh, cần đưa trí thức vào phong trào cách
mạng, đi vào cuộc sống của nhân dân. Đó là
trường học lớn để người trí thức học tập, rèn
luyện và trưởng thành.
Nhận thức một cách sâu sắc tư tưởng của
Hồ Chí Minh về vấn đề trí thức, ngay từ khi
ra đời, đảng Cộng sản Việt Nam đã có những
biện pháp, chủ trương phù hợp nhằm tập hợp,
đoàn kết, giáo dục, bồi dưỡng đội ngũ trí thức.
Do đó, đội ngũ trí thức Việt Nam đã không
ngừng phát triển về số lượng và nâng cao về
chất lượng. Một trong những thành tựu to lớn
của Đảng là chỉ sau một thời gian ngắn đã xây
dựng được một đội ngũ cán bộ khoa học đông
đảo, bao gồm nhiều trình độ và thuộc nhiều
lĩnh vực chuyên môn khác nhau. Trước yêu
cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới, vấn
đề đào tạo mới, đào tạo lại và bồi dưỡng kiến
thức cho đội ngũ trí thức được coi là nhiệm
vụ thường xuyên, cấp bách. Do vậy, từ đại hội
Đảng lần thứ VI đến nay, nhiều văn kiện của
Đảng đã thể hiện sự quan tâm đến phát triển
con người – chủ thể trí tuệ của sự phát triển xã
hội. Xuất phát từ quan điểm coi con người là
vốn quý nhất, là nhân tố quyết định sự thành
bại của công cuộc xây dụng CNXH, Đảng đã
đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát
triển, chăm lo hạnh phúc của con người là
mục tiêu phấn đấu cao nhất của Đảng và Nhà
nước. Để đào tạo được những con người phát
triển cao về trí tuệ, Đảng luôn coi giáo dục và
đào tạo là quốc sách hàng đầu. Đảng xác định,
giữa khoa học và công nghệ, giáo dục và đào
tạo có mối liên hệ chặt chẽ với nhau: “ Cùng
với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào
tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”(7).
Trong Nghị quyết Trung ương II, khóa VIII,
Đảng tiếp tục khẳng định: “ Giáo dục đào tạo
cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố
89
Xây dựng, phát triển . . .
quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển
xã hội. Đầu tư cho giáo dục đào tạo là đầu tư
cho phát triển”(6). Để có được một đội ngũ
trí thức đông về số lượng, đồng đều về chất
lượng, về trình độ chuyên môn, Đảng và Nhà
nước luôn quan tâm đến việc tạo điều kiện
và môi trường thuận lợi cho họ. Nhận thức
được trí thức là một tầng lớp xã hội đặc biệt,
với đặc điểm là luôn tư duy sáng tạo, tìm tòi
cái mới trên cơ sở kế thừa có phê phán, luôn
mong muốn có một không gian tự do để sáng
tạo và vận dụng vào thực tiễn những kết quả
sáng tạo của mình. Đảng và Nhà nước đã từng
bước xây dựng các quy chế dân chủ trong mọi
sinh hoạt khoa học để đảm bảo quyền tự do
sáng tạo cho mỗi nhà khoa học.
Trong văn kiện Đại hội lần thứ IX, Đảng
đã khẳng định: “Đối với trí thức, tạo điều kiện
thuận lợi để thu nhận thông tin, tiếp cận các
thành tựu mới của khoa học - công nghệ và
văn hóa thế giới, nâng cao trình độ chính trị,
kiến thức chuyên môn. Khuyến khích tự do
sáng tạo, phát minh, cống hiến, phát hiện, bồi
dưỡng, sử dụng đúng và có chính sách đãi
ngộ xứng đáng các tài năng. Phát huy năng
lực của trí thức trong việc thực hiện chương
trình, đề tài nghiên cứu của Nhà nước và xây
dựng đường lối, chủ trương chính sách pháp
luật.”(5). Như vậy, việc nhìn nhận, đánh giá vai
trò của đội ngũ trí thức để có những biện pháp,
chủ trương, chính sách đúng đắn, nhằm phát
huy tiềm năng và nâng cao hơn nữa vai trò của
đội ngũ trí thức đối với sự phát triển của xã hội
là một vấn đề then chốt mà Đảng quan tâm.
3. THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ TRÍ
THỨC VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ
XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
TRÍ THỨC
Việt Nam vốn là nước nông nghiệp, thực
hiện quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN,
trình độ khoa học - kỹ thuật kém phát triển nên
cần coi trọng và tạo mọi điều kiện để ưu tiên
phát triển lượng sản xuất, đẩy nhanh tiến bộ
khoa học - kỹ thuật, tạo ra năng suất lao động
cao. Điều này đòi hỏi sự đóng góp rất lớn của
đội ngũ trí thức. Hiện nay, dưới tác động của
kinh tế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc
tế với xu hướng phát triển của nền kinh tế tri
thức thì đội ngũ trí thức càng có vai trò quan
trọng đối với sự phát triển xã hội. Sự nghiệp
đổi mới đất nước, đã và đang đặt ra cho đội
ngũ trí thức những yêu cầu, trách nhiệm nặng
nề, đồng thời, cũng tạo ra môi trường và cơ
hội để trí thức không ngừng vươn lên phát
huy trí tuệ, tài năng, cống hiến cho sự phát
triển của đất nước. Qua nghiên cứu các nhà
khoa học tự nhiên và công nghệ đã kiến nghị
với Nhà nước nhiều phương án phát triển sản
xuất. Trí thức trong lĩnh vực giáo dục và đào
tạo đã góp phần to lớn trong việc nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Đội ngũ trí thức nước ta không ngừng
tăng lên về số lượng, nâng cao về chất lượng,
đa dạng về thành phần, cơ cấu ngành nghề.
Với xu hướng trí thức hóa, trẻ hóa và chuyên
môn hóa cán bộ lãnh đạo và quản lý, công tác
chuẩn hóa cán bộ được triển khai rộng rãi và
đạt kết quả tương đối khả quan. Đối với cán
bộ cao cấp, khoảng 95% các trưởng, phó ban
của Đảng, Bộ trưởng, Thứ trưởng, Thủ trưởng
các cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng các đơn vị
thuộc Chính phủ, Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng
các cơ quan Đảng và Nhà nước có trình độ đại
học trở lên. Trải qua quá trình đổi mới, chất
lượng của đội ngũ trí thức được nâng cao. Họ
đã biết kết hợp kiến thức khoa học- công nghệ
với những hiểu biết về xã hội, biết kết hợp lý
luận với thực tiễn. Trí thức trẻ ngày nay đã
chủ động trang bị cho mình kiến thức về tin
học, ngoại ngữ .... Cơ cấu xã hội của trí thức
90
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
cũng có nhiều thay đổi. Trước hết, đó là sự
thay đổi về nguồn gốc xuất thân của trí thức.
Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ
cứu nước, đội ngũ trí thức chủ yếu gồm những
người được đào tạo trong xã hội cũ, rất ít trí
thức xuất thân từ công nhân và nông dân. Từ
khi đất nước thống nhất, Đảng và Nhà nước
luôn coi trọng đào tạo và phát triển đội ngũ
trí thức. Đại bộ phận trí thức hiện nay được
đào tạo và rèn luyện trong thời kỳ mới. Với
việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và sự phát triển của khoa học - công nghệ ở
nước ta, chắc chắn đội ngũ trí thức nước ta
sẽ đông hơn, bao gồm nhiều giai tầng xã hội
hơn, trình độ cũng khác trước. Trí thức xuất
thân từ giai cấp công nhân, nông dân ngày
càng nhiều, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
xây dựng liên minh công, nông, trí thức. Cùng
với quá trình trí thức hóa công - nông thì vấn
đề trí thức hóa nữ giới cũng diễn ra mạnh mẽ.
