Xây dựng ngân hàng dữ liệu thông tin, giải pháp nhằm tăng cường tối đa khả năng ghép cho các ca ghép thận

Tài liệu Xây dựng ngân hàng dữ liệu thông tin, giải pháp nhằm tăng cường tối đa khả năng ghép cho các ca ghép thận

pdf9 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 11/07/2023 | Lượt xem: 298 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng ngân hàng dữ liệu thông tin, giải pháp nhằm tăng cường tối đa khả năng ghép cho các ca ghép thận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè chuyªn ®Ò ghÐp t¹ng - 2018 35 XÂY DỰNG NGÂN HÀNG DỮ LIỆU THÔNG TIN, GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG TỐI ĐA KHẢ NĂNG GHÉP CHO CÁC CA GHÉP THẬN Phạm Lê Nhật Minh1,2; Nguyễn Thị Thu Hoài2 Trần Văn Bảo1; Nguyễn Trường Sơn1 TÓM TẮT Xây dựng ngân hàng dữ liệu thông tin của người cho - nhận thận, từ đó thực hiện các phản ứng hòa hợp ảo dựa trên cơ sở dữ liệu này để chọn được cặp người nhận - cho thận phù hợp nhất chính là giải pháp tối ưu đang được nhiều nước trên thế giới tiến hành. Phản ứng hòa hợp ảo (virtual crossmatch) trong ghép thận được hiểu là phương pháp dự đoán kết quả hòa hợp giữa người cho và nhận thận bằng cách so sánh và đối chiếu kết quả xét nghiệm kháng thể kháng lại kháng nguyên bạch cầu người của người nhận với kết quả kháng nguyên bạch cầu người của người cho. Phản ứng hòa hợp ảo giúp tiết kiệm thời gian, khối lượng công việc tại phòng xét nghiệm miễn dịch ghép tạng và có độ chính xác tương đối cao. Ngoài ra, phản ứng hòa hợp ảo giúp dự đoán các trường hợp ghép thận từ người cho chết não hoặc ngừng tuần hoàn, đặc biệt phát huy hiệu quả trong trường hợp hoán đổi thận. * Từ khóa: Phản ứng hòa hợp ảo; Kháng nguyên bạch cầu người; Kháng thể kháng lại kháng nguyên bạch cầu người; Hoán đổi người cho - nhận thận. Building Up a Bank of Data on Kidney Donor and Recipient, an Effective Solution to Maximize the Opportunities for Transplanted Patients Summary Building up a bank of data on kidney donor and recipient and then, based on this database to apply virtual crossmatch to find out the optimal compatible pair of donor-recipient for kidney transplantation, is now considered as an effective solution to maximize the opportunities for transplanted patients in the world. Virtual crossmatch is defined as the ability to predict the outcome of the final crossmatch based on HLA antibody screening and HLA identification by comparing the recipient anti-HLA antibodies with the donor HLA-alleles. The virtual crossmatch decreases the workload in HLA-laboratories and facilitates the organ allocation. The virtual crossmatch is considered as a reliable method to predict the outcome of pre-transplantation crossmatch between live recipient and deceased donor, especially with cases on kidney paired donation exchange. * Key words: Virtual crossmatch; Human leucocyte antigen; Anti-HLA antibodies; Kidney paired donation exchange. 1. Bệnh viện Chợ Rẫy 2. Trường Đại học Quốc tế Thành phố Hồ Chí Minh Người phản hồi (Corresponding): Phạm Lê Nhật Minh (stevenminh79@gmail.com) Ngày nhận bài: 10/08/2018; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 20/09/2018 Ngày bài báo được đăng: 02/10/2018 t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè chuyªn ®Ò ghÐp t¹ng - 2018 36 ĐẶT VẤN ĐỀ Ghép tạng là một trong mười thành tựu vĩ đại của nhân loại. Ghép tạng nói chung hay ghép thận nói riêng là giải pháp cứu sống bệnh nhân (BN), đặc biệt BN ở giai đoạn cuối của bệnh, là lựa chọn cuối cùng và mang lại chất lượng cuộc sống tốt nhất cho BN so với những giải pháp điều trị khác. Trên thế giới, tại một số nước phát triển, việc hiến thận từ người cho không cùng huyết thống, từ BN chết não, ngừng tuần hoàn hoặc những trường hợp hoán đổi thận từ người sống chiếm > 90% [4, 5]. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới, số ca ghép thận không cùng huyết thống tăng dần theo từng năm (năm 2012 là 77.818 ca, năm 2013 là 79.325 ca). Tuy số ca ghép thận và tạng khác tăng đều mỗi năm, nhưng hiện vẫn chỉ đáp ứng chưa đến 10% nhu cầu ghép tạng và vẫn còn > 90% BN chờ được ghép tạng nói chung [6, 7]. Tại Việt Nam, tình hình hiến thận còn khó khăn hơn nhiều. Nguồn đăng ký hiến thận từ người cho sống rất ít so với nhu cầu, đa số đăng ký hiến cho người thân [1, 2, 3]. Những trường hợp hiến thận từ người cho chết não, ngừng tuần hoàn càng hiếm hơn và thường phải trải qua quá trình thuyết phục, vận động rất khó khăn so với các nước khác trên thế giới. Hiện nay, chúng ta vẫn chưa có phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu và tìm sự phù hợp về mặt miễn dịch giữa người cho - nhận tạng. Do vậy, xét nghiệm tìm sự phù hợp giữa người cho - nhận thận vẫn còn nhiều hạn chế và mất rất nhiều thời gian. Vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để tăng thêm cơ hội được ghép thận đối với những trường hợp chờ nhận thận, đặc biệt mở rộng các hình thức hoán đổi thận cho nhau ở các cặp người cho - nhận thận không phù hợp?. Xây dựng ngân hàng dữ liệu thông tin của người cho - nhận thận, từ đó thực hiện các phản ứng hòa hợp ảo dựa trên cơ sở dữ liệu này để chọn được cặp người nhận - cho thận phù hợp nhất chính là giải pháp tối ưu đang được các nước phát triển trên thế giới tiến hành hiện nay. GHÉP THẬN VÀ VIỆC ỨNG DỤNG NGÂN HÀNG DỮ LIỆU THÔNG TIN 1. Trên thế giới. Nghiên cứu của Paolo Ferrari tại Úc, một trong những nơi áp dụng thành công chương trình phản ứng hòa hợp ảo: phản ứng hòa hợp ảo được thực hiện bởi máy tính trên nền cơ sở dữ liệu của người cho - nhận thận không phù hợp đã tạo thêm nhiều cơ hội cho những người chờ nhận thận tìm được người cho phù hợp ở mức cao nhất, đặc biệt tạo thêm nhiều cơ hội nhận thận của BN có độ nhạy cảm cao. Tác giả thực hiện trên 53 cặp người cho - nhận thận không phù hợp và 2 người cho thận nhân đạo, kết quả sau khi áp dụng phản ứng hòa hợp ảo cho thấy có 20 BN (38%) tìm được người cho phù hợp và được ghép thận theo chương trình hoán đổi thận cho nhau, trong đó 35% BN có PRA (Panel Reactive Antibody) > 90% [8, 9, 10]. Theo Kristiaan Glorie, từ khi được chấp nhận vào năm 1986 đến nay, chương trình hoán đổi thận với sự hỗ trợ của phản ứng hòa hợp ảo đã được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới nhằm tối t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè chuyªn ®Ò ghÐp t¹ng - 2018 37 ưu hóa cơ hội nhận thận của BN với nhiều ưu điểm vượt trội, đồng thời việc hoán đổi thận cho nhau đang thực hiện trên quy mô quốc tế với người cho và người chờ nhận thận sinh sống tại hai quốc gia khác nhau [11]. Massie (Trường Đại học Johns Hopkins) nhận xét: số lượng ca phẫu thuật ghép thận từ chương trình hoán đổi thận tăng dần theo từng năm với tỷ lệ tăng trưởng 3,2 lần (từ 494 ca lên 1.593 ca) nhờ mô hình ghép thận đa trung tâm và chia sẻ nguồn dữ liệu về người hiến và người chờ nhận thận [12]. Gentry và CS (Khoa Y, Trường Đại học Johns Hopkins) cho rằng, nếu trước đây, chương trình hoán đổi thận gặp một số hạn chế do bất đồng nhóm