Tài liệu Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh - Nguyễn Khánh Vân: 104
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
TÓM TẮT
Trong ǹn kinh t́ tḥ trường hịn nay,
nhất l̀ trong b́i c̉nh tòn c̀u hó, ḥi nḥp,
mở cửa, tình tṛng suy thói đ̣o đ́c xã ḥi
v̀ trong ṃt ḅ pḥn không nh̉ ćn ḅ, đ̉ng
viên ở nước ta đã trở nên nghiêm tṛng. Ch̉
nghĩa ć nhân vụ lợi, ṿ kỷ, thói cơ ḥi đang
l̀m không ́t người rơi v̀o tình tṛng thói
hó, hư h̉ng, tḥm ch́ pḥm ṭi đang l̀m tổn
ḥi đ́n uy t́n, thanh danh c̉a Đ̉ng v̀ Nh̀
nước, l̀m tổn ḥi tới lợi ́ch c̉a xã ḥi, gây
nỗi bất bình trong nhân dân, l̀m suy gỉm
nìm tin c̉a nhân dân đ́i với ch́ đ̣. Do ṿy,
vịc x́c đ̣nh đúng đắn vai trò v̀ chất lượng
c̉a đ̣i ngũ ćn ḅ ở nước ta, đ̉ đ̀ ra những
gỉi ph́p phù hợp nhằm quýt tâm xây ḍng
ṃt đ̣i ngũ ćn ḅ đ̉ đ́c, đ̉ t̀i, tḥc hịn
chín lược ćn ḅ c̉a Đ̉ng trong thời kỳ đ̉y
ṃnh công nghịp hóa, hịn đ̣i hóa đang l̀
yêu c̀u cấp thít.
Từ khóa: xây dựng, cán bộ, công
chức, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội
nhập quốc tế, Tư tưởng Hồ Ch...
11 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 581 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh - Nguyễn Khánh Vân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
104
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
TÓM TẮT
Trong ǹn kinh t́ tḥ trường hịn nay,
nhất l̀ trong b́i c̉nh tòn c̀u hó, ḥi nḥp,
mở cửa, tình tṛng suy thói đ̣o đ́c xã ḥi
v̀ trong ṃt ḅ pḥn không nh̉ ćn ḅ, đ̉ng
viên ở nước ta đã trở nên nghiêm tṛng. Ch̉
nghĩa ć nhân vụ lợi, ṿ kỷ, thói cơ ḥi đang
l̀m không ́t người rơi v̀o tình tṛng thói
hó, hư h̉ng, tḥm ch́ pḥm ṭi đang l̀m tổn
ḥi đ́n uy t́n, thanh danh c̉a Đ̉ng v̀ Nh̀
nước, l̀m tổn ḥi tới lợi ́ch c̉a xã ḥi, gây
nỗi bất bình trong nhân dân, l̀m suy gỉm
nìm tin c̉a nhân dân đ́i với ch́ đ̣. Do ṿy,
vịc x́c đ̣nh đúng đắn vai trò v̀ chất lượng
c̉a đ̣i ngũ ćn ḅ ở nước ta, đ̉ đ̀ ra những
gỉi ph́p phù hợp nhằm quýt tâm xây ḍng
ṃt đ̣i ngũ ćn ḅ đ̉ đ́c, đ̉ t̀i, tḥc hịn
chín lược ćn ḅ c̉a Đ̉ng trong thời kỳ đ̉y
ṃnh công nghịp hóa, hịn đ̣i hóa đang l̀
yêu c̀u cấp thít.
Từ khóa: xây dựng, cán bộ, công
chức, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội
nhập quốc tế, Tư tưởng Hồ Chí Minh.
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ Đ̉Y MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ THEO
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Khánh Vân*
BUILDING TEAMS OF VIETNAMESE CIVIL WORKERS IN THE INDUSTRY,
MODERNIZATION AND INTEGRATION INTERNATIONAL INTEGRATION
BY THE PRESIDENT OF HO CHI MINH
ABSTRACT
In the current market economy, especially
in the context of globalization, integration,
opening up, social degradation and a large
number of cadres and party members in our
country have become serious. Individualism,
selishness, opportunities are doing many
people fall into the state of degeneration,
corruption, even offenses are harming the
prestige and reputation of the Party and the
State, hurt Harms the interests of society,
causing discontent among the people,
undermining people’s belief in the regime.
Therefore, the proper determination of the role
and quality of the contingent of cadres in our
country in order to work out suitable solutions
in order to build up a suficiently qualiied
staff to implement the strategy. Party cadres
in the period of accelerated industrialization
and modernization are urgent.
Keywords: construction, cadres, civil
servants, industrialization, modernization,
international integration, Ho Chi Minh
Thought
* TS. GV. Trường Đ̣i ḥc Kinh t́ th̀nh ph́ Hồ Ch́ Minh
105
Xây dựng đội ngũ cán bộ ...
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, tư
tưởng về cán bộ là nội dung chủ yếu, cốt l̃i
và tṛc tiếp trong tư tưởng của Người về vấn
đề con người, về “chiến lược trồng người”. Hồ
Chí Minh nhắc lại một triết lý vốn có trong di
sản của các nhà tư tưởng phương Đông bằng
một hình thức diễn đạt giản dị mà sâu sắc:
Vì lợi ́ch mười nĕm thì ph̉i trồng cây
Vì lợi ́ch trĕm nĕm thì ph̉i trồng người
“Trồng người” nói ở đây là hàm ý giáo
dục, giáo dưỡng, vun trồng, rèn luyện, nói
tóm lại là phải đào luyện công phu. Quá trình
đào tạo con người, nhất là đào tạo cán bộ cách
mạng theo Hồ Chí Minh là phải hết sức công
phu, tỷ m̉, cẩn thận như một người làm vườn,
lo đất, lo giống, lại phải chĕm sóc hàng ngày,
phòng trừ sâu bệnh, thì cây mới xanh tốt, mới
có ngày đơm hoa kết trái. Với con người cũng
vậy. Đó là công phu giáo dục với tất cả khoa
học và nghệ thuật mà nhà giáo dục tác động
tới con người để tạo nên tính cách, nhân cách
làm người. Đó là một quá trình vĕn hoá, tu
dưỡng vĕn hoá, đặc biệt là vĕn hoá đạo đức.
