Tài liệu Xây dựng mô hình đào tạo nghề đa dạng, hiệu quả cho phụ nữ và em gái dân tộc thiểu số ở các xã đặc biệt khó khăn của tỉnh Quảng Ninh - Bùi Thúy Phượng: Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
Số 17 - Tháng 3 năm 2017
Ngày nhận bài: 12/2/2017. Ngày phản biện: 20/2/2017. Ngày duyệt đăng: 6/3/2017
(1) Trường Đào tạo Cán bộ Nguyễn Văn Cừ, tỉnh Quảng Ninh
(2) Học viện Dân tộc; e-mail: ngoquangson@cema.gov.vn
1. Đặt vấn đề
Vấn đề dân tộc là một trong những vấn đề
hết sức quan trọng đã được Đảng và Nhà nước ta
đặc biệt quan tâm trong những năm đổi mới vừa
qua. Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII đã khẳng
định: “Vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược lớn,
thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các
dân tộc trong đổi mới công nghiệp hóa và hiện
đại hóa đất nước. Hơn 30 năm đổi mới, Đảng và
Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, nhằm
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc
thiểu số (DTTS) và miền núi, rút ngắn khoảng
cách giàu nghèo, tri thức giữa các dân tộc và
giữa các vùng miền trong cả nước. Nghị quyết
Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa IX đã nêu rõ 5 quan...
5 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 381 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng mô hình đào tạo nghề đa dạng, hiệu quả cho phụ nữ và em gái dân tộc thiểu số ở các xã đặc biệt khó khăn của tỉnh Quảng Ninh - Bùi Thúy Phượng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
Số 17 - Tháng 3 năm 2017
Ngày nhận bài: 12/2/2017. Ngày phản biện: 20/2/2017. Ngày duyệt đăng: 6/3/2017
(1) Trường Đào tạo Cán bộ Nguyễn Văn Cừ, tỉnh Quảng Ninh
(2) Học viện Dân tộc; e-mail: ngoquangson@cema.gov.vn
1. Đặt vấn đề
Vấn đề dân tộc là một trong những vấn đề
hết sức quan trọng đã được Đảng và Nhà nước ta
đặc biệt quan tâm trong những năm đổi mới vừa
qua. Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII đã khẳng
định: “Vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược lớn,
thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các
dân tộc trong đổi mới công nghiệp hóa và hiện
đại hóa đất nước. Hơn 30 năm đổi mới, Đảng và
Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, nhằm
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc
thiểu số (DTTS) và miền núi, rút ngắn khoảng
cách giàu nghèo, tri thức giữa các dân tộc và
giữa các vùng miền trong cả nước. Nghị quyết
Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa IX đã nêu rõ 5 quan điểm về Công
tác dân tộc, trong đó có quan điểm thứ ba: “Phát
triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
và an ninh - quốc phòng trên địa bàn vùng dân
tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải
quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách
dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn
nhân lực,”
Phụ nữ DTTS sống ở nông thôn có vai trò
hết sức quan trọng đối với sự phát triển nông
XÂY DỰNG MÔ HÌNH ĐÀO TẠO NGHỀ ĐA DẠNG, HIỆU
QUẢ CHO PHỤ NỮ VÀ EM GÁI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC
XÃ ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN CỦA TỈNH QUẢNG NINH (*)
Bùi Thúy Phượng(1) - Ngô Quang Sơn(2)
Phụ nữ dân tộc thiểu số sống ở nông thôn có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng và trong sự phát triển chung của đất nước. Nhưng
trong thực tế hiện nay phụ nữ dân tộc thiểu số ở nông thôn còn gặp nhiều cản trở, sự đóng góp
của chị em so với nam giới nông thôn và phụ nữ đô thị còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy, cần quan
tâm hợp lý đến phụ nữ dân tộc thiểu số nông thôn trong đó có đào tạo nghề, giải quyết việc làm.