máu giữa người cho thận, việc này sẽ được cải thiện nếu có cặp người cho - nhận thận phù hợp tham gia vào chương trình hoán đổi thận sẽ tạo thêm nhiều cơ hội cho người chờ nhận thận tìm được người cho phù hợp. Theo quy mô quốc gia, nếu có sự tham gia của những cặp người cho - nhận thận phù hợp sẽ tạo cơ hội cho cả nghìn người được ghép thận so với việc không có sự tham gia của họ [13]. Nhu cầu về ghép thận đang ngày một gia tăng trên thế giới. Do vậy, việc xây dựng một chiến lược mang tầm vóc quốc gia trong điều phối cấy ghép thận cũng như hoán đổi thận luôn là đích đến của nhiều nước trên thế giới. Các quốc gia có dân số ít như Hà Lan, Canada, Úc đều đã xây dựng chương trình quốc gia về điều phối ghép tạng. Các trung tâm điều phối về cấy ghép tạng có thể chia sẻ dữ liệu cho nhau để tăng thêm cơ hội ghép tạng cho BN, đồng thời giảm thời gian chờ nhận tạng, nhằm giúp BN có chất lượng cuộc sống tốt hơn [10]. 2. Tại Việt Nam. Theo số liệu thống kê tại Bệnh viện Chợ Rẫy, phần lớn những trường hợp đăng ký hiến và nhận thận là người cùng huyết thống hoặc có quan hệ với người nhận. Nếu tất cả các xét nghiệm ghép tạng đều phù hợp thì cuộc phẫu thuật cho - nhận thận sẽ tiến hành. Ngược lại, nếu các xét nghiệm không phù hợp, họ phải tìm một người cho thận mới. Việc này mất rất nhiều thời gian và đôi khi người chờ nhận thận sẽ mất luôn cơ hội ghép thận vì không thể chờ quá lâu, trong khi tình trạng suy thận mạn ngày càng tiến triển nặng. Đối với nguồn thận được hiến từ người cho chết não hoặc ngừng tuần hoàn cũng gặp khó khăn khi chọn người nhận phù hợp. Giới hạn về thời gian từ khi quả thận được lấy ra khỏi cơ thể BN phải được ghép vào cơ thể mới càng sớm càng tốt là một thách thức rất lớn đối với người làm công tác ghép thận. Tất cả giai đoạn tra cứu về phù hợp HLA của người nhận và người cho, đối chiếu kết quả kháng thể kháng HLA của người nhận với kết quả HLA của người cho để tìm người nhận phù hợp đều phải tiến hành thủ công. Khi chọn được người nhận thích hợp, việc mời họ đến bệnh viện để xét nghiệm tìm sự phù hợp thật sự giữa người cho và nhận thận mất rất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến quá trình ghép thận. Tại Việt Nam, hiện vẫn chưa có phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu và tìm sự phù hợp về mặt miễn dịch giữa người cho - nhận tạng. Do vậy, cần xây dựng phần t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè chuyªn ®Ò ghÐp t¹ng - 2018 38 mềm thiết kế mô phỏng để quản lý dữ liệu của người cho - nhận thận và tìm sự phù hợp về miễn dịch như nhóm máu hệ ABO, Rhesus, HLA, kháng thể kháng HLA giữa người cho và người nhận thận. Những người trong danh sách cho thận còn sống, khoẻ mạnh hoặc nguồn thận từ BN chết não, ngừng tuần hoàn sau khi đã kiểm tra, tuyển chọn sẽ được thực hiện các xét nghiệm liên quan đến ghép thận như nhóm máu hệ ABO, Rhesus, HLA... Tất cả kết quả lưu trong chương trình quản lý và thường xuyên được cập nhật. XÂY DỰNG NGÂN HÀNG DỮ LIỆU THÔNG TIN 1. Xây dựng cơ sở dữ liệu về người cho - nhận thận. Yếu tố then chốt để có thể chọn được cặp người cho - nhận thận phù hợp từ những cặp không phù hợp về mặt miễn dịch ghép trước đó là cần phải xây dựng cơ sở dữ liệu bao gồm: thông tin cá nhân, kết quả nhóm máu, HLA của người cho, người nhận; kết quả kháng thể kháng HLA của người nhận. Ngoài ra, có thể bổ sung những thông tin khác như: độ tuổi, nơi sinh sống của người cho và người nhận hoặc bệnh viện, trung tâm mà người cho, nhận đăng ký hiến - nhận thận, cụ thể như sau. 2. Xây dựng chương trình “thiết kế mô phỏng”. Chương trình được xây dựng trên cơ sở ứng dụng kiến thức tin - sinh học vào trong lĩnh vực y khoa để xây dựng ngân hàng dữ liệu thu thập tất cả thông tin, kết quả liên quan đến người cho thận và người nhận thận với mục đích chọn được cặp người cho và người nhận phù hợp nhất về mặt miễn dịch để ghép thận và sử dụng hiệu quả nhất nguồn thận được hiến từ người sống hoặc người cho chết não, ngừng tuần hoàn. Trên thế giới đã áp dụng một hình thức dự đoán kết quả hòa hợp trong ghép thận gọi là phản ứng hòa hợp ảo trong ghép thận nhằm gia tăng thêm nhiều cơ hội cho những trường hợp chờ nhận thận. Phản ứng hòa hợp ảo (virtual crossmatch) trong ghép thận được hiểu là phương pháp dự đoán kết quả hòa hợp giữa người cho và nhận thận bằng cách so sánh và đối chiếu kết quả xét nghiệm kháng thể kháng lại kháng nguyên bạch cầu người HLA (anti-HLA: Anti Human Leucocyte Antigen) của người nhận với kết quả kháng nguyên bạch cầu người (HLA) của người cho để tìm xem có hay không sự hiện diện của kháng thể chuyên biệt ở người cho (DSA: Donor Specific Antibody), vì kháng thể này xuất hiện được xem là một chỉ thị cho hiện tượng thải ghép qua trung gian kháng thể cũng như đe dọa sự tồn tại của mảnh ghép. Việc kết hợp so sánh kết quả xét nghiệm khác như HLA, nhóm máu của người nhận và người cho, có thể dự đoán phản ứng hòa hợp trước ghép thận là âm tính hoặc dương tính. Phản ứng hòa hợp ảo âm tính cho thấy nguy cơ thải ghép thấp, đồng thời dự hậu sự tồn tại lâu dài của mảnh ghép trong cơ thể người nhận. Ngược lại, phản ứng hòa hợp ảo dương tính sẽ dự hậu cho nguy cơ thải ghép cao và tỷ lệ nghịch với thời gian tồn tại của mảnh ghép. Phản ứng hòa hợp ảo giúp tiết kiệm thời gian và khối lượng công việc tại phòng xét nghiệm miễn dịch ghép tạng và có độ chính xác tương đối cao. Ngoài ra, t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè chuyªn ®Ò ghÐp t¹ng - 2018 39 phản ứng hòa hợp ảo giúp dự đoán trong những trường hợp ghép thận từ người cho chết não hoặc ngừng tuần hoàn, đặc biệt phát huy hiệu quả trong trường hợp hoán đổi tạng cho nhau (KPD: Kidney Paired Donation exchange), một giải pháp hiệu quả cho phép các cặp người cho - nhận thận không phù hợp về mặt miễn dịch được hoán đổi với nhau để tìm ra người nhận - cho thận tiềm năng, phù hợp về miễn dịch và không có sự hiện diện của DSA để tiến hành ghép thận [14]. 3. Dữ liệu về nhóm máu. Cặp người cho - nhận thận phải phù hợp về nhóm máu ABO. Người cho có nhóm O có thể cho người nhận có các nhóm máu khác 4. Dữ liệu kết quả HLA và kháng thể kháng HLA. Người cho phải được xét nghiệm HLA bằng kỹ thuật có độ phân giải cao cho các locus HLA-A, -B, -Cw, -DRB1, -DPB1 và - DQB1. Tốt nhất, nên sử dụng kỹ thuật sinh học phân tử để định danh các locus trên. Nếu có thể, nên xét nghiệm thêm các locus HLA-DQA1, -DRB3, -DRB4 và -DRB5. Người nhận phải được xét nghiệm kháng thể kháng HLA ở cả hai lớp I và II bằng kỹ thuật pha rắn, trong đó kỹ thuật Luminex được khuyến nghị sử dụng do có độ nhạy và độ đặc hiệu cao. Các kỹ thuật pha rắn đã và đang thay thế dần kỹ thuật dựa trên tế bào và là “tiêu chuẩn vàng” cho xét nghiệm định lượng kháng thể kháng HLA. Kháng thể kháng HLA được phát hiện trong huyết thanh người nhận có chỉ số cường độ huỳnh quang trung bình (MFI: Mean Fluorescence Intensity) > 500 được ghi nhận là dương tính. Đối với người nhận có độ nhạy cảm cao, chỉ chấp nhận đưa vào chương trình hoán đổi thận