Chính vì thế, quan tâm tới cán bộ và công
tác cán bộ, Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu vấn
đề đạo đức cách mạng, lấy đức làm gốc, là
quan trọng nhất. Trong tác phẩm “Đường cách
mệnh”, nĕm 1927, một tác phẩm lý luận, tập
hợp những bài giảng lý luận về cách mạng,
nhằm truyền bá, giác ngộ chủ nghĩa Mác –
Lênin cho lớp cán bộ đầu tiên của Đảng, những
hạt giống của phong trảo cách mạng, Nguyễn
Ái Quốc đặt vấn đề đầu tiên là “Tư cách của
người cách mệnh”. Đó là là vấn đề đạo đức và
rộng hơn là nhân cách. Tác phẩm cuối cùng,
viết trước khi qua đời, Hồ Chí Minh vẫn tiếp
tục chủ đề đạo đức của cán bộ đảng viên. Đó là
bài báo nổi tiếng của Người vào tháng 7 nĕm
1969 đĕng trên báo Đảng “Ra sức rèn luyện,
tu dưỡng đạo đức cách mạng, kiên quyết đánh
bại chủ nghĩa cá nhân”. Đủ thấy vấn đề đạo đức
được Người chú trọng như thế nào, nó là gốc rễ,
nền tảng sâu xa mà cũng là động ḷc thúc đẩy
người cách mạng hành động, chiến đấu, hy sinh
đến cùng cho lý tưởng, mục tiêu cộng sản chủ
nghĩa. Đó là nhân tố tinh thần quan trọng nhất
đảm bảo cho cách mạng thành công.
Cán bộ được đề cập tới trong quan niệm,
trong tác phẩm của Hồ Chí Minh là nằm ở vị
trí trung tâm của tư tưởng về con người, về
đạo đức làm người. Đó là tư tưởng triết học và
triết lý đạo đức của Hồ Chí Minh. Mặt khác, tư
tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ còn thể hiện rất
sâu sắc trong tư tưởng của Người về đạo đức,
về chính trị, được Hồ Chí Minh nâng lên thành
vĕn hoá đạo đức, vĕn hoá chính trị mà Người
rất chú trọng rèn luyện cán bộ, bằng cách tḥc
hành các công việc tḥc tế. Người đặc biệt chú
trọng tới vấn đề này trong đội ngũ cán bộ đảng
viên với tư cách là cán bộ của dân, của đoàn
thể, của chính quyền.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ còn
được Người đề cập tới trong hoạt động lãnh
đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, trong
tham gia xây ḍng Đảng và chính quyền của
các đoàn thể quần chúng, trong quan hệ với
dân, với quần chúng nhân dân.
Người bàn về cán bộ với tư cách cá nhân –
một con người cũng như với tư cách là cả một
đội ngũ, một ḷc lượng để gây ḍng phong
trào, để tập hợp quần chúng, giáo dục, tuyên
truyền, vận động quần chúng làm cách mạng.
Như thế, Hồ Chí Minh đã gắn liền cán bộ với
quần chúng, với phong trào cách mạng của
quần chúng, nhất là trong công tác Dân vận
và tḥc hiện đại đoàn kết các dân tộc, các tôn
giáo, đoàn kết trong Đảng và trong dân.
Hồ Chí Minh đồng thời gắn liền cán bộ
với chính sách cán bộ. Không có chính sách
cán bộ đúng đắn, hợp lý, công bằng và công
minh thì cũng không thể có cán bộ tốt. Có thể
106
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
nhận thấy rằng, trên vấn đề cán bộ và chính
sách cán bộ, Hồ Chí Minh đã có một cách nhìn
toàn diện và hệ thống, bám sát tḥc tiễn, đứng
trên quan điểm “ Động” chứ không “Tĩnh”,
tức là luôn đổi mới và hướng tới phát triển.
Người thể hiện sâu sắc nĕng ḷc tư duy biện
chứng, lý luận gắn liền với tḥc tiễn, chú trọng
đồng bộ tất cả các giải pháp: giáo dục, đào tạo,
bồi dưỡng, phát hiện, bố trí, sử dụng, đãi ngộ,
kiểm tra, đánh giá, thuyết phục, động viên, cổ
vũ, khích lệ Chính điều này cho thấy, cần
thiết phải đi sâu nghiên cứu tìm hiểu để phát
hiện ra hệ quan điểm, hệ chính sách mà Người
áp dụng đối với cán bộ và đội ngũ cán bộ. Nói
một cách khác, vấn đề cán bộ và chính sách
cán bộ trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể
hiện trên hai bình diện thống nhất hữu cơ với
nhau, lý luận và tḥc tiễn.
Về lý luận, Hồ Chí Minh đề cập tới cán
bộ và chính sách cán bộ từ góc nhìn triết học
về con người và triết học về xã hội, bao quát
lý luận về đạo đức, nhân cách, vĕn hoá, chính
trị và đường lối chính trị hướng tới tiến bộ và
phát triển để tḥc hiện mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội.
Về tḥc tiễn, Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao
yêu cầu về tổ chức, quản lý, tìm tòi những tác
nhân tạo động ḷc cho cán bộ phát triển, hoàn
thiện và những tác nhân phòng tránh, ngĕn
chặn, đẩy lùi các ḷc cản, những nguy cơ làm
suy yếu tổ chức, làm thoái hoá, hư hỏng cán
bộ.
Toát lên trong toàn bộ các vấn đề Hồ Chí
Minh đề cập tới về cán bộ và chính sách cán
bộ từ tư tưởng tôn trọng nhân cách con người,
là niềm tin cậy ở con người, là tinh thần dân
chủ và công bằng trong chính sách và biện
pháp dùng người. Chính điều này thể hiện bản
chất tư tuởng Hồ Chí Minh. Đó là bản chất
khoa học- cách mạng và nhân vĕn, là đổi mới
– sáng tạo và phát triển.
