Tài liệu Xây dựng một số nội dung và hoạt động giáo dục giới tính cho học sinh lớp 1 tại thành phố Hồ Chí Minh - Nguyễn Minh Giang: VJE Tạp chí Giáo dục, Số 446 (Kì 2 - 1/2019), tr 24-29; 19
24
Email: gdthgiang@gmail.com
XÂY DỰNG MỘT SỐ NỘI DUNG VÀ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
CHO HỌC SINH LỚP 1 TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Minh Giang - Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
Lê Thị Thu Lý - Sinh viên Khoa Giáo dục Tiểu học, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
Ngày nhận bài: 04/10/2018; ngày sửa chữa: 17/10/2018; ngày duyệt đăng: 25/10/2018.
Abstract: In the article, we have researched and built a number of content and activities of sex
education for grade 1st students, including: How we are formed; son - daughter; five-finger rule
and private part. The main teaching facilities used are electronic data including pictures and
movies. Teaching methods are implemented through learning games and role playing. Students
are allowed to take part in practical activities of some related situations in order to formulate abuse
prevention skills. Experimental results confirmed that ...
7 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 422 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng một số nội dung và hoạt động giáo dục giới tính cho học sinh lớp 1 tại thành phố Hồ Chí Minh - Nguyễn Minh Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 446 (Kì 2 - 1/2019), tr 24-29; 19
24
Email: gdthgiang@gmail.com
XÂY DỰNG MỘT SỐ NỘI DUNG VÀ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
CHO HỌC SINH LỚP 1 TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Minh Giang - Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
Lê Thị Thu Lý - Sinh viên Khoa Giáo dục Tiểu học, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
Ngày nhận bài: 04/10/2018; ngày sửa chữa: 17/10/2018; ngày duyệt đăng: 25/10/2018.
Abstract: In the article, we have researched and built a number of content and activities of sex
education for grade 1st students, including: How we are formed; son - daughter; five-finger rule
and private part. The main teaching facilities used are electronic data including pictures and
movies. Teaching methods are implemented through learning games and role playing. Students
are allowed to take part in practical activities of some related situations in order to formulate abuse
prevention skills. Experimental results confirmed that teaching sex education should begin
immediately from 1st grade students, not necessarily wait for gender experts, but primary teachers
themselves can effectively implement.
Keywords: Teaching, sex education, integration, primary.
1. Mở đầu
Giáo dục giới tính (GDGT) là vấn đề được hầu hết
các quốc gia trên thế giới quan tâm. Nội dung này đã là
một phần của chương trình toàn diện bắt buộc trong
trường học ở nhiều quốc gia như Thụy Điển từ năm 1955
[1], ở Pháp từ năm 1973 [2] Ở Việt Nam, GDGT là
một vấn đề đang được xã hội đặc biệt quan tâm, do số trẻ
em bị bắt cóc và xâm hại ngày càng tăng cao. Độ tuổi các
em bị xâm hại tập trung chủ yếu từ 5 đến 13 tuổi [3]. Điều
này đòi hỏi học sinh (HS) tiểu học cần được trang bị
những kiến thức cơ bản về GDGT cũng như các kĩ năng
tự bảo vệ bản thân để tránh nguy cơ trở thành nạn nhân
của những vụ xâm hại và lạm dụng tình dục. Theo
chương trình giáo dục hiện hành, kiến thức về GDGT chỉ
được cung cấp chính thức trong môn Khoa học 5 và hầu
như không có nội dung GDGT cho HS lớp 1 [4].
Trên thế giới, vấn đề GDGT đã được đưa vào học
đường từ những năm 70 của thế kỉ XX, ban đầu tập trung
ở lứa tuổi thanh thiếu niên và dần dần mở rộng sang độ
tuổi mầm non, tiểu học ở một số quốc gia [5], [6]. Ví dụ ở
Hà Lan, GDGT bắt đầu từ khi trẻ em 4 tuổi. Các chương
trình GDGT khuyến khích tôn trọng và giúp HS phát triển
các kĩ năng để bảo vệ chống cưỡng bức, đe dọa và lạm
dụng. Khi trẻ em 8 tuổi sẽ được học về hình ảnh sinh học,
các bộ phận của cơ thể và khuôn mẫu giới. Trẻ em 11 tuổi
thảo luận về khuynh hướng tình dục và các biện pháp tránh
thai [7]. Triết lí GDGT chính là trẻ càng nhỏ, việc dạy
GDGT càng tự nhiên và càng hiệu quả [8]. Từ khoảng 6
đến 7 tuổi, trẻ đã hiểu biết khá rõ về những khác biệt cơ
bản giữa nam và nữ. Do đó, trẻ bắt đầu cảm thấy e ngại,
không còn muốn tự nhiên phô bày thân thể như trước. Độ
tuổi này, ý thức giới tính biểu hiện ở sự phân hóa các hoạt
động và định hướng giá trị. Giữa bé trai và bé gái cùng
chơi với nhau một cách hồn nhiên, trong sáng và chưa bị
chi phối bởi cảm xúc giới tính [9], [10].
Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển (ICPD) tại
Cairo năm 1994 nhấn mạnh rằng: “GDGT là một quyền
của con người, rất cần thiết để con người phát triển và
khỏe mạnh” [2]. Vì vậy, quyền lợi của trẻ em về GDGT
phải được nhìn nhận như quyền sống, quyền có nguồn
thực phẩm sạch sẽ và quyền được giáo dục [5]. Chúng
tôi cũng mong muốn HS tiểu học ở Việt Nam ngay giai
đoạn lớp 1 được tiếp cận với các nội dung GDGT một
cách hệ thống, được trang bị những kiến thức và kĩ năng
bảo vệ bản thân và phòng chống xâm hại. Đó chính là lí
do chúng tôi thực hiện nghiên cứu “Xây dựng một số nội
dung và hoạt động GDGT cho HS lớp 1 tại Thành phố
Hồ Chí Minh”. Nghiên cứu này nhằm hỗ trợ giáo viên
(GV) lớp 1 thiết kế được một số nội dung và hoạt động
dạy học (DH) phù hợp để GDGT cho HS, qua đó, giúp
hình thành kĩ năng tự bảo vệ bản thân cho HS lớp 1.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Cách tiếp cận
Sự phát triển về giới tính là đặc điểm tự nhiên và đặc
trưng cho mỗi cá nhân, được quy định bởi bộ gen và chịu
tác động rất lớn của các điều kiện môi trường sống. Với
sự thay đổi về điều kiện tự nhiên và xã hội dẫn đến hiện
nay, tuổi dậy thì bắt đầu từ giai đoạn HS tiểu học. Do đó,
gia đình và nhà trường cần phải trang bị các kiến thức về
giới tính cho HS từ rất sớm, giúp các em vượt qua giai
đoạn này một cách dễ dàng, đồng thời có kĩ năng bảo vệ
bản thân phòng tránh xâm hại tình dục. Hầu hết phụ
huynh cho rằng, trường học là nơi tốt nhất trang bị cho
HS hệ thống kiến thức về giới tính. Đối với các trường
tiểu học, nội dung GDGT có thể thực hiện thông qua việc
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 446 (Kì 2 - 1/2019), tr 24-29; 19
25
lồng ghép vào các bài học về con người, trong các hoạt
động ngoại khóa, các tiết sinh hoạt chủ nhiệm, các tiết tự
học, góp phần đáp ứng nội dung và định hướng giáo
dục mới, đồng thời đáp ứng nhu cầu của phụ huynh HS.
GDGT không đơn thuần chỉ truyền đạt thông tin, kinh
nghiệm sống mà còn là vấn đề bồi dưỡng nhân cách và
xây dựng quan niệm sống chuẩn mực cho mỗi HS ngay
từ khi còn nhỏ.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt mục tiêu và nhiệm vụ đề ra, đề tài đã sử dụng
các phương pháp chủ yếu như sau: - Phương pháp
nghiên cứu lí thuyết, nghiên cứu thực tiễn: Nghiên cứu
các tài liệu, lí thuyết về GDGT cho HS tiểu học cũng như
tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí của HS lớp 1; - Phương
pháp sử dụng bảng hỏi được sử dụng để tìm hiểu thực
trạng việc GDGT ở trường tiểu học. Ngoài ra, phương
pháp này còn được sử dụng để ghi chép lại phản hồi của
GV và HS khi tham gia các nội dung GDGT; - Phương
pháp phỏng vấn trực tiếp: phỏng vấn trực tiếp GV của
lớp thực nghiệm để xem những thái độ và góp ý cho hoạt
động; - Phương pháp thống kê, phân loại, phân tích, so
sánh giúp rút ra những kết luận từ cơ sở thực tiễn cũng
như từ kết quả của quá trình thực nghiệm; - Phương pháp
thử nghiệm sư phạm: sử dụng để kiểm tra hiệu quả của
các nội dung và hoạt động GDGT đã thiết kế.
2.3. Các bước tiến hành
Bước 1: Nghiên cứu đặc điểm tâm, sinh lí và đặc
điểm nhận thức của HS lớp 1.
Bước 2: Nghiên cứu lí luận DH ở tiểu học, xác định
vị trí, mục tiêu, nội dung GDGT cho HS lớp 1.
Bước 3: Tìm hiểu nhu cầu và các tình huống liên quan
đến GDGT cho HS của GV đang trực tiếp DH ở lớp 1,
từ đó tìm ra những nội dung cần xây dựng và đề xuất thời
gian để triển khai những nội dung này.
Bước 4: Tiến hành xây dựng các nội dung và hoạt
động DH tương ứng, tìm kiếm tư liệu, thiết kế tư liệu
bằng phần mềm,...
Bước 5: Thử nghiệm sư phạm.
Bước 6: Phân tích kết quả và rút ra kết luận.
2.4. Kết quả nghiên cứu
2.4.1. Thực trạng giáo dục giới tính cho học sinh lớp 1
Để đánh giá thực trạng GDGT cho HS lớp 1, nghiên
cứu này đã tiến hành khảo sát 96 GV của một số trường
tiểu học tại Thành phố Hồ Chí Minh bằng phiếu khảo sát,
gồm: 18 GV Trường Tiểu học Hòa Bình (quận 1), 27 GV
Trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi (quận 4), 16 GV
Trường Tiểu học Chương Dương (quận 5), 21 GV
Trường Tiểu học Lương Thế Vinh (quận 7), 14 GV
Trường Tiểu học Nguyễn Thị Định (quận 12). Nội dung
phiếu khảo sát GV gồm 3 câu hỏi dưới hình thức trắc
nghiệm lựa chọn và trả lời ngắn. Kết quả khảo sát như
sau:
Nội dung 1: Theo thầy (cô) việc dạy một số nội dung
GDGT phù hợp với lứa tuổi cho HS lớp 1 có cần thiết
không?
