Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh - Nguyễn Khánh Vân

Tài liệu Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh - Nguyễn Khánh Vân: 104 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật TÓM TẮT Trong ǹn kinh t́ tḥ trường hịn nay, nhất l̀ trong b́i c̉nh tòn c̀u hó, ḥi nḥp, mở cửa, tình tṛng suy thói đ̣o đ́c xã ḥi v̀ trong ṃt ḅ pḥn không nh̉ ćn ḅ, đ̉ng viên ở nước ta đã trở nên nghiêm tṛng. Ch̉ nghĩa ć nhân vụ lợi, ṿ kỷ, thói cơ ḥi đang l̀m không ́t người rơi v̀o tình tṛng thói hó, hư h̉ng, tḥm ch́ pḥm ṭi đang l̀m tổn ḥi đ́n uy t́n, thanh danh c̉a Đ̉ng v̀ Nh̀ nước, l̀m tổn ḥi tới lợi ́ch c̉a xã ḥi, gây nỗi bất bình trong nhân dân, l̀m suy gỉm nìm tin c̉a nhân dân đ́i với ch́ đ̣. Do ṿy, vịc x́c đ̣nh đúng đắn vai trò v̀ chất lượng c̉a đ̣i ngũ ćn ḅ ở nước ta, đ̉ đ̀ ra những gỉi ph́p phù hợp nhằm quýt tâm xây ḍng ṃt đ̣i ngũ ćn ḅ đ̉ đ́c, đ̉ t̀i, tḥc hịn chín lược ćn ḅ c̉a Đ̉ng trong thời kỳ đ̉y ṃnh công nghịp hóa, hịn đ̣i hóa đang l̀ yêu c̀u cấp thít. Từ khóa: xây dựng, cán bộ, công chức, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, Tư tưởng Hồ Ch...

pdf11 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 581 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh - Nguyễn Khánh Vân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
104 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật TÓM TẮT Trong ǹn kinh t́ tḥ trường hịn nay, nhất l̀ trong b́i c̉nh tòn c̀u hó, ḥi nḥp, mở cửa, tình tṛng suy thói đ̣o đ́c xã ḥi v̀ trong ṃt ḅ pḥn không nh̉ ćn ḅ, đ̉ng viên ở nước ta đã trở nên nghiêm tṛng. Ch̉ nghĩa ć nhân vụ lợi, ṿ kỷ, thói cơ ḥi đang l̀m không ́t người rơi v̀o tình tṛng thói hó, hư h̉ng, tḥm ch́ pḥm ṭi đang l̀m tổn ḥi đ́n uy t́n, thanh danh c̉a Đ̉ng v̀ Nh̀ nước, l̀m tổn ḥi tới lợi ́ch c̉a xã ḥi, gây nỗi bất bình trong nhân dân, l̀m suy gỉm nìm tin c̉a nhân dân đ́i với ch́ đ̣. Do ṿy, vịc x́c đ̣nh đúng đắn vai trò v̀ chất lượng c̉a đ̣i ngũ ćn ḅ ở nước ta, đ̉ đ̀ ra những gỉi ph́p phù hợp nhằm quýt tâm xây ḍng ṃt đ̣i ngũ ćn ḅ đ̉ đ́c, đ̉ t̀i, tḥc hịn chín lược ćn ḅ c̉a Đ̉ng trong thời kỳ đ̉y ṃnh công nghịp hóa, hịn đ̣i hóa đang l̀ yêu c̀u cấp thít. Từ khóa: xây dựng, cán bộ, công chức, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, Tư tưởng Hồ Chí Minh. XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ Đ̉Y MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Nguyễn Khánh Vân* BUILDING TEAMS OF VIETNAMESE CIVIL WORKERS IN THE INDUSTRY, MODERNIZATION AND INTEGRATION INTERNATIONAL INTEGRATION BY THE PRESIDENT OF HO CHI MINH ABSTRACT In the current market economy, especially in the context of globalization, integration, opening up, social degradation and a large number of cadres and party members in our country have become serious. Individualism, selishness, opportunities are doing many people fall into the state of degeneration, corruption, even offenses are harming the prestige and reputation of the Party and the State, hurt Harms the interests of society, causing discontent among the people, undermining people’s belief in the regime. Therefore, the proper determination