Giá trị sâu sắc và ý nghĩa to lớn đó của
tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng
về cán bộ và chính sách cán bộ cần phải được
nhận thức cho đúng để vận dụng sáng tạo trong
tḥc tiễn đổi mới hiện nay ở nước ta.
Vậy cán bộ là gì? có những vấn đề gì đặt
ra trong nội dung công tác cán bộ, chiến lược
và chính sách cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí
Minh?
Chúng ta thường gặp trong các tài liệu,
sách báo khoa học và trong các vĕn kiện chính
thức của Đảng và Nhà nước các khái niệm như
cán bộ và cán bộ, đảng viên, cán bộ và công
chức hay gọi chung là công nhân viên chức.
Cũng có khi từ một khái niệm chung là “cán
bộ” lại cụ thể hoá thành “cán bộ lãnh đạo và
quản lý”, “cán bộ chuyên môn nghiệp vụ”,
“cán bộ trung cao cấp”, “cán bộ Đảng”, “cán
bộ khoa học kỹ thuật”. Có những lĩnh ṿc hoạt
động đặc thù có quy mô quốc gia nên còn có
những khu biệt khác nữa trong phân loại về
cán bộ như cán bộ chính trị, cán bộ kinh tế,
cán bộ vĕn hoá, cán bộ quân ṣ, an ninh và cán
bộ ngoại giao.
Ở nước ta, công tác cán bộ đi liền với với
công tác tổ chức, việc sắp xếp hệ thống tổ
chức bộ máy phải đồng thời với việc bố trí cán
bộ sao cho tương thích với yêu cầu hoạt động
mà tổ chức bộ máy đặt ra. Do đó công tác tổ
chức cán bộ và cơ quan chuyên môn làm công
tác tác đó thường gắn liền nhau không thể tách
rời. Ở các nước, lĩnh ṿc này được gọi là cơ
quan nhân ṣ hay quản lý nguồn nhân ḷc.
Như vậy, cán bộ là một khái niệm có nhiều
hàm nghĩa. Dù có rất nhiều điểm khác biệt đặc
thù giữa các loại cán bộ trong cơ cấu và trong
loại hình nhưng trong quan niệm về cán bộ, tức
là để trả lời câu hỏi “cán bộ là gì?”, “Những ai
được gọi là cán bộ?”, “cán bộ phải có những
tiêu chuẩn gì, đáp ứng những yêu cầu như thế
nào ?” thì cần phải thấy được những nhận thức
107
Xây dựng đội ngũ cán bộ ...
chung, dù điều này cũng có tính tương đối. Sở
dĩ là tương đối vì mỗi chế độ xã hội, mỗi mô
hình thể chế có những quan niệm khác nhau
và cách thức giải quyết khác nhau về cán bộ.
Cũng như vậy, khi tḥc tiễn biến đổi, cách
mạng chuyển sang một giai đoạn mới hay
đứng trước một thời kỳ phát triển mới, tình
hình nhiệm vụ thay đổi thì yêu cầu đối với cán
bộ, tiêu chuẩn cán bộ và chính sách cán bộ
cũng thay đổi theo cho thích hợp.
Hãy lấy một ví dụ từ tḥc tiễn cách mạng
nước ta thì đủ r̃.
Thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, trước
yêu cầu đánh đổ đế quốc tḥc dân phong kiến,
giành chính quyền về tay nhân dân, vì mục
tiêu độc lập dân tộc, cách mạng đòi hỏi ở cán
bộ lòng dũng cảm, trung kiên, chịu đ̣ng hy
sinh gian khổ, vào tù ra tội, thậm chí phải hy
sinh cả tính mạng của mình. Vào lúc đó, nhiệt
tình cách mạng, lòng dũng cảm và đức hy sinh
quên mình là tất cả. Đó là phẩm chất và nĕng
ḷc cán bộ của thời kỳ chiến tranh giải phóng.
Khi đất nước chuyển từ chiến tranh sang
hoà bình, đất nước đi vào xây ḍng, kiến thiết
kinh tế và vĕn hoá, chĕm lo cuộc sống cho dân
ngày một tốt hơn thì cách mạng đòi hỏi cán
bộ phải có kiến thức học vấn, chuyên môn,
nghiệp vụ, phải chuyển kịp tư duy, phương
pháp và phong cách công tác cho thích hợp
với yêu cầu quản lý xã hội một cách khoa học
chứ không ch̉ có nhiệt tình và lòng dũng cảm
là đủ.
Và ngày nay, khi công cuộc đổi mới đang
đi vào chiều sâu, đang đòi hỏi có những đột
phá mới, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại,
đủ sức để hội nhập quốc tế. Trong nền kinh
tế thị trường, tiến tới kinh tế tri thức, đội ngũ
cán bộ, bất kể ở cương vị, chức vụ nào, làm
việc gì, trong lĩnh ṿc nào cũng phải có trình
độ học vấn, cập nhật được thông tin mới, hiện
đại, có tư duy sáng tạo để không rơi vào lạc
hậu, tụt hậu, lại phải có đạo đức và bản lĩnh
chính trị để không thoái hoá biến chất, chệch
hướng xã hội chủ nghĩa và rơi vào nguy cơ
diễn biến hoà bình và ṭ diễn biến hoà bình.
Thời kỳ này đòi hỏi mọi người dân, trước
hết là cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt phải
không ngừng học tập, rèn luyện, phải đủ ý chí,
bản lĩnh chiến thắng chủ nghĩa cá nhân. Chính
vì thế, Lênin luôn nhấn mạnh: thế hệ trẻ, các
cán bộ thanh niên cộng sản phải thấm nhuần
nhiệm vụ của mình là Học tập chủ nghĩa cộng
sản. Người đề ra quan niệm “Học, học nữa,
học mãi”. Hồ Chí Minh cũng như vậy. Người
đòi hỏi cán bộ phải suốt đời nâng cao đạo đức
và nĕng ḷc, đức và tài phải đi liền nhau mà
đức là gốc. Vấn đề cán bộ và công tác cán
bộ, cũng như nhiều vấn đề khác của xã hội,
để nhận thức và xử lý nó một cách đúng đắn
phải xuất phát từ tḥc tiễn, phải có quan điểm
lịch sử cụ thể, nói như Lênin “Phân tích cụ thể
một tình hình cụ thể”. Ứng dụng nguyên tắc
phương pháp luận này vào việc xem xét cán
bộ, có thể thấy:
Th́ nhất, cán bộ là một khái niệm dùng
trong khoa học chính trị, khoa học quản lý
cũng như trong nhiều khoa học xã hội khác về
con nguời, để ch̉ người làm việc, hoạt động
trong một lĩnh ṿc nhất định của nhà nước,
của chế độ chính trị – xã hội, tṛc tiếp ở trong
một cơ quan nhất định, có nghề chuyên môn,
được nhà nước trả lương theo ngạch bậc và
có giữ một chức vụ hay được giao một trọng
trách nào đó. Như vậy, cán bộ được nhận diện
ở vị thế là công chức, viên chức, ở chức vụ
lãnh đạo hay quản lý, là người được uỷ quyền
và có thẩm quyền nhất định.