Bảng 1. Nhận định của GV về sự cần thiết dạy GDGT
cho HS lớp 1
Nhận định Tần số Tỉ lệ
Rất cần thiết 25 26%
Cần thiết 70 73%
Không cần thiết 1 1%
Từ kết quả khảo sát, có thể thấy, hầu hết GV tiểu học
rất quan tâm đến việc GDGT cho HS lớp 1. Phần lớn GV
cho rằng, việc GDGT cho HS lớp 1 là cần thiết vì: “Ở độ
tuổi này các đối tượng xấu rất dễ dụ dỗ nếu HS chưa
được trang bị kiến thức và kĩ năng”; “Đối tượng của các
thủ phạm xâm hại tình dục nằm ở độ tuổi này”. Các em
rất tin tưởng vào người lớn, rất thích quà bánh hoặc bị
hấp dẫn bởi một món đồ nào đó. Chính vì lẽ đó, kẻ xấu
thường lợi dụng điểm yếu này để dụ dỗ một cách dễ
dàng. Vì vậy, việc GDGT, trang bị những kiến thức, kĩ
năng cho các em trong độ tuổi này để phòng tránh kẻ xấu,
tự bảo vệ bản thân là hoàn toàn cần thiết. Mặt khác “Lớp
1 là độ tuổi các em rất hiếu động và có nhiều thắc mắc
về cơ thể.”, nên cần cung cấp cho các em những kiến
thức như “Cơ thể chúng ta hình thành như thế nào?”,
“Chúng ta sinh ra từ đâu?”, “Con trai khác con gái ở điểm
nào?”, nhằm giúp các em hiểu về cơ thể của mình, biết
yêu thương và tự chăm sóc bản thân.
Nội dung 2: Theo thầy (cô) nội dung về GDGT nào
cần được dạy cho HS lớp 1?
Trong giới hạn nghiên cứu, chúng tôi đưa ra bảy nội
dung để khảo sát GV về các nội dung GDGT cần dạy cho
HS lớp 1. Các nội dung được xây dựng dựa trên đặc điểm
tâm sinh lí của HS lớp 1 và khả năng tích hợp được vào
các môn học của chương trình. Kết quả khảo sát chi tiết
như bảng 2.
Tất cả 7 nội dung về GDGT cho HS lớp 1 đều nhận
được sự đồng ý của hầu hết GV. Trong đó, hai nội dung
“Vùng riêng tư - Đụng chạm an toàn, đụng chạm không
an toàn” và “Biết tự giải quyết một số tình huống khi cần
thiết” được 100% GV lựa chọn. Hai nội dung “Vệ sinh
cơ thể - vệ sinh vùng riêng tư” và “Định hướng giao tiếp
phù hợp với những người xung quanh” cũng được 96,9%
GV lựa chọn. Kết quả này cho thấy, GV rất quan tâm đến
việc trang bị các kĩ năng vệ sinh và bảo vệ cơ thể an toàn
trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của HS. Một số GV
không lựa chọn nội dung “Tìm hiểu tên gọi đúng bộ phận
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 446 (Kì 2 - 1/2019), tr 24-29; 19
26
trên cơ thể người (đặc biệt là bộ phận sinh dục)”, “Chúng
ta được hình thành như thế nào?” và “Sự khác nhau giữa
bạn trai và bạn gái” là do còn e ngại phải nhắc đến thuật
ngữ đúng về bộ phận sinh dục khi dạy cho HS lớp 1. Kết
quả khảo sát cho thấy, GV đều mong muốn HS được
trang bị các kiến thức về giới tính, nhưng chưa thực sự tự
tin dạy những kiến thức được cho là “nhạy cảm”.
Nội dung 3: Những khó khăn thầy (cô) gặp phải khi
dạy GDGT cho HS lớp 1?
Việc dạy các nội dung GDGT là rất cần thiết, tuy
nhiên, để dạy được những nội dung này cho HS ngay từ
khi lớp 1, GV gặp những khó khăn gì, được chúng tôi
tổng hợp thành 3 nhóm như bảng 3.
Trên đây là những khó khăn của GV gặp phải trong quá
trình khảo sát. Những khó khăn này chia thành 3 nhóm:
Nhóm 1: Những khó khăn từ bản thân của GV gặp
phải khi DH những nội dung GDGT. Khó khăn đầu tiên
mà hầu hết GV khảo sát cho biết đó là tài liệu ít và không
có chương trình cụ thể, nội dung, kiến thức trừu tượng
nên GV gặp khó khăn khi DH. Mặt khác, sợ dạy không
khéo léo sẽ phản tác dụng, sợ HS hiểu sai kiến thức hay
khơi gợi tính tò mò về những kiến thức không phù hợp,
hay không đủ thời gian để giảng dạy cũng là lựa chọn của
78 GV được khảo sát. Điều này phản ánh thực tế chương
trình DH cho HS lớp 1 không có phần hướng dẫn chi tiết
và tài liệu đi kèm để DH GDGT. Mặt khác, đây là vấn đề
được khuyến khích chứ chưa bắt buộc GV phải thực
hiện, do đó, đa số GV chưa thực sự đầu tư thời gian cho
DH các nội dung này.