of the role and quality of the contingent of cadres in our country in order to work out suitable solutions in order to build up a suficiently qualiied staff to implement the strategy. Party cadres in the period of accelerated industrialization and modernization are urgent. Keywords: construction, cadres, civil servants, industrialization, modernization, international integration, Ho Chi Minh Thought * TS. GV. Trường Đ̣i ḥc Kinh t́ th̀nh ph́ Hồ Ch́ Minh 105 Xây dựng đội ngũ cán bộ ... 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về cán bộ là nội dung chủ yếu, cốt l̃i và tṛc tiếp trong tư tưởng của Người về vấn đề con người, về “chiến lược trồng người”. Hồ Chí Minh nhắc lại một triết lý vốn có trong di sản của các nhà tư tưởng phương Đông bằng một hình thức diễn đạt giản dị mà sâu sắc: Vì lợi ́ch mười nĕm thì ph̉i trồng cây Vì lợi ́ch trĕm nĕm thì ph̉i trồng người “Trồng người” nói ở đây là hàm ý giáo dục, giáo dưỡng, vun trồng, rèn luyện, nói tóm lại là phải đào luyện công phu. Quá trình đào tạo con người, nhất là đào tạo cán bộ cách mạng theo Hồ Chí Minh là phải hết sức công phu, tỷ m̉, cẩn thận như một người làm vườn, lo đất, lo giống, lại phải chĕm sóc hàng ngày, phòng trừ sâu bệnh, thì cây mới xanh tốt, mới có ngày đơm hoa kết trái. Với con người cũng vậy. Đó là công phu giáo dục với tất cả khoa học và nghệ thuật mà nhà giáo dục tác động tới con người để tạo nên tính cách, nhân cách làm người. Đó là một quá trình vĕn hoá, tu dưỡng vĕn hoá, đặc biệt là vĕn hoá đạo đức. Chính vì thế, quan tâm tới cán bộ và công tác cán bộ, Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu vấn đề đạo đức cách mạng, lấy đức làm gốc, là quan trọng nhất. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, nĕm 1927, một tác phẩm lý luận, tập hợp những bài giảng lý luận về cách mạng, nhằm truyền bá, giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin cho lớp cán bộ đầu tiên của Đảng, những hạt giống của phong trảo cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đặt vấn đề đầu tiên là “Tư cách của người cách mệnh”. Đó là là vấn đề đạo đức và rộng hơn là nhân cách. Tác phẩm cuối cùng, viết trước khi qua đời, Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục chủ đề đạo đức của cán bộ đảng viên. Đó là bài báo nổi tiếng của Người vào tháng 7 nĕm 1969 đĕng trên báo Đảng “Ra sức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng, kiên quyết đánh bại chủ nghĩa cá nhân”. Đủ thấy vấn đề đạo đức được Người chú trọng như thế nào, nó là gốc rễ, nền tảng sâu xa mà cũng là động ḷc thúc đẩy người cách mạng hành động, chiến đấu, hy sinh đến cùng cho lý tưởng, mục tiêu cộng sản chủ nghĩa. Đó là nhân tố tinh thần quan trọng nhất đảm bảo cho cách mạng thành công. Cán bộ được đề cập tới trong quan niệm, trong tác phẩm của Hồ Chí Minh là nằm ở vị trí trung tâm của tư tưởng về con người, về đạo đức làm người. Đó là tư tưởng triết học và triết lý đạo đức của Hồ Chí Minh. Mặt khác, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ còn thể hiện rất sâu sắc trong tư tưởng của Người về đạo đức, về chính trị, được Hồ Chí Minh nâng lên thành vĕn hoá đạo đức, vĕn hoá chính trị mà Người rất chú trọng rèn luyện cán bộ, bằng cách tḥc hành các công việc tḥc tế. Người đặc biệt chú trọng tới vấn đề này trong đội ngũ cán bộ đảng viên với tư cách là cán bộ của dân, của đoàn thể, của chính quyền. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ còn được Người đề cập tới trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, trong tham gia xây ḍng Đảng và chính quyền của các đoàn thể quần chúng, trong quan hệ với dân, với quần chúng nhân dân. Người bàn về cán bộ với tư cách cá nhân – một con người cũng như với tư cách là cả một đội ngũ, một ḷc lượng để gây ḍng phong trào, để tập hợp quần chúng, giáo dục, tuyên truyền, vận động quần chúng làm cách mạng. Như thế, Hồ Chí Minh đã gắn liền cán bộ với quần chúng, với phong trào cách mạng của quần chúng, nhất là trong công tác Dân vận và tḥc hiện đại đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo, đoàn kết trong Đảng và trong dân. Hồ Chí Minh đồng thời gắn liền cán bộ với chính sách cán bộ. Không có chính sách cán bộ đúng đắn, hợp lý, công bằng và công minh thì cũng không thể có cán bộ tốt. Có thể 106 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật nhận thấy rằng, trên vấn đề cán bộ và chính sách cán bộ, Hồ Chí Minh đã có một cách nhìn toàn diện và hệ thống, bám sát tḥc tiễn, đứng trên quan điểm “ Động” chứ không “Tĩnh”, tức là luôn đổi mới và hướng tới phát triển. Người thể hiện sâu sắc nĕng ḷc tư duy biện chứng, lý luận gắn liền với tḥc tiễn, chú trọng đồng bộ tất cả các giải pháp: giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát hiện, bố trí, sử dụng, đãi ngộ, kiểm tra, đánh giá, thuyết phục, động viên, cổ vũ, khích lệ Chính điều này cho thấy, cần thiết phải đi sâu nghiên cứu tìm hiểu để phát hiện ra hệ quan điểm, hệ chính sách mà Người áp dụng đối với cán bộ và đội ngũ cán bộ. Nói một cách khác, vấn đề cán bộ và chính sách cán bộ trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện trên hai bình diện thống nhất hữu cơ với nhau, lý luận và tḥc tiễn. Về lý luận, Hồ Chí Minh đề cập tới cán bộ và chính sách cán bộ từ góc nhìn triết học về con người và triết học về xã hội, bao quát lý luận về đạo đức, nhân cách, vĕn hoá, chính trị và đường lối chính trị hướng tới tiến bộ và phát triển để tḥc hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Về tḥc tiễn, Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao yêu cầu về tổ chức, quản lý, tìm tòi những tác nhân tạo động ḷc cho cán bộ phát triển, hoàn thiện và những tác nhân phòng tránh, ngĕn chặn, đẩy lùi các ḷc cản, những nguy cơ làm suy yếu tổ chức, làm thoái hoá, hư hỏng cán bộ. Toát lên trong toàn bộ các vấn đề Hồ Chí Minh đề cập tới về cán bộ và chính sách cán bộ từ tư tưởng tôn trọng nhân cách con người, là niềm tin cậy ở con người, là tinh thần dân chủ và công bằng trong chính sách và biện pháp dùng người. Chính điều này thể hiện bản chất tư tuởng Hồ Chí Minh. Đó là bản chất khoa học- cách mạng và nhân vĕn, là đổi mới – sáng tạo và phát triển. Giá trị sâu sắc và ý nghĩa to lớn đó của tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng về cán bộ và chính sách cán bộ cần phải được nhận thức cho đúng để vận dụng sáng tạo trong tḥc tiễn đổi mới hiện nay ở nước ta. Vậy cán bộ là gì? có những vấn đề gì đặt ra trong nội dung công tác cán bộ, chiến lược và chính sách cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh? Chúng ta thường gặp trong các tài liệu, sách báo khoa học và trong các vĕn kiện chính thức của Đảng và Nhà nước các khái niệm như cán bộ và cán bộ, đảng viên, cán bộ và công chức hay gọi chung là công nhân viên chức. Cũng có khi từ một khái niệm chung là “cán bộ” lại cụ thể hoá thành “cán bộ lãnh đạo và quản lý”, “cán bộ chuyên môn nghiệp vụ”, “cán bộ trung cao cấp”, “cán bộ Đảng”, “cán bộ khoa học kỹ thuật”. Có những lĩnh ṿc hoạt động đặc thù có quy mô quốc gia nên còn có những khu biệt khác nữa trong phân loại về cán bộ như cán bộ chính trị, cán bộ kinh tế, cán bộ vĕn hoá, cán bộ quân ṣ, an ninh và cán bộ ngoại giao. Ở nước ta, công tác cán bộ đi liền với với công tác tổ chức, việc sắp xếp hệ thống tổ chức bộ máy phải đồng thời với việc bố trí cán bộ sao cho tương thích với yêu cầu hoạt động mà tổ chức bộ máy đặt ra. Do đó công tác tổ chức cán bộ và cơ quan chuyên môn làm công tác tác đó thường gắn liền nhau không thể tách rời. Ở các nước, lĩnh ṿc này được gọi là cơ quan nhân ṣ hay quản lý nguồn nhân ḷc. Như vậy, cán bộ là một khái niệm có nhiều hàm nghĩa. Dù có rất nhiều điểm khác biệt đặc thù giữa các loại cán bộ trong cơ cấu và trong loại hình nhưng trong quan niệm về cán bộ, tức là để trả lời câu hỏi “cán bộ là gì?”, “Những ai được gọi là cán bộ?”, “cán bộ phải có những tiêu chuẩn gì, đáp ứng những yêu cầu như thế nào ?” thì cần phải thấy được những nhận thức 107 Xây dựng đội ngũ cán bộ ... chung, dù điều này cũng có tính tương đối. Sở dĩ là tương đối vì mỗi chế độ xã hội, mỗi mô hình thể chế có những quan niệm khác nhau và cách thức giải quyết khác nhau về cán bộ. Cũng như vậy, khi tḥc tiễn biến đổi, cách mạng chuyển sang một giai đoạn mới hay đứng trước một thời kỳ phát triển mới, tình hình nhiệm vụ thay đổi thì yêu cầu đối với cán bộ, tiêu chuẩn cán bộ và chính sách cán bộ cũng thay đổi theo cho thích hợp. Hãy lấy một ví dụ từ tḥc tiễn cách mạng nước ta thì đủ r̃. Thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, trước yêu cầu đánh đổ đế quốc tḥc dân phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, vì mục tiêu độc lập dân tộc, cách mạng đòi hỏi ở cán bộ lòng dũng cảm, trung kiên, chịu đ̣ng hy sinh gian khổ, vào tù ra tội, thậm chí phải hy sinh cả tính mạng của mình. Vào lúc đó, nhiệt tình cách mạng, lòng dũng cảm và đức hy sinh quên mình là tất cả. Đó là phẩm chất và nĕng ḷc cán bộ của thời kỳ chiến tranh giải phóng. Khi đất nước chuyển từ chiến tranh sang hoà bình, đất nước đi vào xây ḍng, kiến thiết kinh tế và vĕn hoá, chĕm lo cuộc sống cho dân ngày một tốt hơn thì cách mạng đòi hỏi cán bộ phải có kiến thức học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, phải chuyển kịp tư duy, phương pháp và phong cách công tác cho thích hợp với yêu cầu quản lý xã hội một cách khoa học chứ không ch̉ có