Theo cách hiểu và cách tiếp cận này thì cán
bộ có nghĩa rộng và nghĩa hẹp của nó. Theo
nghĩa rộng, tất cả các công chức nhà nước, các
công chức trong cơ quan nhà nước hay các cơ
108
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
quan Đảng, đoàn thể đều gọi chung là cán
bộ.
Trong số cán bộ rất đông đảo này, ai được
cử, được giao chức vụ nào đó thì gọi là cán bộ
lãnh đạo để phân biệt với cán bộ công chức
không giữ chức vụ, ch̉ làm chuyên môn. Theo
nghĩa hẹp, cán bộ ch̉ dùng để ch̉ người có
chức vụ. Giữ các chức vụ cao, có thẩm quyền
và vai trò lớn trong một tổ chức, cơ quan thì
gọi là cán bộ chủ chốt.
Th́ hai, cơ cấu và loại hình cán bộ ở nước
ta rất đa dạng, hợp thành đội ngũ cán bộ, trong
đó có các cán bộ trong hệ thống chính trị ở
tất cả các cấp, từ trung ương tới cơ sở. Đây là
những cán bộ chính trị và những cán bộ quản
lý hoặc chuyên môn. Ngoài ra còn có cán bộ
trong các đoàn thể chính trị – xã hội từ Mặt
trận đến các tổ chức thành viên của Mặt trận.
Nhìn chung, đây là cán bộ làm công tác xã
hội, vận động quần chúng, trong các thiết chế
quyền ḷc ngoài nhà nước.
Điều đáng lưu ý là ở chỗ, nước ta mang
đặc điểm là một quốc gia đa dân tộc và đa tôn
giáo. Xã hội ta đang là một xã hội quá độ tới
chủ nghĩa xã hội, trải qua những cuộc chiến
tranh kéo dài và hiện nay đang diễn ra những
thay đổi sâu sắc về cơ cấu kinh tế, cơ chế quản
lý cũng như mô hình phát triển.
Những đặc điểm ấy cho thấy, đội ngũ cán
bộ nước ta rất đa dạng về thành phần xã hội,
dân tộc, tôn giáo, đa dạng cả về trình độ và
tính chất: số đông cán bộ có trình độ học vấn
trung học, đại học và sau đại học nhưng vẫn
còn không ít cán bộ còn ở trình độ thấp, có cán
bộ chuyên nghiệp, chuyên trách mà cũng có
cán bộ không chuyên nghiệp, họ tham gia các
công việc và giữ các chức vụ mang tính kiêm
nhiệm, còn chủ yếu vấn là người hành nghề
chuyên môn theo đào tạo.
Có cán bộ thuộc cơ quan nhà nước, trong
các thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế
tập thể mà cũng có cán bộ thuộc các tổ chức
phi chính phủ, hoạt động trong các thành phần
kinh tế tư nhân, cá thể, kể cả tư bản tư nhân và
tư bản nước ngoài. Có những người đã ngh̉
hưu, thôi việc nhưng tham gia công tác ở địa
phương, cơ sở và có giữ chức vụ, lại có những
người đứng ra lập các tổ chức tư nhân như cơ
sở dịch vụ, y tế tư nhân, trường dân lập hay tư
thục hay các công ty làm dịch vụ và họ đảm
nhiệm vai trò lãnh đạo, quản lý (Giám đốc,
Hiệu trưởng, Chủ tịch hội đồng quản trị).
Với đổi mới kinh tế và phát triển mạnh
mẽ nền kinh tế thị trường, với chủ trương của
Đảng cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân
thì cơ cấu, loại hình cán bộ ở nước ta còn tiếp
tục có những biến đổi và ngày càng đa dạng
hoá. Điều đó là hợp với lẽ ṭ nhiên của đổi
mới và phát triển.
Chính điều này liên quan tới quan niệm về
cán bộ theo nghĩa rộng và theo hướng mở rộng
hơn nữa, từ hệ thống nhà nước và hệ thống
chính trị nói chung sang hệ thống xã hội, theo
tinh thần của xã hội dân ṣ đang được xây
ḍng ở nước ta.
Th́ ba, từ tḥc tế nêu trên, chúng ta đi
vào tìm hiểu khái niệm “cán bộ”, quan niệm
“cán bộ” của Hồ Chí Minh.
Trong các vĕn phẩm của mình, Hồ Chí
Minh thường ch̉ dùng chung một khái niệm
là cán bộ và cũng thường đặt liền một định
ngữ cán bộ đảng viên. Với Hồ Chí Minh, cán
bộ có thể dùng để ch̉ là người trong Đảng và
cũng có cả những cán bộ ngoài Đảng, trong
đó không ít người tuy không phải đảng viên
nhưng được tín nhiệm, tin cậy, được trọng
dụng, giao cho giữ trọng trách lớn, kể cả ở
những chức vụ cao cấp, trọng yếu trong Chính
phủ, Quốc hội dưới chế độ Dân chủ cộng hoà,
Và đảng viên, cũng có thể là đảng viên
giữ chức vụ lãnh đạo mà cũng có thể là đảng
viên thuờng không giữ chức vụ gì trong Đảng,
109
Xây dựng đội ngũ cán bộ ...
trong chính quyền hay trong chuyên môn.