nếu chỉ có 1 alen của 1 locus không phù hợp với người cho tương lai. 5. Tối ưu hóa chọn cặp người cho - nhận thận phù hợp. Ưu tiên chọn cặp người cho - nhận thận phù hợp về nhóm máu, phù hợp các alen của locus chính như HLA-DR, -B, -A nhiều nhất; người nhận có kết quả anti- HLA âm tính hoặc không có DSA. Ngoài ra, có thể chọn thêm các điều kiện như: độ tuổi, cùng một trung tâm ghép thận, phạm vi sống của cặp người cho và nhận gần nhau Với cơ sở dữ liệu về người cho - nhận, máy tính sẽ chọn ra người cho - nhận thận phù hợp nhất với các tiêu chí nêu trên. Cặp người cho - nhận thận không phù hợp ở vị trí đầu tiên của danh sách chờ máy tính sẽ ưu tiên chọn trước. Cặp người cho - nhận thận ở vị trí thứ hai trong danh sách sẽ tiến hành tương tự, việc tìm kiếm người cho - nhận thận thực hiện cho đến khi không tìm được người cho - nhận thận phù hợp. Sau khi đã chọn xong, tiến hành làm phản ứng hòa hợp trong phòng thí nghiệm để khẳng định và kết quả phản ứng hòa hợp phải là âm tính để thực hiện ghép thận. Với những cặp được chọn có kết quả âm tính, tiến hành lên kế hoạch ghép thận, đồng thời thông tin của những người này sẽ đưa ra khỏi danh sách chờ. Bằng cách này, định kỳ, cơ sở dữ liệu được bổ sung thêm thông tin của cặp người cho - nhận thận mới, khi đó máy tính sẽ tiến hành chọn lựa một lần nữa để chọn ra cặp người cho - nhận thận phù hợp nhất với cơ sở dữ liệu vừa bổ sung. t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè chuyªn ®Ò ghÐp t¹ng - 2018 40 6. Các phương cách hoán đổi để chọn lựa các cặp cho - nhận thận tối ưu. Ý tưởng hoán đổi thận được Felix Rapaport đề xuất năm 1986, đến năm 1991, ca hoán đổi thận đầu tiên thực hiện tại Hàn Quốc. Sau đó, các nước châu Âu và Mỹ cũng bắt đầu thực hiện và mở rộng số ca hoán đổi thận trên thế giới [15]. Theo Adam W Bingaman (2010), khoảng 6.000 người trong danh sách chờ nhận thận ở Mỹ đã tìm được người cho thận sống phù hợp nhờ chương trình hoán đổi thận. Qua đó cho thấy, việc hoán đổi thận ghép giữa những cặp người cho - nhận thận là một giải pháp hiệu quả, ít tốn kém hơn các phương pháp giải mẫn cảm khác. Có nhiều phương cách hoán đổi để lựa chọn cặp người cho - nhận thận tối ưu, dưới đây là một số phương cách chọn phổ biến, hầu hết đang áp dụng rộng rãi tại các nước trên thế giới: Hình 1: Các phương cách hoán đổi thận để chọn cặp cho - nhận thận tối ưu [15]. (Nguồn: Bradley Wallis và CS, 2011) Phương cách đổi 3 chiều Phương cách đổi theo kiểu Domino Phương cách đổi kiểu chuỗi NEAD Phương cách đổi có sự tham gia của cặp phù hợp Phương cách đổi kiểu liệt kê Phương cách đổi 2 chiều t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè chuyªn ®Ò ghÐp t¹ng - 2018 41 - Phương cách (A): hai cặp người cho - nhận thận không phù hợp đổi chéo với nhau còn gọi là đổi hai chiều. - Phương cách (B): đổi 3 chiều giữa ba cặp người cho - nhận thận không phù hợp. - Phương cách (C): đổi theo dạng tuần tự, trong đó người cho khác nhóm máu với người nhận ở cặp đầu tiên sẽ hiến tạng cho người nhận phù hợp trong danh sách chờ nhận thận theo thứ tự, sau đó người nhận sẽ đưa vào danh sách ưu tiên chờ nhận thận khi có người cho phù hợp. - Phương cách (D): được thiết kế giống domino, người cho thận nhân đạo sẽ hiến thận cho người nhận ở cặp thứ nhất, sau đó người cho ở cặp thứ nhất sẽ tiếp tục chuỗi này hoặc hiến thận cho người nhận trong dánh sách chờ nhận thận. - Phương cách (E): vận động một cặp người cho - nhận thận phù hợp tham gia vào chương trình hoán đổi thận để