Từ khóa: Mô hình đào tạo nghề, phụ nữ và em gái dân tộc thiểu số, xã đặc biệt khó khăn,
Quảng Ninh.
nghiệp, nông thôn, trong phát triển nguồn nhân
lực của đất nước, nhưng phụ nữ DTTS nông
thôn còn gặp nhiều khó khăn so với nam giới
nông thôn và phụ nữ đô thị. Chính vì vậy, cần có
những quan tâm hợp lý đến phụ nữ DTTS nông
thôn.
Dạy nghề đóng vai trò quan trọng trong
việc nâng cao chất lượng của lực lượng lao động
nữ, tạo cơ hội tìm kiếm được việc làm có thu
nhập ổn định, góp phần giảm nghèo và nâng cao
vị thế của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội.
Năm 2010, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề
án 295 “Hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm giai
đoạn 2020-2015”. Nghiên cứu giải quyết vấn đề
đào tạo nghề dành cho phụ nữ DTTS nông thôn
ngày càng có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc.
2. Điều tra, khảo sát và phân tích kết quả
Nhóm nghiên cứu đã chọn 02 huyện ở mức
trung bình về phát triển kinh tế - xã hội; mỗi
huyện chọn 02 xã (trong đó, một xã có điều kiện
kinh tế phát triển và một xã có điều kiện kinh
tế rất khó khăn). Mỗi xã chọn 01 trường THCS,
01 Trung tâm học tập cộng đồng; mỗi huyện
chọn 01 Trường PTDTNT, 01 Trung tâm giáo
dục, hướng nghiệp và dạy nghề. Tổng cộng điều
tra, khảo sát ở 04 xã trong 02 huyện, 04 trường
THCS, 04 Trung tâm học tập cộng đồng, 02
Trung tâm giáo dục, hướng nghiệp và dạy nghề,
02 Trường PTDTNT. Cỡ mẫu: Mỗi trường học,
(*) Bài báo là sản phẩm khoa học của Đề tài nghiên cứu cơ
bản trong khoa học xã hội và nhân văn của Quỹ phát triển
Khoa học và Công nghệ Quốc gia: Nghiên cứu mô hình
đào tạo nghề cho phụ nữ dân tộc thiểu số các xã đặc biệt
khó khăn khu vực Tây Nam Bộ, VI2.1-2013.1
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
19Số 17 - Tháng 3 năm 2017
cơ sở giáo dục sử dụng 100 mẫu phiếu cho học
sinh nữ DTTS; mỗi xã sử dụng 150 mẫu phiếu
cho phụ nữ DTTS. Tổng cộng số phiếu khảo sát
là 1.800 phiếu, trong đó có 1.200 phiếu cho học
sinh nữ DTTS ở các trường học và cơ sở giáo
dục, 600 phiếu cho phụ nữ DTTS ở 04 xã.
Đồng thời sẽ tiến hành phỏng vấn sâu một
số đối tượng để có thêm thông tin khách quan.
2.1. Nhận thức về nhu cầu học nghề của
phụ nữ dân tộc thiểu số nông thôn ở các xã đặc
biệt khó khăn tỉnh Quảng Ninh
Những yếu tố và yêu cầu chuyển dịch cơ
cấu kinh tế tạo ra sự chuyển dịch rất lớn đối
với lao động nữ DTTS ở nông thôn, từ dịch
chuyển kỹ năng đến dịch chuyển nghề nghiệp,
dịch chuyển nơi sinh sống. Có một số xu hướng
chuyển dịch sau:
- Chuyển dịch kỹ năng: Từ nông dân sản
xuất truyền thống sang nông dân sản xuất hiện đại;
- Chuyển dịch nghề nghiệp: Từ lao động
nông nghiệp (nông dân) sang lao động phi nông
nghiệp ở nông thôn;
- Chuyển dịch nghề nghiệp và nơi làm
việc: Từ lao động nông nghiệp hoặc lao động
phi nông nghiệp ở nông thôn trở thành lao động
công nghiệp tại các khu công nghiệp, dịch vụ ở
nông thôn;
- Chuyển dịch nghề nghiệp và nơi sinh sống:
Từ lao động nông thôn chuyển thành lao động công
nghiệp, dịch vụ ở các đô thị (mới và cũ).