Những đảng viên ấy chiếm số đông trong
Đảng ta. Vậy họ có phải là cán bộ không? Và
theo nghĩa nào, trong mối quan hệ nào, với
ai? Đây là vấn đề rất quan trọng mà bấy lâu
nay, trong nhận thức xã hội, kể cả trong nhận
thức của cán bộ đảng viên còn chưa được chú
trọng.
Cách hiểu “cán bộ” ch̉ là những người
giữ chức vụ, có chức, có quyền là một cách
hiểu tuy không sai những có phần hạn hẹp, nó
ch̉ giới hạn trong lĩnh ṿc lãnh đạo quản lý,
tức là trong địa hạt quyền ḷc. Quan niệm này
nếu bị tuyệt đối hoá thì sẽ là một khiếm khuyết
trong tư duy xã hội và tư duy quản lý, nó có
khuynh hướng đẩy tới đặc quyền đặc lợi và
sinh ra những chứng bệnh đam mê quyền ḷc,
coi quyền ḷc là cứu cánh, để dẫn đến quan
liêu xa rời quần chúng, thành ra quan cách và
quan dạng, và cũng dễ nảy sinh lạm quyền,
lộng quyền gắn với tham nhũng.
Hồ Chí Minh không dừng lại ở nghĩa hẹp,
nghĩa tṛc tiếp về cán bộ. Người quan niệm
cán bộ theo nghĩa rộng, cán bộ đảng viên đều
biểu hiện mình trong tư cách là cán bộ của dân,
là người lãnh đạo dân, lãnh đạo dân thì phải
hiểu dân, tin dân, giáo dục, tuyên truyền vận
động dân làm cách mạng, tổ chức ḷc lượng
của dân thành phong trào cách mạng để đem
lại lợi quyền cho dân chúng, nâng dân chúng
lên chứ không theo đuôi dân chúng, không mị
dân, không hống hách, nạt nộ dân. Phải đảm
bảo dân chủ chứ không biến thành “quan chủ”,
là đầy tớ, là người phục vụ dân chứ không lên
mặt “quan cách mạng”.
Mặt khác, trong quan niệm và tư tuởng
Hồ Chí Minh, cán bộ được Người nói tới với
tư cách là cán bộ cách mạng, mỗi đảng viên
trong quan hệ với dân là một người cán bộ
cách mạng vì họ có trọng trách vẻ vang là lãnh
đạo dân.
Lãnh đạo dân nhưng đồng thời là người
đầy tớ, công bộc tận tuỵ của dân, hết lòng vì
nhân dân phục vụ, coi phục vụ dân là lý tưởng
và lẽ sống, là mục đích cuộc sống của đời
mình. Hồ Chí Minh xem điều đó chính là điều
quan trọng nhất, là cao thượng nhất.
Với qua niệm rộng rãi, mềm dẻo như vậy,
tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ là bộ phận cốt
yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người,
chiến lược cán bộ cũng là nội dung chủ đạo
trong chiến lược con người và “trồng người”.
Người đặc biệt chú trọng tới mối quan hệ giữa
cán bộ với quần chúng nhân dân. Mối quan hệ
này là tính hiện tḥc, cụ thể, là sức sống của
quan hệ giữa Đảng với dân, giữa Nhà nước
với dân, giữa các tổ chức đoàn thể của quần
chúng với bản thân quần chúng đoàn viên, hội
viên. Mối quan hệ này không ch̉ quyết định
chất lượng, hiệu quả của hệ thống chính trị mà
còn củng cố sức mạnh cơ sở xã hội của chế độ.
Chính điều này chứng tỏ rằng, cán bộ và chất
lượng đội ngũ cán bộ quyết định tất cả và ṣ
gắn bó không thể tách rời giữa công tác cán
bộ với công tác tổ chức. Cán bộ nào thì phong
trào ấy, muốn có cán bộ tốt thì phải xây ḍng
tổ chức mạnh, tổ chức và cán bộ phải thường
xuyên liên hệ mật thiết, gắn bó với dân, nhất là
ở cơ sở. Muốn vậy phải đảm bảo dân chủ, phát
huy quyền làm chủ của dân.
Những điều trình bày trên cho thấy giá
trị lý luận và ý nghĩa tḥc tiễn sâu xa của tư
tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán
bộ trong mối quan hệ với DÂN và DÂN CHỦ.
Quan niệm như đã nêu trên của Hồ Chí Minh
là có tầm tư tưởng chiến lược. Ở đây có hai
điều cần nhấn mạnh:
Ṃt l̀, quan tâm tới cán bộ là quan tâm
tới con người. Chính sách cán bộ và phương
pháp dùng người của Hồ Chí Minh là nhằm
vào mục tiêu của ṣ nghiệp cách mạng về độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là chĕm lo
110
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
phát huy động ḷc quan trọng nhất, vun trồng
cho nhân tố quyết định nhất của ṣ phát triển -
động ḷc con người và nhân tố con người.
Hai l̀, đòi hỏi rất cao về chất lượng cán
bộ, cả đức và tài, mà đức là gốc, cả hồng và
chuyên, cả chính trị và chuyên môn, coi “chính
trị là linh hồn, chuyên môn là thể xác”, xét về
tḥc chất là đòi hỏi ở người cán bộ và đội ngũ
cán bộ nói chung phải tḥc ṣ xứng đáng là
cán bộ của dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân, coi
đó là lẽ sống, lý tưởng sống của mình, là ṣ
phục tùng chân lý cao nhất. R̃ ràng là, Người
đã đứng trên quan điểm nhân dân, vì dân, tất
cả vì quyền làm chủ và hạnh phúc của dân mà
đặt ra yêu cầu đối với cán bộ, vạch ra đường
lối, chính sách cán bộ, dồn rất nhiều nỗ ḷc và
tinh ḷc vào công tác đào tạo, giáo dục, huấn
luyện cán bộ .
Những tư tưởng nêu trên của Hồ Chí Minh
đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó cũng là
cơ sở để xây ḍng một chiến lược cán bộ của
Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.
2. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ Ở NƯỚC TA
Trải qua tḥc tiễn đổi mới, đội ngũ cán
bộ Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn
thể trong hệ thống chính trị ở nước ta đã có
bước trưởng thành r̃ rệt về nhiều phương
diện, đã góp phần quan trọng và quyết định
vào việc tạo ra những thành ṭu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử của đổi mới. Chính sách cán bộ
của Đảng và Nhà nước cũng có những đổi mới
về nhận thức và nội dung, về tổ chức tḥc hiện
để tạo động ḷc thúc đẩy đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị.
Có thể khái quát những chuyển biến tích
c̣c và thành ṭu đạt được của đội ngũ cán bộ
ở nước ta như sau:
- Đội ngũ cán bộ đảng viên, công chức nhà
nước và cán bộ các đoàn thể trong hệ thống
chính trị đã được xây ḍng ngày càng tĕng
v̀ ś lượng, đồng bộ hơn về cơ cấu và ngày
càng được trẻ hó, được đ̀o ṭo cơ b̉n v̀
tòn dịn. Các chức danh của đội ngũ cán bộ
công chức cũng ngày một phong phú. Đội ngũ
cán bộ công chức ở nước ta ngày càng được
chuyên môn hoá, kết hợp đào tạo và bồi dưỡng
để tiến tới tiêu chuẩn hoá theo hướng hiện đại,
làm cho vai trò của đội ngũ cán bộ công chức
tỷ lệ thuận với vai trò của nhà nước và hệ thống
chính trị.Trong tiến trình đổi mới, cán bộ công
chức nước ta được rèn luyện trong tḥc tiễn,
thay đổi tư duy nhận thức, dần dần thích ứng
với kinh tế thị trường, từng bước vươn lên để
đáp ứng những đòi hỏi của yêu cầu mới, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Đảng và Nhà nước có ṣ quan tâm ngày
càng đầy đủ, cụ thể và thiết tḥc đối với cán
bộ công chức. Các nghị quyết của Đảng về
xây ḍng đội ngũ cán bộ và đổi mới chính
sách cán bộ, các vĕn bản, đạo luật của nhà
nước, đặc biệt là pháp lệnh cán bộ công chức
và nghị định của chính phủ đã phát huy tác
dụng trong tḥc tế trên các mặt: tĕng cường
giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ công
chức, nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn,
nghiệp vụ, chú trọng bồi dưỡng các kiến thức
quản lý nhà nước, kiến thức ngoại ngữ, tin học
giúp cho cán bộ có điều kiện và khả nĕng làm
tốt các nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó, công
tác giáo dục đạo đức, các cuộc vận động học
tập và làm theo gương sáng đạo đức Hồ Chí
Minh được đẩy mạnh trong phạm vi cả nước,
nhất là từ khi Đảng và Nhà nước ban hành
quy chế dân chủ ở cơ sở, đã làm cho cán bộ
đảng viên, công chức có chuyển biến tốt hơn
về ý thức trách nhiệm, về tôn trọng và lắng
nghe ý kiến của quần chúng, củng cố mối liên
hệ mật thiết với nhân dân, tḥc hiện phương
châm công tác gần dân, trọng dân, hiểu dân,
tin dân.
111
Xây dựng đội ngũ cán bộ ...
- Chủ trương và chính sách luân chuyển
cán bộ được tḥc hiện ở trung ương và các
địa phương, kể cả ở cấp cơ sở đã góp phần rèn
luyện cán bộ trong môi trường tḥc tiễn, giúp
cho cán bộ trưởng thành, từ đó mà ḷa chọn,
bố trí cán bộ vào các công việc thích hợp, ḷa
chọn được những cán bộ tḥc ṣ có đủ phẩm
chất và nĕng ḷc để bổ nhiệm, đề bạt vào các
cương vị chủ chốt.
- Hiện nay, ở nước ta đã hình thành cơ
cấu nhìu th́ ḥ trong đội ngũ cán bộ, công
chức, từ các cấp các ngành, ở trung ương, địa
phương và cơ sở. Bên cạnh lớp cán bộ được
đào tạo, rèn luyện và trưởng thành trong kháng
chiến chống Pháp, chống Mỹ và xây ḍng chủ
nghĩa xã hội trước đây, một bộ phận được đào
tạo, rèn luyện, trưởng thành từ sau giải phóng
miền Nam, trong xây ḍng chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi cả nước, nhất là trong tḥc tiễn
30 nĕm đổi mới. Các thế hệ cán bộ ở nước ta
đã có ṣ kế thừa và phát triển lẫn nhau, bổ
sung cho nhau để phát huy mặt tích c̣c và
khắc phục những mặt còn hạn chế. Trong đội
ngũ cán bộ ở nước ta, có không ít những gương
điển hình về cán bộ đảng viên tận tuỵ và liêm
khiết, phát huy được vai trò tiên phong gương
mẫu trong công tác và lối sống, được quần
chúng nhân dân tín nhiệm. Đánh giá chung về
chất lượng đội ngũ cán bộ, Đảng ta đã nhấn
mạnh: “Đa số cán bộ đảng viên phát huy được
vai trò tiên phong, nĕng động, sáng tạo trong
công tác, lao động, rèn luyện phẩm chất, nĕng
ḷc, có bước trưởng thành, đóng vai trò nòng
cốt trong công cuộc đổi mới, góp phần xứng
đáng vào thành quả chung của ṣ nghiệp xây
ḍng và bảo vệ tổ quốc”1.
Về công tác cán bộ cũng có một số đổi
mới về mặt ṇi dung và ćch l̀m. Đã giữ
vững và tḥc hiện quan điểm Đảng thống nhất
1 Đảng cộng sản Việt Nam, Vĕn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, H.2005, tr.261.
lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ
cán bộ, tḥc hiện tốt hơn nguyên tắc tập trung
dân chủ, coi trọng hơn việc phát huy vai trò,
trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống
chính trị và người đứng đầu các tổ chức, bước
đầu tḥc hiện việc tổ chức cho nhân dân tham
gia ý kiến vào công tác cán bộ, nhất là ở cơ
sở 22. Tổng kết 30 nĕm đổi mới, Đảng ta đặc
biệt nhấn mạnh tới bài học về cán bộ, công
tác tổ chức cán bộ và chính sách cán bộ. Đó
là: “Đảng tập trung lãnh đạo về đường lối, chủ
trương, xây ḍng tiêu chí, tiêu chuẩn, cơ chế,
chính sách về cán bộ, công chức. Đẩy mạnh
dân chủ hóa công tác cán bộ”; “Tập trung
xây ḍng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán
bộ cấp chiến lược, đủ nĕng ḷc và phẩm chất,
ngang tầm nhiệm vụ. Có cơ chế, chính sách
phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài 3.