Nhóm 2: Những khó khăn từ phía HS. Có 93 GV cho
rằng “HS còn quá nhỏ không hiểu bài hoặc HS đặt những
câu hỏi tò mò làm GV khó trả lời”. Thêm vào đó “HS rụt
rè, ngại giao tiếp nên GV khó truyền thụ kiến thức” là
nhận định của 46 GV. Tuy nhiên, theo đánh giá của
chúng tôi, HS lớp 1 rất hồn nhiên và luôn có những thắc
mắc về cơ thể mình và rất muốn tìm hiểu chúng. Đây
chính là điều kiện thuận lợi để GV dạy các kiến thức về
GDGT một cách dễ dàng. Theo quan điểm “trẻ càng nhỏ
việc dạy GDGT càng tự nhiên và càng hiệu quả” và
chương trình DH của một số nước như Hà Lan, Pháp,
thì HS lớp 1 nên được trang bị các kiến thức về giới tính
Bảng 2. Các nội dung GDGT cần được dạy cho HS lớp 1
Nội dung Tần số Tỉ lệ (%)
Tìm hiểu tên gọi đúng bộ phận trên cơ thể người (đặc biệt là bộ phận sinh dục) 79 82,3
Chúng ta được hình thành như thế nào? 88 91,7
Sự khác nhau giữa bạn trai và bạn gái 90 93,75
Vùng riêng tư - Đụng chạm an toàn, đụng chạm không an toàn 96 100
Vệ sinh cơ thể - vệ sinh vùng riêng tư 93 96,9
Định hướng giao tiếp phù hợp với những người xung quanh 93 96,9
Biết tự giải quyết một số tình huống khi cần thiết 96 100
Bảng 3. Những khó khăn của GV khi GDGT cho HS lớp 1
TT Những khó khăn khi GDGT cho HS lớp 1 Tần số Tỉ lệ (%)
Khó khăn từ GV
1
Tài liệu ít, không có chương trình cụ thể, GV không biết giúp HS hiểu kiến thức
ở mức độ và giới hạn nào?
96 100
2 Nội dung, kiến thức trừu tượng nên GV gặp khó khăn khi DH 93 96,9
3 Không đủ thời gian để giảng dạy 78 81,25
4
Sợ dạy không khéo sẽ phản tác dụng và HS hiểu sai kiến thức, khơi gợi tính tò
mò về những kiến thức không phù hợp
81 84,4
5 Nội dung bài học không sinh động. HS không thích học 28 29,2
6 GV ngại nói về những vấn đề này 9 9,4
Khó khăn từ HS
7 HS còn quá nhỏ không hiểu bài hoặc đặt những câu hỏi khó trả lời 93 96,9
8 HS rụt rè, ngại giao tiếp nên GV khó truyền thụ kiến thức. 46 47,9
Khó khăn từ phụ huynh
9 Phụ huynh không đồng ý vì nghĩ rằng trẻ còn nhỏ chưa cần học GDGT 36 37,5
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 446 (Kì 2 - 1/2019), tr 24-29; 19
27
và phòng chống xâm hại. Đối với những HS rụt rè, ngại
giao tiếp, GV cần lôi cuốn bằng các phương tiện DH hấp
dẫn và phương pháp DH phù hợp.
Nhóm 3: Những khó khăn từ phía phụ huynh. Kết quả
khảo sát cho thấy, chỉ có 36 GV cho rằng “Phụ huynh
không đồng ý vì nghĩ rằng trẻ còn nhỏ chưa cần học
GDGT”. Những phụ huynh không đồng ý do xuất phát từ
văn hóa truyền thống của người Việt Nam vẫn còn ngại đề
cập đến vấn đề GDGT. Tuy nhiên, các phương tiện truyền
thông cho thấy, việc trẻ em bị lạm dụng và xâm hại tình
dục ngày một tăng, đã làm thay đổi quan điểm của phụ
huynh về GDGT cho HS ngay từ lớp 1. Mặt khác, kiến
thức về GDGT bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau và trẻ
em nên được trang bị một cách hệ thống từ đơn giản đến
phức tạp theo giai đoạn phát triển về tâm sinh lí.
Qua khảo sát, nhận thấy rằng, hầu hết GV đều muốn HS
được học về GDGT ở tuổi tiểu học, nhưng khi bắt đầu ở HS
lớp 1 vẫn còn một vài ý kiến trái chiều. Nguyên nhân có thể
do chương trình chưa bắt buộc, tài liệu hướng dẫn rất ít và
một phần từ quan niệm truyền thống của người Việt Nam.
2.4.2. Đề xuất nội dung giáo dục giới tính cho học sinh lớp 1
Nghiên cứu này xây dựng một số nội dung vừa là kiến
thức khoa học, vừa rèn kĩ năng để GDGT cho HS lớp 1.
Một số nội dung được cho là nhạy cảm như sự khác biệt
giữa nam và nữ ở bộ phận sinh dục, chúng ta được hình
thành và sinh ra như thế nào hay kiến thức liên quan đến
hình thành kĩ năng vệ sinh cơ thể và phòng tránh xâm hại,
được chúng tôi lựa chọn để thử nghiệm, đánh giá sự phù
hợp và hiệu quả khi triển khai DH cho HS lớp 1.
2.4.2.1. Sự khác nhau trên cơ thể nam và nữ
Độ tuổi từ 3-4, trẻ đã bắt đầu có ý thức về giới tính,
nghĩa là chúng bắt đầu nhận ra sự khác biệt giữa nam và
nữ. Như là một sự tò mò rất bản năng, chúng cũng muốn
khám phá và xem xét sự khác nhau giữa mình và những
bạn khác giới. Việc tự khám phá giới tính ở trẻ nhỏ có
thể sẽ bị bóp méo nếu trẻ tìm kiếm thông tin không lành
mạnh, hoặc bị những kẻ xấu lợi dụng. Ở giai đoạn mầm
non, sự khác nhau giữa nam và nữ được thể hiện qua
trang phục, kiểu tóc. Tuy nhiên, đến giai đoạn HS lớp 1,
sự khác biệt giữa nam và nữ được phân biệt cụ thể và
chính xác ở cơ quan sinh dục.