Từ các xu hướng này cho thấy, để đạt được
mục tiêu đề ra, nhu cầu về đào tạo nói chung
và đào tạo nghề cho lao động nữ DTTS nông
thôn là rất lớn. Kết quả điều tra qua mẫu phiếu,
kết hợp với ý kiến thu nhận được từ các cuộc
toạ đàm, phỏng vấn sâu tại 04 xã cho thấy thực
trạng nhận thức và nhu cầu học nghề của phụ nữ
DTTS nông thôn như sau:
+ Nhóm phụ nữ DTTS nông thôn có nhu
cầu học nghề: Nhóm phụ nữ DTTS từ 20 đến 24
tuổi và nhóm phụ nữ DTTS từ 40 đến 44 tuổi
chiếm tỷ trọng cao nhất, tương ứng là 22,7% và
20,5%. Nhóm phụ nữ DTTS từ 20 đến 24 tuổi
mới vào thị trường lao động, chưa có trình độ
chuyên môn kỹ thuật mong muốn được học nghề
để tìm việc làm có chuyên môn kỹ thuật. Nhóm
phụ nữ DTTS từ 40 đến 44 tuổi có nhu cầu học
nghề để chuyển đổi việc làm vì không còn đất
sản xuất nông nghiệp,...
Những nhóm chiếm tỷ lệ thấp gồm nhóm
dưới 20 tuổi và nhóm trên 50 tuổi. Nhóm phụ
nữ DTTS nông thôn trên 50 tuổi ít có nhu cầu
học nghề ở độ tuổi này. Nhóm phụ nữ dưới 20
tuổi ít có nhu cầu học nghề. Ưu tiên của nhóm
này là: Tiếp tục học phổ thông, sau đó sẽ thi đại
học; nhóm đã thôi học muốn tìm việc làm, có thu
nhập ngay.
+ Trình độ học vấn: Có 87,6% phụ nữ
DTTS nông thôn có nhu cầu học nghề trong mẫu
khảo sát đã tốt nghiệp THCS trở lên, đủ điều
kiện tuyển sinh học nghề ở các cấp trình độ sơ
cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề. Tuy
nhiên vẫn còn tới 12,7% phụ nữ DTTS nông thôn
mới chỉ tốt nghiệp tiểu học và chưa tốt nghiệp
tiểu học, nhóm này chỉ đủ điều kiện tham gia các
khoá dạy nghề thường xuyên dưới 3 tháng.
+ Nhận thức, hiểu biết của phụ nữ DTTS
nông thôn về học nghề và hệ thống chính sách
dạy nghề: Trong những năm qua, chính quyền
địa phương và Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp đã
có nhiều nỗ lực trong tuyên truyền cho người
dân nói chung và phụ nữ DTTS nông thôn nói
riêng về dạy nghề.
+ Phụ nữ DTTS nông thôn có chuyển biến
trong hiểu biết, nhận thức về việc học nghề còn
thấp: Mặc dù đã được tuyên truyền, phổ biến
nhưng họ chưa thực sự tin tưởng việc học nghề
sẽ giúp họ thay đổi được tương lai. Học nghề
vẫn là lựa chọn cuối cùng đối với nhóm phụ nữ
DTTS nông thôn trẻ không thể thi đỗ vào đại học,
cao đẳng. Phần lớn chị em vẫn cho rằng “chỉ có
hai con đường chính là thoát ly học đại học, cao
đẳng; hoặc ở địa phương làm nông nghiệp, làm
công nhân khu công nghiệp, kinh doanh, làm
nghề truyền thống, không đi học nghề vẫn làm
được những việc này”.