giúp giải quyết những trường hợp khó tìm người cho - nhận thận phù hợp. - Phương cách (F): giống một phần với phương cách domino, tuy nhiên, người cho ở chuỗi thứ nhất sẽ làm cầu nối và chờ để hiến cho người nhận phù hợp ở chuỗi thứ hai. 7. Thiết lập ngân hàng dữ liệu thông tin trong ghép thận. Đối với những trường hợp người cho thận là BN chết não, ngừng tuần hoàn, sau khi thân nhân BN hoặc chính BN đồng ý hiến thận trước khi qua đời và được Hội đồng Ghép tạng chấp thuận, phòng xét nghiệm sẽ lấy mẫu máu của BN để thực hiện các xét nghiệm ghép tạng như nhóm máu hệ ABO, Rhesus, HLA Sau khi có kết quả, kỹ thuật viên xét nghiệm nhập vào chương trình quản lý. Máy tính sẽ chọn ra những người có kết quả nhóm máu hệ ABO, Rhesus, HLA, kháng thể kháng HLA phù hợp nhất với kết quả miễn dịch của người cho thận. Tiếp theo, kỹ thuật viên xét nghiệm thực hiện phản ứng hòa hợp thực tế giữa mẫu huyết thanh của người trong danh sách chờ nhận thận đã được chọn với tế bào lympho B và T của người cho thận. Những trường hợp có kết quả hòa hợp âm tính sẽ chọn và gửi về cho Hội đồng Ghép tạng để tiếp tục chọn lựa người phù hợp tối ưu nhất cho ghép thận. Đối với những trường hợp người cho thận cùng huyết thống với người nhận cũng tiến hành như trên. Nếu kết quả xét nghiệm của người cho thận và người nhận thận có cùng huyết thống không phù hợp với nhau, chương trình sẽ tự động tìm trong cơ sở dữ liệu sẵn có người chờ nhận thận và người cho thận có kết quả phù hợp miễn dịch với cặp người cho và nhận thận. Bác sỹ điều trị sẽ mời các cặp đôi đến để trao đổi hoán đổi thận cho nhau, nếu họ đều đồng ý, xét nghiệm hòa hợp chéo giữa người cho và nhận thận sẽ thực hiện để tìm sự phù hợp thật sự trước khi tiến hành ghép. Nếu kết quả hòa hợp chéo âm tính đối với cả hai cặp người cho và nhận thận, cuộc phẫu thuật lấy thận và ghép thận giữa hai cặp sẽ diễn ra cùng một thời điểm tại cùng một bệnh viện [14]. Tại Bệnh viện Chợ Rẫy, từ tháng 3 - 2018, chúng tôi đã bắt đầu xây dựng ngân hàng dữ liệu thông tin của người t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè chuyªn ®Ò ghÐp t¹ng - 2018 42 cho - nhận thận, cũng như chương trình thiết kế mô phỏng để tiến hành phản ứng hòa hợp ảo nhằm tìm ra cặp người cho - nhận thận phù hợp trên nền cơ sở dữ liệu thu thập được. KẾT LUẬN Xây dựng ngân hàng dữ liệu thông tin của người cho - nhận thận được xem là vấn đề quan trọng hàng đầu với những thông tin cơ bản như: - Thông tin cá nhân của người cho - nhận thận. - Kết quả xét nghiệm nhóm máu của người cho - nhận thận. - Kết quả HLA của người cho - nhận thận thực hiện bằng các kỹ thuật có độ phân giải cao. - Kết quả kháng thể kháng HLA của người nhận thận được thực hiện bằng các kỹ thuật pha rắn như kỹ thuật Luminex để tăng độ nhạy và độ đặc hiệu. Bằng việc ứng dụng phản ứng hòa hợp ảo trong ghép thận dựa trên cơ sở dữ liệu của ngân hàng dữ liệu thông tin, người ta đã tạo thêm nhiều cơ hội cho những cặp người cho - nhận thận: sớm tìm được người nhận - người cho phù hợp, an toàn để có thể ghép thận ngay; sử dụng hiệu quả nguồn thận hiến, giải quyết phần nào tình trạng khan hiếm thận, ngăn ngừa tình trạng buôn bán thận Nhiều kết quả thuyết phục được ghi nhận trên thế giới đã chứng minh hiệu quả của chương trình này. Ngoài ra, nếu có thêm các cặp người cho - nhận phù hợp tham gia vào chương trình hoán đổi thận sẽ gia tăng thêm cơ hội cho người chờ nhận thận ở các cặp không phù hợp trước đó. Đã đến lúc cần phải áp dụng chương trình này tại Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phạm Gia Khánh. Tiến bộ ghép tạng ở Việt Nam: từ giấc mơ đến hiện thực. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh. 2016, 20 (4), tr.1-5. 2. Trần Ngọc Sinh. Phát triển thêm trung tâm ghép tạng ở nước ta, vấn đề chiến lược. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh. 2016, 20 (4), tr.6-9. 3. Dư Thị Ngọc Thu, Nguyễn Trọng Hiền, Nguyễn Thị Thái Hà, Trần Trọng Trí, Hoàng Khắc Chuẩn, Châu Quý Thuận, Dương Quang Vũ, Thái Minh Sâm, Chu Văn Thuận, Trần Ngọc Sinh. Người hiến tạng chết não: các trường hợp đầu tiên tại Việt Nam. Kỷ yếu Công trình ghép thận. Bệnh viện Chợ Rẫy 2011 - 2016. 2016, tr.118-120. 4. Vivek B Kute, Aruna V Vanikar, Pankaj R Shah, Manoj R Gumber, Himanshu V Patel, Divyesh P Engineer, Pranjal R Modi, Veena R Shah, Hargovind Trivedi. Review article: Increasing access to kidney transplantation in countries with limited resources: The Indian experience with kidney paired donation. 2014 Asian Pacific Society of Nephrology. Nephrology. 2014, 19, pp.599-604. 5. Vivek B Kute, Priyadarshini S Shah, Aruna V Vanikar, Manoj R Gumber, Himanshu V Patel, Divyesh P Engineer, Pankaj R Shah, Pranjal R Modi, Veena R Shah, Syed Jamal Rizvi, Hargovind L Trivedi. Increasing access to renal transplantation in India through our single-center kidney paired donation program: A model for the developing world to prevent commercial transplantation. Steunstichting ESOT. 2014, 27, pp.1015-1021. 6. WHO. Donation and transplantation. 2012. 7. WHO. Donation and transplantation. 2013. t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè chuyªn ®Ò ghÐp t¹ng - 2018 43 8. Paolo Ferrari, Willem Weimar, Rachel J Johnson, Wai H Lim, Kathryn J Tinckam. Kidney paired donation: Principles, protocols and programs. Nephrol Dial Transplant. 2015, 30, pp.1276-1285. 9. P Ferraria, S Fidler, J Wrightf, C Woodroffe, P Slater, A Van Althuis-Jones, R Holdsworth, F.T Christiansen. Virtual crossmatch approach to maximize matching in paired kidney donation. American Journal of Transplantation. 2011, 11, pp.272-278. 10. Paolo Ferrari, Samantha Fidler, Rhonda Holdsworth, Claudia Woodroffe, Gabriella Tassone, Narelle Watson, Linda Cantwell, Greg Bennett, Alycia Thornton, Frank T Christiansen, Lloyd D’Orsogna. High transplant rates of highly sensitized recipient s with virtual crossmaching in kidney paired donation. Transplantation. 2012, 94, pp.744-749. 11. Kristiaan Glorie, Bernadette Haase- Kromwijk, Joris van de Klundert, Albert Wagelmansand Willem Weimar. Review: Allocation and matching in kidney exchange programs. Transplant International. Steunstichting ESOT. 2014, 27, pp.333-343. 12. Massiea, S.E Gentry, R.A Montgomerya, A.A Bingamand, D.L Segev. Center-level utilization of kidney paired donation. American Journal of Transplantation. 2013, 13, pp.1093-1322. 13. S.E Gentry, D.L Segeva, M Simmerling, R.A Montgomery. Expanding kidney paired donation through participation by compatible pairs. American Journal of Transplantation. 2007, 7, pp.2361-2370. 14. Guillermo Garcia Garcia, Paul Harden, Jeremy Chapman. Global role of kidney transplantation. Hong Kong Journal of Nephrology. 2012, 14, pp.1-6. 15. Bradley Wallis, Kannan P Samy, Alvin E Roth, Michael A Rees. Kidney paired donation. Nephrol Dial Transplant. 2011, 26, pp.2091-2099.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfxay_dung_ngan_hang_du_lieu_thong_tin_giai_phap_nham_tang_cuo.pdf
Tài liệu liên quan