2.4.2.2. Chúng ta được hình thành và sinh ra như thế nào?
Đây là một câu hỏi mà rất nhiều HS thắc mắc khi bắt
đầu khám phá cơ thể. Nhiều phụ huynh có xu hướng trả lời
rằng con được sinh ra từ nách, từ bắp cải, ba mẹ nhặt
được, và sau đó lái qua câu chuyện khác để lẩn tránh câu
trả lời. Khi không nhận được đáp án thỏa mãn trẻ sẽ tự tìm
hiểu từ nhiều nguồn thông tin trên các phương tiện truyền
thông hay mạng xã hội, Vậy, tại sao người lớn không trả
lời trẻ một cách đúng sự thật bằng những ngôn ngữ hình ảnh
phù hợp với độ tuổi của trẻ. Trên thực tế, câu hỏi này chính
là một phần của khoa học thường thức và cần được trả lời
một cách chính xác, phù hợp với tâm sinh lí của trẻ.
2.4.2.3. Vùng riêng tư
Ngay khi học xong bài cơ thể người, HS lớp 1 được học
về vệ sinh cơ thể. Khi GDGT cho HS bắt đầu từ lớp 1, GV
phải thường xuyên nhấn mạnh: “Vùng cơ thể mặc đồ bơi là
vùng bất khả xâm phạm” hay “vùng riêng tư”, hoặc “Nếu ai
cố tình động chạm vào cơ thể con mà không được sự cho
phép của con thì đó là người xấu”... Dựa trên những nguyên
tắc đó, HS lớp 1 có thể phát hiện ra đâu là tình huống an toàn
và không an toàn, từ đó có những cách xử lí đúng.
2.4.2.4. Quy tắc 5 ngón tay
Theo thống kê, cứ 3 bé gái thì có 1 bé bị xâm hại tình
dục, cứ 5 bé trai lại có 1 bé bị xâm hại tình dục Trong
khi cha mẹ không thể ở bên bảo vệ con mình 24/24 giờ, vì
vậy trẻ cần được trang bị những kiến thức cần thiết để có
thể bảo vệ mình trước các nguy cơ bị xâm hại. GV nên
GDGT cho HS lớp 1 bằng cách đưa ra những nguyên tắc,
chứ không cần đề cập đến những tình huống quá cụ thể và
chi tiết. Đối với trẻ lớp 1 kiến thức cơ bản nhất dễ nhớ nhất
để trẻ ghi nhớ và tự bảo vệ đó là quy tắc 5 ngón tay.
2.4.3. Thiết kế một số hoạt động dạy học và thử nghiệm
Từ cơ sở lí luận và thực tiễn, đặc biệt từ kết quả của
việc khảo sát tìm hiểu ý kiến GV về GDGT cho HS lớp
1 ở trường tiểu học, chúng tôi đã thiết kế một số nội dung
và hoạt động GDGT cho HS lớp 1. Với mỗi nội dung,
chúng tôi thiết kế lần lượt 4 hoạt động như bảng 4.
Bảng 4. Các hoạt động GDGT đã thiết kế
TT Nội dung Hoạt động
1
Con trai -
Con gái
GV đưa tình huống
Xem phim: “Con trai - Con gái”
Trò chơi: “Đào vàng”
Đóng vai
2
Vùng
riêng tư
Trò chơi “Vùng riêng tư của em”
Xem phim “Vùng riêng tư”
Trò chơi: “Lu Lu về nhà”
Đóng vai
3
Quy tắc 5
ngón tay
Thi kể “Những người quanh em”
Xem phim “Quy tắc 5 ngón tay”
Trò chơi “Bàn tay của em”
Đóng vai
4
Chúng ta
được hình
thành như
thế nào?
GV đưa tình huống
Xem phim: “Chúng ta được hình
thành như thế nào?”
Trò chơi: “Xây dựng nông trại”
Vệ sinh cơ thể
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 446 (Kì 2 - 1/2019), tr 24-29; 19
28
2.4.3.1. Mục đích, yêu cầu chung của những hoạt động
giáo dục giới tính cho học sinh lớp 1
Mục đích: Cung cấp kiến thức GDGT cho HS một
cách nhẹ nhàng, tự nhiên, dễ hiểu, thu hút sự hứng thú và
tập trung của HS. Qua các hoạt động GDGT, HS được
hình thành các kĩ năng sống cơ bản.
Yêu cầu: Đảm bảo tính hệ thống, gắn với khả năng tích
hợp vào trong môn học và hoạt động giáo dục của HS;
Đảm bảo nguyên tắc trực quan phù hợp với đặc điểm tâm
sinh lí của HS lớp 1; Cung cấp kiến thức giới tính cơ bản,
dễ hiểu cho HS; Sử dụng hoạt động, trò chơi hấp dẫn, sinh
động và đa dạng; Kết hợp đồ dùng DH phù hợp, đẹp mắt;
Đảm bảo việc hình thành kiến thức và kĩ năng cho HS.