Xuất hiện nhiều nữ trí thức có khả năng lãnh
đạo và quản lý giỏi trong các lĩnh vực kinh
tế, văn hóa, xã hội,...Cơ cấu xã hội của đội
ngũ trí thức còn có sự thay đổi về thành phần
dân tộc. Với sự quan tâm, tạo điều kiện của
Đảng và Nhà nước, trí thức dân tộc thiểu số
không ngừng tăng lên và đóng góp tích cực
vào sự phát triển của dân tộc. Hiện nay, hầu
hết các tỉnh miền núi, vùng dân tộc thiểu số
đã có đội ngũ trí thức đạt trình độ từ trung
học chuyên nghiệp đến cao đẳng, đại học. Tuy
nhiên, đội ngũ trí thức dân tộc thiểu số hiện
vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng được đòi hỏi
của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
Bên cạnh lực lượng trí thức trong nước, trí
thức trong cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài cũng có những đóng góp đáng kể vào
sự nghiệp đổi mới đất nước. Qua nghiên cứu
và ước tính theo phương pháp thống kê của
Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài thì
hiện có khoảng 300 nghìn trí thức Việt kiều.
Thế mạnh của họ là được tiếp cận với những
thành tựu mới nhất của khoa học và công
nghệ ở các nước tư bản phát triển cao. Cùng
với chính sách mở cửa, Đảng và Nhà nước đã
ban hành chủ trương, chính sách và tạo điều
kiện thuận lợi cho trí thức Việt kiều tham gia
đóng góp công sức, trí tuệ cho đất nước. Hiện
nay, sự đóng góp của đội ngũ này chưa tương
xứng với tiềm năng to lớn của họ, vì vậy, cần
tạo điều kiện hơn nữa để đội ngũ trí thức Việt
kiều đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Có thể nói, vai trò của đội ngũ trí thức
Việt Nam đối với xã hội là rất lớn. Tuy nhiên,
vai trò ấy chưa phát huy hết hiệu quả do có
một số hạn chế sau:
Một là, khả năng khai thác và sử dụng
nguồn lực trí tuệ trong đội ngũ trí thức nước
ta chưa được quan tâm đúng mức. Trước hết
là hiện tượng lãng phí chất xám. Trí thức nước
ta có tiềm năng trí tuệ phong phú, nhưng trên
thực tế tiềm năng đó chưa được khai thác
đúng mức hoặc sử dụng không đúng chuyên
môn đào tạo. Việc phân bổ lực lượng lao động
trí tuệ ở nước ta còn bất hợp lý. Hiện nay, sự
hụt hẫng giữa các thế hệ của đội ngũ cán bộ
khoa học đầu đàn đang diễn ra nghiêm trọng.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng đang đối đầu với
tình trạng “chảy máu chất xám”
Hai là, trình độ trí thức ở nước ta hiện nay
nhìn chung còn thấp so với yêu cầu mới của
đất nước và thời đại. Đội ngũ trí thức nước ta
thiếu kiến thức chuyên sâu ở nhiều lĩnh vực
khoa học và công nghệ hiện đại vì điều kiện
và cơ hội tiếp cận với những thành tựu tiên
tiến trên thế giới còn hạn chế.
Từ những thực trạng trên, để phát huy vai
trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; mở cửa
91
Xây dựng, phát triển . . .
và hội nhập, cần thực hiện thật tốt một số giải
pháp sau đây:
Thứ nhất, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng
và sự quản lý của Nhà nước đối với đội ngũ trí
thức. Trí thức là một tầng lớp xã hội đặc biệt
nên Đảng và Nhà nước phải căn cứ vào những
đặc trưng riêng của tầng lớp này để có cơ chế
chính sách, sự lãnh đạo, quản lý phù hợp. Qua
đó, giúp họ phát huy vai trò, năng lực sáng
tạo, đóng góp trí tuệ cho đất nước. Sự điều
hành, quản lý của cơ quan nhà nước là yếu
tố tác động trực tiếp, quyết định hiệu quả lao
động khoa học của trí thức. Vì vậy, Nhà nước
phải kịp thời thể chế hóa chủ trương, đường
lối của Đảng về trí thức, tăng cường hiệu lực
quản lý nhằm phát huy cao độ khả năng lao
động sáng tạo của trí thức.
Thứ hai, tạo chuyển biến nhận thức từ
trong Đảng đến ngoài xã hội để có sự quan
tâm chung đối với trí thức, coi đây là nguồn
nhân lực quan trọng, góp phần quyết định
thành công của sự nghiệp CNH, HĐH.