2.2. Định hướng nghề nghiệp, tư vấn học
nghề cho phụ nữ dân tộc thiểu số nông thôn ở
các xã đặc biệt khó khăn tỉnh Quảng Ninh
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
20 Số 17 - Tháng 3 năm 2017
Việc định hướng lựa chọn nghề nghiệp, tư
vấn học nghề cho phụ nữ DTTS nông dân đóng
vai trò quan trọng cho việc chuẩn bị gia nhập/tái
gia nhập/dịch chuyển/di chuyển trong thị trường
lao động. Có đến 62,7% phụ nữ DTTS nông thôn
trong mẫu khảo sát đã tự định hướng được nghề
nghiệp cho bản thân, chia ra những người đủ khả
năng tự quyết định; những người không có khả
năng tự quyết định, nhưng không tìm được sự hỗ
trợ, tư vấn bên ngoài (nhóm phụ nữ DTTS nông
thôn nghèo, trình độ thấp, ).
Hơn 47,5% phụ nữ DTTS nông thôn trong
mẫu khảo sát đã được định hướng nghề nghiệp
từ cán bộ địa phương, đặc biệt từ cán bộ Hội Liên
hiệp Phụ nữ, các Trung tâm hướng nghiệp, dạy
nghề, Trung tâm giáo dục thường xuyên, Trung
tâm học tập cộng đồng, thông qua các buổi họp,
sinh hoạt đoàn thể, cán bộ địa phương đã tích cực
trao đổi, cung cấp thông tin, tư vấn nghề nghiệp
cho phụ nữ DTTS nông thôn.
Trong thời đại kỹ thuật số, phương tiện
thông tin đại chúng hiện đại như Tivi, đài, báo,
Internet, phát triển mạnh từ thành thị tới nông
thôn đã tạo thuận lợi cho phụ nữ DTTS nông
thôn tiếp cận được thông tin giúp định hướng
nghề nghiệp. Có 32,3% phụ nữ DTTS nông thôn
trong mẫu điều tra tại các tỉnh đã tìm hiểu thông
tin từ các kênh này để tự định hướng nghề nghiệp
cho bản thân. Cha mẹ và những nguời thân trong
gia đình vẫn có vị trí nhất định trong định hướng
nghề nghiệp cho phụ nữ DTTS nông thôn (tương
ứng là 17,7% và 14%).
2.3. Nhu cầu về nghề của phụ nữ dân tộc
thiểu số nông thôn tỉnh Quảng Ninh
Nghề được nhiều phụ nữ DTTS nông
thôn trong mẫu khảo sát lựa chọn (52,6%) vẫn
thuộc lĩnh vực sản xuất nông-lâm-thuỷ sản như:
Kỹ thuật trồng trọt, kỹ thuật chăn nuôi gia súc,
gia cầm, nuôi trồng thuỷ sản,. Nhóm phụ nữ
DTTS nông thôn này muốn gắn bó với sản xuất
nông nghiệp, tuy nhiên họ mong muốn thay đổi
kỹ thuật sản xuất, áp dụng khoa học kỹ thuật để
có năng suất, hiệu quả kinh tế cao hơn.
Nghề được 40,5% phụ nữ DTTS nông
thôn mong muốn được học thuộc lĩnh vực “chế
biến, chế tạo”, cụ thể là chế biến lương thực-thực
phẩm, sơ chế sản phẩm nông-lâm-thuỷ sản sau
thu hoạch, lý do để phụ nữ DTTS nông thôn
lựa chọn học những nghề này để chế biến các
sản phẩm nông-lâm-ngư nghiệp của hộ gia đình
mình, làm gia tăng giá trị sản phẩm, tăng thu
nhập, giảm dần tình trạng bán sản phẩm thô với
lợi nhuận thấp. Phụ nữ DTTS nông thôn muốn
tạo thành chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp,...
nghề may cũng được một số ít phụ nữ DTTS
nông thôn ở vùng thuần nông, nghèo, thiếu việc
làm lựa chọn nhằm tìm việc làm ở khu công
nghiệp hoặc tự mở cửa hàng may tại cộng đồng.
Hiện tại nghề may không còn hấp dẫn do thu
nhập không cao, thời gian làm việc kéo dài, bình
quân trên 10 giờ/ngày.