2.4.3.2. Định hướng sử dụng phương tiện và phương
pháp dạy học
Nội dung về GDGT vẫn được cho là khá nhạy cảm đối
với GV khi dạy cho HS lớp 1. Vì vậy, với các nội dung
GDGT đã đề xuất và xây dựng, việc lựa chọn phương tiện
và phương pháp DH phù hợp sẽ quyết định sự thành công
khi thử nghiệm. Trong nghiên cứu này, phương tiện được
ưu tiên lựa chọn là dữ liệu điện tử với các hình ảnh, đoạn
phim ngắn, giúp GV truyền tải kiến thức đến HS một cách
nhẹ nhàng và đơn giản, nhưng vẫn đảm bảo tính chính xác
và khoa học. Phương pháp DH chủ đạo là các trò chơi học
tập nhằm giúp HS học tập và củng cố kiến thức một cách
sinh động, tạo không khí sôi động, hấp dẫn. Bên cạnh đó,
chúng tôi sử dụng phương pháp đóng vai trong các tình
huống giả định, để HS vừa học kiến thức khoa học, vừa
thực hành, từng bước xây dựng các kĩ năng phòng chống
xâm hại và bảo vệ bản thân.
2.4.4. Thử nghiệm
Chúng tôi đã tiến hành thử nghiệm 4 nội dung:
“Chúng ta được hình thành như thế nào?”, “Vùng riêng
tư”, “Quy tắc năm ngón tay” và “Con trai - con gái” tại
Trường Tiểu học Hòa Bình (quận 1), Trường Tiểu học
Nguyễn Văn Trỗi (quận 4) và Trường Tiểu học Lương
Thế Vinh (quận 7). Các trường tiểu học được lựa chọn
để thử nghiệm đều nằm ở các vị trí trung tâm của quận,
với chất lượng giáo dục rất tốt và triết lí giáo dục khá hiện
đại. Mỗi trường tiểu học thực nghiệm, chúng tôi chọn 2
lớp khác nhau, mỗi lớp có 35 HS. Sau khi dạy thử
nghiệm chúng tôi thu thập ý kiến đánh giá của 210 HS.
Đồng thời, chúng tôi cũng thu thập ý kiến của 30 GV tiểu
học dự giờ để đánh giá hiệu quả của các hoạt động
GDGT đã thiết kế. Mỗi trường lựa chọn 2 GV để dạy ở
2 lớp 1 khác nhau để so sánh kết quả.
2.4.4.1. Kết quả thử nghiệm từ phía học sinh
Đối với HS lớp 1, việc đọc viết chưa thành thạo nên
đánh giá hiệu quả nội dung thực nghiệm bằng cách cho
HS giơ tay lựa chọn và phỏng vấn. Với câu hỏi: “Em có
thích nội dung này không?” được trình chiếu lên bảng và
đưa ra ba đáp án là: Rất thích; Thích; Không thích thì thu
được kết quả chi tiết trong bảng 5.
Kết quả khảo sát cho thấy, chỉ có 2,86% ý kiến HS
không thích các hoạt động GDGT đã thiết kế, còn lại đều
thích và rất thích. Như vậy, có thể kết luận, những nội
dung thử nghiệm rất hiệu quả và thu hút sự quan tâm của
HS. Một số ý kiến không thích tập trung ở nội dung “Cơ
thể chúng ta hình thành như thế nào?” và “Quy tắc năm
ngón tay”. Khi khảo sát các hoạt động mà HS thích nhất,
chúng tôi chiếu lên bảng kèm hình ảnh của hoạt động đó
để HS dễ dàng nhớ lại. Kết quả thu được như bảng 6.
Kết quả điều tra từ câu hỏi này cho thấy, hoạt động
100% HS thích nhất là hoạt động xem phim và chơi trò
chơi học tập. Do đặc điểm tâm - sinh lí của HS lớp 1 là
tư duy trực quan hành động nên được xem phim là một
điều rất thú vị. Cũng cùng lí do đó, chơi trò chơi có các
nhân vật hoạt hình như: Lu Lu, những con vật trong nông
trại, bác thợ đào vàng đều khiến trẻ cảm thấy thích thú,
hào hứng và tích cực tham gia trả lời câu hỏi. Có thể kết
luận rằng, việc sử dụng những nhân vật nhiều màu sắc và
có sự chuyển động cùng những đối tượng cần sự giúp đỡ
khi trả lời đúng câu hỏi sẽ giúp HS tích cực và hứng thú
học tập hơn. Các hoạt động HS chọn với tỉ lệ thấp hơn
(từ 77,14% đến 94,76%) như: GV đưa tình huống kích
thích sự tò mò, đóng vai và thi kể. Kết quả này cho thấy,
các hoạt động được tổ chức đều được hầu hết HS tham
Bảng 5. Kết quả khảo sát HS về các nội dung GDGT
TT Ý kiến
Chúng ta được hình
thành như thế nào?
Con trai - Con gái Vùng riêng tư
Quy tắc
năm ngón tay
Tần số
Tỉ lệ
(%)
Tần số
Tỉ lệ
(%)
Tần số
Tỉ lệ
(%)
Tần số
Tỉ lệ
(%)
1 Rất thích 180 85,71 168 80 174 82,86 138 65,71
2 Thích 54 25,71 42 20 36 17,14 66 31,43
3 Không thích 6 2,86 0 0 0 0 6 2, 86
Tổng cộng 210 100 210 100 210 100 210 100
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 446 (Kì 2 - 1/2019), tr 24-29; 19
29
gia và hưởng ứng nhiệt tình. Khi hỏi: “Vì sao em thích
hoạt động này?” chúng tôi nhận được một số câu trả lời
của HS như “Em biết quy tắc 5 ngón tay, biết tránh người
lạ để bảo vệ mình”, “Vì em trả lời được câu hỏi giúp Lu
Lu vượt qua được chướng ngại vật để về nhà”, Câu
hỏi: “Vì sao em không thích hoạt động này?”, HS lựa
chọn lí do là: “Em chưa nhớ hết những người ở 5 ngón
tay để đóng vai phù hợp”.