Cùng với những chuyển biến tích c̣c và
thành ṭu đạt được, chất lượng đội ngũ cán bộ
và hiệu quả việc tḥc hiện chính sách cán bộ ở
nước ta cũng còn có những hạn chế, yếu kém
và bất cập, kể cả những vấn đề phát sinh trong
điều kiện kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập,
cần phải tập trung giải quyết. Đó là:
- Một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên,
kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp, yếu kém
cả về phẩm chất và nĕng ḷc; thiếu tính chiến
đấu và tinh thần bảo vệ quan điểm, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước,
giảm sút lòng tin, phai nhạt lý tưởng, một số
ít có biểu hiện bất mãn, mất lòng tin, nói và
làm trái với quan điểm, đường lối của Đảng,
vi phạm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
Đảng, vi phạm pháp luật nhà nước 4.
- Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân trong một
2 Đảng cộng sản Việt Nam, Vĕn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, H.2005, tr.267.
3 ĐCSVN: Vĕn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb,CTQG, H.2016, Tr.180, 206-207.
4 Đảng cộng sản Việt Nam, Vĕn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X. Nxb. CTQG, H.2005, tr .263-264.
112
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
bộ phận cán bộ đảng viên có chiều hướng gia
tĕng, vẫn còn tình trạng “chạy chức”, “chạy
quyền”, “chạy tội”, “chạy bằng cấp”. Thoái
hoá biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo
đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, sách nhiễu dân trong một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng,
kéo dài chưa được ngĕn chặn, đẩy lùi làm
giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Đó là
một nguy cơ lớn liên quan đến ṣ sống còn của
Đảng, của chế độ1 5.
- Do tác động mặt trái của kinh tế thị
trường, hơn nữa do yếu kém của quản lý và do
không thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện của
cán bộ đảng viên, công chức mà mấy nĕm gần
đây chủ nghĩa cá nhân vụ lợi, vị kỷ đã có chiều
hướng gia tĕng, lối sống tôn thờ đồng tiền và
các tiện nghi vật chất, hưởng lạc đã ảnh hưởng
vào không ít cán bộ, làm vẩn đục các quan hệ
xã hội, môi trường xã hội, làm lu mờ các giá trị
đạo đức, vĕn hoá, dẫn tới những lệch lạc trong
định hướng giá trị. Ṣ thiếu gương mẫu, lối
sống buông thả của một số cán bộ, của những
người lớn đã làm hư hỏng chính thế hệ trẻ, con
em họ trong gia đình. Có nhiều biểu hiện lời
nói không đi đôi với việc làm, nói mà không
làm, làm không đến nơi đến chốn, thói cơ hội
tuỳ thời trong chính trị còn đi liền với thói đạo
đức giả, thói giả đạo đức. Đạo đức của cán bộ
công chức bị suy giảm còn ảnh hưởng xấu tới
đạo đức trong gia đình, nhà trường, cơ quan,
xã hội.
Từ tḥc trạng nêu trên về chất lượng đội
ngũ cán bộ và công tác cán bộ, chúng tôi kiến
nghị một số giải pháp sau:
Th́ nhất, cần phải tĕng cường gío dục
nḥn th́c trong Đ̉ng v̀ trong ćc cơ quan
Nh̀ nước, trong ćc đòn th̉ thục ḥ th́ng
ch́nh tṛ về tầm quan trọng của công tác cán
5 Đảng cộng sản Việt Nam, Vĕn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X. Nxb. CTQG, H.2005, tr263-264
bộ, ý nghĩa chiến lược của vấn đề cán bộ và
xây ḍng đội ngũ cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí
Minh trong thời kỳ phát triển mới của cách
mạng nước ta. Làm cho mọi người nhận thức
r̃ vai trò to lớn và có tính chất quyết định
của cán bộ trong việc tḥc hiện triển khai các
nhiệm vụ của đổi mới, thể hiện tập trung ở
tḥc hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.
Chất lượng nguồn nhân ḷc của nước ta
thể hiện trước hết ở chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức, từ cán bộ lãnh đạo, quản lý
chủ chốt đến cán bộ chuyên môn nghiệp vụ,
cán bộ khoa học kỹ thuật. Đội ngũ cán bộ này
là nguồn nhân ḷc quan trọng nhất để tḥc
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây ḍng
Đảng, nhà nước pháp quyền và đổi mới hệ
thống chính trị. Đây cũng chính là ḷc lượng
to lớn để gây ḍng và thúc đẩy phong trào
cách mạng, đưa đường lối, chủ trương, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước tới quần
chúng, tổ chức, tập hợp quần chúng tḥc hiện.
Trong tình hình hiện nay, việc giáo dục
nhận thức cho cán bộ và trong đội ngũ cán bộ
ở nước ta phải đặc biệt chú trọng giáo dục về
ý thức trách nhiệm đi liền với tôn trọng pháp
luật. Nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn
Đảng, toàn dân trong việc đào tạo, giáo dục
cán bộ đặc biệt là trách nhiệm của dân trong
việc giám sát cán bộ, công chức về hoạt động,
hành vi, lối sống, làm cho đội ngũ cán bộ trong
sạch, phòng chống, ngĕn chặn ṣ thoái hoá, sa
sút phẩm chất của cán bộ trong điều kiện Đảng
cầm quyền và trong nền kinh tế thị trường, mở
cửa, hội nhập quốc tế.