Các nghề thuộc lĩnh vực “phục vụ cá nhân,
công cộng” như: Nấu ăn, chăm sóc sắc đẹp,
dịch vụ chăm sóc gia đình, được 17% phụ nữ
DTTS nông thôn trong mẫu khảo sát lựa chọn.
Lý do phụ nữ DTTS nông thôn chọn nghề này
vì dễ dàng tự mở kinh doanh như dịch vụ nấu
cỗ thuê cho các cơ quan, tổ chức, trường học, hộ
gia đình, mở cửa hàng ăn uống, mở cửa hàng
làm tóc, hoặc ra thành thị làm giúp việc hộ
gia đình, chăm sóc người ốm, học nghề này
do không đòi hỏi cao về trình độ học vấn nên dễ
học, dễ tiếp thu do công việc rất gần gũi với công
việc hàng ngày của phụ nữ DTTS nông thôn.
2.4. Trình độ đào tạo cho phụ nữ dân tộc
thiểu số nông thôn tỉnh Quảng Ninh
Sơ cấp nghề, học nghề ngắn hạn dưới 3
tháng là lựa chọn của nhiều phụ nữ DTTS nông
thôn trong mẫu khảo sát (tương ứng là 49,2% và
41,7%). Lý do họ lựa chọn đào tạo nghề ngắn
hạn và sơ cấp vì không yêu cầu trình độ tuyển
sinh đầu vào, phù hợp với nhóm phụ nữ DTTS
nông thôn có trình độ học vấn thấp; thời gian
học nghề ngắn, phù hợp với phụ nữ DTTS nông
thôn đã có gia đình, con nhỏ có thể vừa học vừa
làm, không phải đi học xa, chi phí ít; có nhiều
chính sách, chương trình/dự án hỗ trợ học nghề
miễn phí; chương trình, nội dung học nghề ngắn
gọn, sát với thực tiễn, dễ áp dụng và áp dụng
vào công việc được ngay. Nhận thức về học
nghề còn hạn chế, tâm lý “trọng bằng cấp” cũng
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
21Số 17 - Tháng 3 năm 2017
còn ảnh hưởng nhiều đến sự lựa chọn của phụ
nữ DTTS nông thôn về cấp đào tạo nghề. Tỷ lệ
phụ nữ DTTS nông thôn có nhu cầu học nghề
trình độ trung cấp và cao đẳng nghề tương ứng
là 18,2% và 5,8%. Nhóm này đa số ở nhóm tuổi
25 trở xuống, rất ít chị ở nhóm tuổi 25-35, có
trình độ học vấn từ THCS trở lên. Hiện nay, phụ
nữ DTTS nông thôn có đặc điểm như đã lập gia
đình, có con nhỏ, trung tuổi, ở vùng nghèo, vùng
DTTS rất “ngại ngần” khi nói đến trường cao
đẳng hay trung cấp nghề.
2.5. Hình thức đào tạo cho phụ nữ dân
tộc thiểu số nông thôn tỉnh Quảng Ninh
Hình thức đào tạo được nhiều phụ nữ
DTTS nông thôn lựa chọn nhất là kèm cặp,
truyền nghề 48,5% và bồi dưỡng, cập nhật kiến
thức, kỹ năng nghề 34,9%. Nhóm phụ nữ DTTS
nông thôn trung tuổi, phụ nữ DTTS nông thôn,
phụ nữ DTTS nông thôn có trình độ thấp, phụ
nữ DTTS ở các làng nghề truyển thống rất ưa
thích loại hình đào tạo này vì phù hợp với khả
năng tiếp thu, năng lực của họ. Có 22,7% phụ nữ
DTTS nông thôn có nhu cầu học nghề chính quy,
tập trung. Phần lớn là nhóm phụ nữ DTTS nông
thôn trẻ đang học ở các trường PTDTNT THCS
và PTDTNT THPT, có trình độ học vấn đạt tiêu
chuẩn tuyển sinh của các trường nghề (tốt nghiệp
THCS, THPT). Họ thực sự mong muốn có cơ
hội thay đổi nghề nghiệp, cải thiện cuộc sống; họ
chấp nhận học xa nhà, chấp nhận chương trình
học tập khó khăn, nhiều thách thức hơn.