Để đánh giá mức độ kiến thức mà HS lĩnh hội được,
chúng tôi đã phỏng vấn trực tiếp để một số HS chia sẻ
những điều thú vị sau bài học. Ví dụ: Sau khi học xong
bài “Cơ thể chúng ta được hình thành như thế nào?”, HS
trả lời: “Em về sẽ kể lại cho bạn em ngay vì bạn ấy cũng
nghĩ giống bạn Linh là mẹ bạn ấy mua bạn ấy ở cửa
hàng”;”Em rất vui vì mình được tạo thành bởi cả bố và
mẹ” hay “Em rất thương mẹ vì mẹ đã phải nuôi em ở
trong bụng”. Hay sau bài “Con trai - Con gái”: “Em sẽ
nhường nhịn các bạn nữ”; “Em và bạn Huy có bí mật
khác nhau” hay “Bố mẹ em muốn em tắm riêng nhưng
em không chịu, từ nay sẽ không tắm chung với chị nữa”.
Với nội dung “Vùng riêng tư”: “Em sẽ không cho ai
chạm vào vùng riêng tư của em nếu em chưa cho phép”;
“Có ai đó làm em thấy sợ em sẽ nói với mẹ” hay “Người
xấu cố tình lại gần em, em sẽ hét lên và bỏ chạy”. Với
nội dung “Quy tắc 5 ngón tay”: “Em yêu cơ thể của
mình.”; “Em sẽ không nhận quà bánh từ người lạ đâu”.
Từ những kết quả thu thập được từ phía HS, có thể
nói, những nội dung GDGT đã thiết kế khá phù hợp.
Những tiết thử nghiệm đã cung cấp cho các em nhiều bài
học bổ ích và thú vị.
2.4.4.2. Kết quả từ phía giáo viên
Nhằm thu thập ý kiến đánh giá chung của GV về các nội
dung GDGT đã thiết kế, chúng tôi khảo sát 30 GV dự giờ
bằng bảng hỏi. Với câu hỏi: “Nội dung này có phù hợp với
HS không?” và đưa ra 3 sự lựa chọn là: Rất phù hợp; Phù
hợp; Không phù hợp. Kết quả cho thấy, có 3 nội dung GV
đánh giá là rất phù hợp và có 1 tiết được đánh giá là phù hợp
(Chúng ta được hình thành như thế nào?). Kết quả cho thấy,
những nhận xét của GV hoàn toàn trùng khớp với mục tiêu
DH mà chúng tôi đã đề ra trước khi thực nghiệm. Như vậy,
những hoạt động DH đã thiết kế cung cấp đầy đủ cho HS
những kiến thức cơ bản về một số nội dung GDGT.
Khảo sát về “Phương pháp và phương tiện DH có
phù hợp không? Vì sao?” chúng tôi thu được kết quả cả
6 GV đều nhận xét là hoàn toàn phù hợp với nội dung.
Đặc biệt, các video đều được thiết kế với hình ảnh đẹp,
nội dung đơn giản nhưng khoa học, giọng đọc của người
dẫn chuyện truyền cảm, phù hợp với HS lớp 1. Về
phương pháp DH đã khai thác được nội dung các video
thông qua làm việc cá nhân hoặc làm việc nhóm của HS.
Các trò chơi học tập đều kết hợp với hoạt động nhóm đã
tạo nên hiệu quả cho tiết học, làm cho nội dung GDGT
của HS trở nên rất tự nhiên, không bị khiên cưỡng. Như
vậy, các nội dung đều đã sử dụng những phương pháp và
phương tiện DH phù hợp với HS.
Trong thực tế ở các trường tiểu học vẫn chưa có giờ
học dành riêng cho GDGT. Do đó, chúng tôi tiếp tục thu
thập ý kiến GV đang dạy lớp 1 (6 GV) về việc tích hợp,
lồng ghép những nội dung GDGT đã thiết kế vào môn
học và hoạt động của HS. Sử dụng câu hỏi: “Quý thầy
cô có thể tích hợp các nội dung GDGT đã thiết kế vào
tiết học nào?”. Kết quả thu được như sau: Nội dung “Cơ
thể chúng ta được hình thành như thế nào?” và “Vùng
riêng tư” có thể tích hợp vào tiết Tự nhiên và Xã hội 1.
Nội dung “Quy tắc 5 ngón tay” và “Con trai - Con gái”
có thể tích hợp, sử dụng vào tiết Đạo đức 1. Như vậy,
hầu như các nội dung thiết kế của chúng tôi có thể lồng
ghép vào trong các môn học của HS lớp 1.
Từ việc thực nghiệm, lấy ý kiến của HS và GV,
chúng tôi thu được những kết quả rất khả quan về các nội
dung, phương pháp và phương tiện DH các nội dung
GDGT cho HS lớp 1. Điều quan trọng nhất là GV đã thực
sự cởi mở và có cách nhìn mới hơn về GDGT, còn HS
hào hứng vì được giải đáp thắc mắc và học thêm nhiều
kiến thức bổ ích. Do đó, bước đầu, nghiên cứu này có thể
khẳng định việc GDGT cho HS tiểu học không nhất thiết
phải chờ các chuyên gia về giới tính mà bản thân GV tiểu
học có thể thực hiện một cách hiệu quả.