Thứ ba, phát triển giáo dục – đào tạo
ngang tầm với sự phát triển của các nước
trong khu vực và trên thế giới. Trong thời đại
ngày nay, giáo dục - đào tạo được nhiều nước
xem là quốc sách hàng đầu để xây dựng và
phát triển đất nước. Nếu như nguồn lực con
người quyết định sự phát triển của mỗi quốc
gia thì giáo dục - đào tạo được coi là phương
tiện chủ yếu quyết định chất lượng của nguồn
lực con người. Giáo dục - đào tạo góp phần
trực tiếp nhất vào việc hình thành những
chuyên gia, những kỹ sư, những người lao
động có kỹ thuật trên các lĩnh vực. Giáo dục
- đào tạo không chỉ góp phần tạo ra lực lượng
lao động chất lượng cao để phát triển kinh tế,
mà còn tạo ra những con người có nhân cách.
Trong xu thế hội nhập hiện nay, muốn có đội
ngũ trí thức đáp ứng được yêu cầu của xã hội
thì giáo dục - đào tạo phải không ngừng đổi
mới, phù hợp với sự phát triển của xã hội, với
nhu cầu nhân lực của nền kinh tế. Đây là một
xu thế khách quan để đưa khoa học và công
nghệ nhanh chóng trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp.
Thứ tư, có chính sách thu hút, sử dụng và
đãi ngộ đội ngũ trí thức một cách hợp lý, thỏa
đáng. Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định
để trí thức cống hiến trí tuệ, tài năng cho đất
nước. Trong các loại lao động thì lao động
trí tuệ có vị trí đặc biệt quan trọng để tạo ra
những giá trị đặc biệt. Do vậy, cần phải có
chính sách thu hút nhân tài để khai thác và sử
dụng tốt hơn tiềm năng của đội ngũ trí thức
hiện có ở trong nước cũng như trí thức Việt
kiều và trí thức nước ngoài.
Thứ năm, tạo môi trường thuận lợi cho trí
thức phát huy tiềm năng trí tuệ và vai trò của
họ trong xã hội. Lao động của trí thức là lao
động phức tạp, mang yếu tố tự sáng tạo. Do
đó, rất cần sự tự do, độc lập trong suy nghĩ,
nghiên cứu khoa học. Bởi vậy, cần tạo lập môi
trường dân chủ thực sự để trí thức phát huy
hết những năng lực vốn có của mình. Việc
đảm bảo dân chủ cho hoạt động trí tuệ sáng
tạo chính là tạo ra tiền đề và cơ hội cho mọi
người trau dồi trí tuệ và phát huy hết năng lực
sáng tạo của mình vì sự nghiệp chung. Vấn
đề cấp bách hiện nay là cần xây dựng quy
chế dân chủ trong sinh hoạt khoa học, nhằm
tổ chức thực hiện có hiệu quả các quan điểm,
chính sách của Đảng và Nhà nước đối với đội
ngũ trí thức.
4. KẾT LUẬN
Đội ngũ trí thức là một sản phẩm đặc biệt
của xã hội. Sự xuất hiện của trí thức gắn liền
với việc hình thành và phát triển xã hội. Đội
ngũ trí thức Việt Nam có vai trò đặc biệt quan
trọng, có ý nghĩa quyết định trong tiến trình
92
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
phát triển của đất nước, nhất là thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; mở cửa
và hội nhập. Đây là một vấn đề lớn đang đặt
ra và đòi hỏi sự quan tâm của cả hệ thống
chính trị và xã hội, trong đó, trách nhiệm lớn
nhất vẫn thuộc về Đảng. Chăm lo tới sự vững
mạnh của tầng lớp trí thức là chăm lo cho
tiềm lực vững mạnh của Đảng và cho sự bền
vững của chế độ, cho quyền làm chủ, cho
cuộc sống của nhân dân, dân tộc, trong đó có
đội ngũ trí thức.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Hồ Chí Minh (2002), toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.Tr.8, tr.99.
[2]. Hồ Chí Minh (2002), toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.Tr.203, tr.204.
[3]. Hồ Chí Minh (2002), toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.Tr.326.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.tr.241.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.tr.125, tr.126.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Nghị quyết Hội nghị TW lần thứ II, BCH TW Đảng ( khóa VIII),
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.tr.29.
[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.tr.107.
[8]. Đỗ Mười (1995), Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
[9]. Phạm Tất Dong (2001), Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong CNH,HĐH, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11_6877_2121787.pdf