2.6. Địa điểm đào tạo cho phụ nữ dân tộc
thiểu số nông thôn tỉnh Quảng Ninh
Một trong những điểm cần chú ý khi tổ
chức các khoá dạy nghề cho phụ nữ DTTS nông
thôn là họ không muốn đi học xa nhà. Trong mẫu
điều tra, chỉ có 6% phụ nữ DTTS nông thôn có
nhu cầu học nghề ở tỉnh khác do muốn được học
ở trường nghề có uy tín, hoặc do tin tưởng sự
giới thiệu của người thân, quen. 94% còn lại chỉ
mong muốn được học nghề trong địa bàn tỉnh,
huyện, xã đang sinh sống (cùng xã, cùng huyện,
trong tỉnh).
Nhóm phụ nữ DTTS nông thôn đã có gia
đình, nhóm trên 35 tuổi đa số mong muốn được
học nghề tại xã. Những vùng thuần nông như địa
bàn khảo sát, 95,5% phụ nữ DTTS nông thôn chỉ
muốn được học nghề ngay tại xã. Tham gia hình
thức học nghề này, các phụ nữ DTTS nông thôn
không phải thu xếp công việc gia đình, không bị
xáo trộn lớn trong đời sống, sinh hoạt. Vì vậy,
nhiều phụ nữ DTTS nông thôn sẽ có cơ hội được
học nghề, cải thiện việc làm.
3. Nghiên cứu xây dựng mô hình đào tạo
nghề cho phụ nữ dân tộc thiểu số nông thôn
tỉnh Quảng Ninh
Dạy nghề cho lao động nữ DTTS nông
thôn vừa có ý nghĩa kinh tế, vừa có ý nghĩa xã
hội và nhân văn sâu sắc. Chính vì vậy, phải tổ
chức dạy nghề thiết thực với bà con nông dân,
vừa đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội. Do tính
đặc thù của lao động nông thôn, việc đào tạo
nghề cho lao động nông thôn cần phải có những
cách thức tổ chức phù hợp với từng nhóm đối
tượng. Để xây dựng được các mô hình dạy nghề
phù hợp, theo chúng tôi phải triển khai những
hoạt động như:
- Trước hết, cần phải triển khai các hoạt
động điều tra, khảo sát nhu cầu sử dụng nhân lực
qua lao động, qua đào tạo nghề trong các ngành
kinh tế, vùng kinh tế và từng địa phương. Việc
“nắm” nhu cầu phải đi trước một bước và phải
triển khai thường xuyên với quy mô và mức độ
khác nhau để kịp thời bổ sung những thông tin
nhu cầu về những nghề mới với quy mô và trình
độ phù hợp. Nhu cầu sử dụng lao động chính là
“đầu ra” của đào tạo, qua đó có thể biết được cần
đào tạo những nghề gì và với trình độ nào.
- Thứ hai, đồng thời với việc nắm thông tin
về nhu cầu sử dụng lao động, cần thiết phải khảo
sát nhu cầu học nghề của đối tượng, nghĩa là cần
có sự phân nhóm đối tượng để tổ chức các khoá
đào tạo cho phù hợp. Do đặc thù của sản xuất ở
nông thôn là có thể sử dụng lao động từ rất trẻ
cho đến sau độ tuổi lao động (theo quy định của
pháp luật lao động). Vì vậy, có thể có những đối
tượng chỉ có thể tham gia được các khoá đào tạo
ngắn hạn, nhưng cũng có nhóm đối tượng (ví dụ
nữ DTTS từ 16 - 24 tuổi) có thể và có điều kiện
tham gia các khoá đào tạo dài hạn. Mặt khác, cần
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
22 Số 17 - Tháng 3 năm 2017
thiết phải phân các nhóm đối tượng trên trình độ
học vấn. Đối với những người có trình độ học
vấn thấp, họ có thể theo học các khoá dạy nghề
ngắn hạn.