(Xem tiếp trang 19)
Bảng 6. Kết quả lựa chọn các hoạt động GDGT mà HS thích
STT Nội dung
Hoạt động 1 Hoạt động 2 Hoạt động 3 Hoạt động 4
Tần số
Tỉ lệ
(%)
Tần số
Tỉ lệ
(%)
Tần số
Tỉ lệ
(%)
Tần số
Tỉ lệ
(%)
1
Chúng ta được hình
thành như thế nào?
186 88,57 210 100 210 100 180 85,71
2 Con trai - con gái 163 77,6 210 100 210 100 171 81,42
3 Vùng riêng tư 189 90 210 100 210 100 199 94,76
4 Quy tắc năm ngón tay 183 87,14 210 100 210 100 162 77,14
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 446 (Kì 2 - 1/2019), tr 14-19
19
cơ bản về kiến thức QP-AN, hiểu rõ các yếu tố tác động
đến nhiệm vụ GDAN-QP cũng như quan điểm của Đảng,
Nhà nước trong công cuộc cải cách, đổi mới GD-ĐT; tình
hình KT-XH, chính trị, QP-AN, làm cơ sở nghiên cứu,
vận dụng vào công tác giảng dạy, học tập. Nâng cao trình
độ năng lực chuyên môn đối với đội ngũ giảng viên
GDQP-AN và ý thức độc lập tự học, tự rèn luyện, sáng
tạo, không ngừng phát triển nhận thức về chính trị, tư
tưởng, nghĩa vụ, trách nhiệm của SV sẽ góp phần quan
trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc.
Tài liệu tham khảo
[1] Bộ Chính trị (2007). Chỉ thị số 12-CT/TW, ngày
03/5/2007 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác giáo quốc phòng, an ninh trong tình
hình mới.
[2] Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số
29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế.
[3] Quốc hội (2013). Luật Giáo dục quốc phòng và
an ninh.
[4] Hoàng Văn Tòng (2013). Quản lí Giáo quốc phòng
và an ninh cho sinh viên các trường đại học Việt
Nam trong bối cảnh mới. Luận án tiến sĩ Quản lí
giáo dục, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam. (2010). Báo cáo tổng kết
20 năm thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991-
2011). NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[6] Lê Khả Phiêu (2000). Tư tưởng Hồ Chí Minh soi
sáng con đường Đảng và nhân dân ta tiến vào thế kỉ
XXI. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[7] Ban Tuyên giáo Trung ương (2011). Tài liệu nghiên
cứu văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Đảng. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[8] Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2006).
Chuyên đề nghiên cứu Đại hội X của Đảng. NXB
Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam. (2016). Văn kiện đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
[10] Vụ Giáo dục Quốc phòng, Bộ GD-ĐT (2018). Tài
liệu Tập huấn giảng viên Giáo dục quốc phòng và
an ninh.
[11] Đinh Xuân Lý (2013). Đối ngoại Việt Nam qua các
thời kì lịch sử (1945-2012). NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội.
XÂY DỰNG MỘT SỐ NỘI DUNG...
(Tiếp theo trang 29)
3. Kết luận
Kết quả điều tra thực trạng và thử nghiệm một số nội
dung GDGT cho HS ngay từ lớp 1 ở một số trường tiểu
học tại Thành phố Hồ Chí Minh bước đầu cho thấy: Việc
GDGT cho HS ngay từ lớp 1 là rất cần thiết, nên lựa chọn
nội dung GDGT bao gồm kiến thức khoa học, song song
với hình thành kĩ năng bảo vệ cơ thể. Việc lựa chọn, thiết
kế những đoạn phim, những trò chơi học tập có sử dụng
công nghệ thông tin là lựa chọn rất phù hợp để giúp HS
tiếp thu kiến thức giới tính một cách tự nhiên, dễ dàng và
đầy đủ nhất.
Tài liệu tham khảo
[1] Lottes, I.L. (2002). Sexual health policies in other
industrialized countries: are there lessons for the
United States? J. Sex Res. Vol. 39, pp. 79-83.
[2] Gallard, C. (1991). Sex education in France. Plan.
Parent. Eur. Plan. Fam. En Eur, Vol. 20, p. 11-12.
[3] https://news.zing.vn/con-so-dang-bao-dong-ve-xam-
hai-tinh-duc-tre-em-tai-viet-nam-post728356.html.
[4]
hanh/chuong-trinh-giao-duc-pho-thong-cap-tieu-
hoc-4542.html.
[5] Gilbert Tordjman (2002). Giới tính theo cuộc đời.
NXB Phụ nữ.
[6] Key Wellings and Rachel Parker (2007). Sexuality
education in Europe - A reference guide to policies
and practices. Federal Centre for Health Education
(BZgA), 51101 Cologne.
[7] Weaver, H. - Smith, G. - Kippax, S. (2005). School-
Based Sex Education Policies and Indicators of
Sexual Health among Young People: A Comparison
of the Netherlands, France, Australia and the United
States. Sex Educ. Sex. Soc. Learn. 5, pp. 171-188.
[8]
con-ve-gioi-tinh-cang-som-cang-tot-c62a767475.html.
[9] Bùi Ngọc Oánh (2008). Tâm lí học giới tính và giáo
dục giới tính. NXB Giáo dục.
[10] Đào Xuân Dũng - Đỗ Tất Hùng (1996). Giáo dục
giới tính. NXB Thanh niên.
[11] UNFPA (2010). Comprehensive Sexuality
Education: Advancing Human Rights, Gender
Equality and Improved Sexual and Reproductive
Health. Columbia.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 05nguyen_minh_giang_le_thi_thu_ly_4214_2130814.pdf