Th́ hai, Tḥc h̀nh ṛng rãi dân ch̉ trong
Đ̉ng v̀ trong xã ḥi để vừa đảm bảo dân chủ
và phát huy quyền làm chủ của dân vừa phát
huy khả nĕng sáng tạo, tính tích c̣c, ṭ giác
của cán bộ, tạo thành sức mạnh từ mối liên hệ
mật thiết giữa cán bộ với quần chúng, nhờ đó
mà nâng cao được hiệu quả hoạt động trong
113
Xây dựng đội ngũ cán bộ ...
các lĩnh ṿc công tác. Điều thiết tḥc nhất là
phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí
có hiệu quả. Một khi dân ủng hộ đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước, một khi
đội ngũ cán bộ được dân tín nhiệm, tin tưởng
thì đó là cơ sở chắc chắn nhất đảm bảo cho ổn
định và phát triển ở nước ta, cho thắng lợi của
đổi mới.
Th́ ba, Tḥc h̀nh đ̣o đ́c ćch ṃng
theo gương sáng Hồ Chí Minh trong đông đảo
cán bộ đảng viên công chức và quần chúng
nhân dân. Đây phải là việc làm thường xuyên,
lâu d̀i, chú trong tḥc chất, hiệu quả, tác
dụng, chống hình thức, phô trương, nhất là
phải chú trọng vào việc làm, vào hành động
tḥc tế chứ không phải lời nói. Tḥc hành đạo
đức cách mạng theo gương sáng Hồ Chí Minh
là một trong những biện pháp quan trọng làm
cho Đảng trong sạch, nhà nước có hiệu ḷc
trong quản lý, góp phần chấn hưng nền đạo
đức xã hội đang suy thoái. Tḥc hành đạo đức
cách mạng theo gương sáng Hồ Chí Minh thì
sẽ tạo được sức mạnh đạo đức, tinh thần cho
cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng có
hiệu quả, Do đó, phải chú trọng nội dung công
tác xây ḍng Đảng không ch̉ là chính trị, tư
tưởng, tổ chức mà còn là đạo đức, lối sống.
Phải đề cao đạo đức công chức, gắn liền với kỷ
lụt công vụ trong các cơ quan nhà nước. Tận
dụng mọi phương tiện thông tin đại chúng,
khai thác những hình thức tuyên truyền, vận
động, giáo dục đa dạng, phong phú, có tác
dụng nâng cao nhận thức, bồi dưỡng tình cảm,
niềm tin và thúc đẩy hành động đối với đông
đảo cán bộ đảng viên và quần chúng. Đây là
cuộc vận động chính trị - xã hội rộng lớn và
giáo dục vĕn hoá sâu sắc trong Đảng, trong
dân.
Th́ tư, Đẩy mạnh học tập, bồi dưỡng và
nâng cao nĕng ḷc cho cán bộ đảng viên công
chức trong tình hình hiện nay, khi kinh tế tri
thức, xã hội học tập đang đặt ra những yêu cầu
ngày một cao. Muốn vậy phải đẩy mạnh cải
cách giáo dục, hiện đại hoá nội dung và đổi
mới phương pháp giáo dục, chú trọng nâng
cao nĕng ḷc, trình độ tư duy để phát triển trí
tuệ, đề cao tính sáng tạo, hình thành nhu cầu
ṭ học, ṭ đào tạo để ṭ vươn lên. Phải chú
trọng tḥc chất, hiệu quả, chống hình thức, giả
dối, nhất là tình trạng thương mại hoá giáo dục
hiện nay.
Th́ nĕm, Tận dụng nguồn nhân ḷc cán bộ
hiện có, chú trọng đào tạo bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ kế cận; phát huy nhiệt tình khả nĕng,
ṣ cống hiến của mọi cán bộ, trong Đảng và
ngoài Đảng, cán bộ lãnh đạo quản lý và cán bộ
khoa học - kỹ thuật, chú trọng sử dụng, tin cậy,
tôn vinh và đãi ngộ xứng đáng những nhân
tài, hiền tài của đất nước. Đặc biệt chú trọng
tới đội ngũ cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu
số, tính cân đối hợp lý của phân bố ḷc lượng
cán bộ ở các vùng, miền, các cấp, các ngành
đảm bảo đủ nhân ḷc cho phát triển toàn diện
kinh tế - vĕn hoá trong cả nước.
3. KẾT LUẬN
Sau 30 nĕm đổi mới, Đảng và nhân dân
ta đã giành được những thành ṭu to lớn về
nhiều mặt, có ý nghĩa lịch sử. Thế và ḷc của
cách mạng nước ta đã có những bước phát
triển mới. Trong mỗi bước đường tiến lên của
cách mạng, cán bộ có vai trò vô cùng to lớn và
quan trọng.
Ngày nay, khi đi vào đổi mới, phát triển
mạnh mẽ kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập
quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, nhiệm vụ mới, yêu cầu mới đang đặt ra
cho đội ngũ cán bộ đảng viên, công chức ở
nước ta những thử thách mới phải vượt qua,
phải đủ sức tḥc hiện những nhiệm vụ khó
khĕn, phức tạp, mởi mẻ để đưa nước ta trở
thành một nước vĕn minh, hiện đại. Vận dụng
114
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ, quyết tâm xây ḍng một đội ngũ cán
bộ đủ đức, đủ tài, đủ sức đánh bại chủ nghĩa
cá nhân, làm đầy tớ, công bộc trung thành, tận
tuỵ của dân - đó là nhân tố cơ bản đảm bảo cho
thắng lợi của cách mạng nước ta.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Hồ Chí Minh, Tòn ṭp, 12Tập, Nxb.
CTQG, H.1995, 1996, 2000
[2]. Nguyễn Thế Kiệt (chủ biên): Đạo đức
người cán ḅ lãnh đ̣o ch́nh tṛ hịn nay.
Nxb. CTQG, H.2005
[3]. Trần Thành (chủ biên): Tư duy lý lụn
với họt đ̣ng c̉a người ćn ḅ lãnh đ̣o, ch̉
đ̣o tḥc tiễn. Nxb. CTQG, H.2003.
[4]. Vĕn kịn Đ̣i ḥi Đ̉ng l̀n th́ X. Nxb.
CTQG, H.2006
[5]. Vĕn kịn Đ̣i ḥi Đ̉ng l̀n th́ XII. Nxb.
CTQG, H.2016.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25_7694_2136160.pdf