- Thứ ba, đối với nhóm đối tượng nữ DTTS
nông dân đào tạo để có thể làm nông nghiệp hiện
đại, do đặc thù của sản xuất nông nghiệp, người
DTTS nông dân làm việc theo mùa vụ, nên các
khoá đào tạo cần gắn với việc vừa học vừa làm
việc của người nông dân, hoặc phải lựa chọn thời
gian nông nhàn của người DTTS để tổ chức các
khoá học cho phù hợp.
- Thứ tư, mục tiêu dạy nghề cho lao động
nữ DTTS nông dân là tạo cho họ có một nghề để
có thể tự tạo việc làm trong nông nghiệp (tăng
năng suất lao động) hoặc tìm được việc làm phi
nông nghiệp (ở nông thôn hoặc ngoài nông thôn).
Nói cách khác, dạy nghề cho lao động nữ DTTS
nông dân phải gắn với giải quyết việc làm cho
người lao động. Theo chúng tôi, đây là vấn đề
cốt lõi đối với dạy nghề cho lao động nông thôn,
nhất là đối với nhóm lao động cần phải chuyển
sang làm trong lĩnh vực phi nông nghiệp, công
nghiệp. Nếu không gắn được với việc làm, có
đầu ra thì người nữ DTTS nông dân sẽ không
tham gia học nghề nữa và nguồn lực xã hội sẽ bị
lãng phí. Do đó, trong quá trình đào tạo nghề rất
cần thiết có sự kết hợp chặt chẽ với các doanh
nghiệp, các cơ sở sản xuất để họ một mặt tham
gia vào quá trình đào tạo; mặt khác có thể tạo cơ
hội cho người học được tham gia vào quá trình
sản xuất của doanh nghiệp từ khi còn học và sau
khi học nghề xong là có thể làm việc được ngay
với nghề nghiệp của mình.
Theo chúng tôi, trước mắt cần phải tổ chức
đào tạo thí điểm cho các nhóm đối tượng, với
hình thức và phương thức đào tạo khác nhau để
tìm ra được những mô hình đào tạo phù hợp nhất
đối với các nhóm đối tượng lao động nữ nông
dân người DTTS khác nhau để từ đó có kinh
nghiệm nhân rộng ra tất cả các vùng, miền trong
cả nước.
Tài liệu tham khảo
1. Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam, Quyết định số 630/QĐ-TTg
ngày 29/5/2012 phê duyệt chiến lược dạy nghề
thời kỳ 2011 - 2020;
2. Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam, Quyết định số 1956/2009/
QĐ-TTg ngày 27 tháng 11 năm 2009 phê duyệt
Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn giai
đoạn 2011-2020;
3. Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam, Quyết định số 295/QĐ-TTg
ngày 26 tháng 2 năm 2010 phê duyệt Đề án hỗ
trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm giai đoạn
2010-2015.
ABSTRACT
BUILDING MODELS OF DIVERSIFIED AND EFFECTIVE VOCATIONAL
TRAINING FOR WOMEN AND GIRLS IN ETHNIC MINORITIES IN DIFFICULTY
SPECIAL COMMUNES IN QUANG NINH PROVINCE
Women in ethnic minorities living in rural areas play a very important role in agricultural and
rural development, human resource development in the country, But women in ethnic minorities in
rural areas have more difficulies in comparison to rural men and urban women. Vocational training
plays an important role in improving the quality of the female workforce, creating opportunities
for stable income, generating employment, contributing to poverty reduction and empowerment of
women in the family and society. The study of a diverse and effective model of vocational training
for ethnic minority women and girls in the extremely difficult communes of Quang Ninh province will
have a particularly deep meaning in implementing gender equality, socio-economic development in
the local areas in the current period.
Keywords: Diverse and Effective Models of Vocational Training; Ethnic Minority Women
and Girls; Extremely Difficult Communes; Quang Ninh Province.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 234_988_1_pb_0931_2152020.pdf