nhiệt tình và lòng dũng cảm là đủ. Và ngày nay, khi công cuộc đổi mới đang đi vào chiều sâu, đang đòi hỏi có những đột phá mới, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đủ sức để hội nhập quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường, tiến tới kinh tế tri thức, đội ngũ cán bộ, bất kể ở cương vị, chức vụ nào, làm việc gì, trong lĩnh ṿc nào cũng phải có trình độ học vấn, cập nhật được thông tin mới, hiện đại, có tư duy sáng tạo để không rơi vào lạc hậu, tụt hậu, lại phải có đạo đức và bản lĩnh chính trị để không thoái hoá biến chất, chệch hướng xã hội chủ nghĩa và rơi vào nguy cơ diễn biến hoà bình và ṭ diễn biến hoà bình. Thời kỳ này đòi hỏi mọi người dân, trước hết là cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt phải không ngừng học tập, rèn luyện, phải đủ ý chí, bản lĩnh chiến thắng chủ nghĩa cá nhân. Chính vì thế, Lênin luôn nhấn mạnh: thế hệ trẻ, các cán bộ thanh niên cộng sản phải thấm nhuần nhiệm vụ của mình là Học tập chủ nghĩa cộng sản. Người đề ra quan niệm “Học, học nữa, học mãi”. Hồ Chí Minh cũng như vậy. Người đòi hỏi cán bộ phải suốt đời nâng cao đạo đức và nĕng ḷc, đức và tài phải đi liền nhau mà đức là gốc. Vấn đề cán bộ và công tác cán bộ, cũng như nhiều vấn đề khác của xã hội, để nhận thức và xử lý nó một cách đúng đắn phải xuất phát từ tḥc tiễn, phải có quan điểm lịch sử cụ thể, nói như Lênin “Phân tích cụ thể một tình hình cụ thể”. Ứng dụng nguyên tắc phương pháp luận này vào việc xem xét cán bộ, có thể thấy: Th́ nhất, cán bộ là một khái niệm dùng trong khoa học chính trị, khoa học quản lý cũng như trong nhiều khoa học xã hội khác về con nguời, để ch̉ người làm việc, hoạt động trong một lĩnh ṿc nhất định của nhà nước, của chế độ chính trị – xã hội, tṛc tiếp ở trong một cơ quan nhất định, có nghề chuyên môn, được nhà nước trả lương theo ngạch bậc và có giữ một chức vụ hay được giao một trọng trách nào đó. Như vậy, cán bộ được nhận diện ở vị thế là công chức, viên chức, ở chức vụ lãnh đạo hay quản lý, là người được uỷ quyền và có thẩm quyền nhất định. Theo cách hiểu và cách tiếp cận này thì cán bộ có nghĩa rộng và nghĩa hẹp của nó. Theo nghĩa rộng, tất cả các công chức nhà nước, các công chức trong cơ quan nhà nước hay các cơ 108 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật quan Đảng, đoàn thể đều gọi chung là cán bộ. Trong số cán bộ rất đông đảo này, ai được cử, được giao chức vụ nào đó thì gọi là cán bộ lãnh đạo để phân biệt với cán bộ công chức không giữ chức vụ, ch̉ làm chuyên môn. Theo nghĩa hẹp, cán bộ ch̉ dùng để ch̉ người có chức vụ. Giữ các chức vụ cao, có thẩm quyền và vai trò lớn trong một tổ chức, cơ quan thì gọi là cán bộ chủ chốt. Th́ hai, cơ cấu và loại hình cán bộ ở nước ta rất đa dạng, hợp thành đội ngũ cán bộ, trong đó có các cán bộ trong hệ thống chính trị ở tất cả các cấp, từ trung ương tới cơ sở. Đây là những cán bộ chính trị và những cán bộ quản lý hoặc chuyên môn. Ngoài ra còn có cán bộ trong các đoàn thể chính trị – xã hội từ Mặt trận đến các tổ chức thành viên của Mặt trận. Nhìn chung, đây là cán bộ làm công tác xã hội, vận động quần chúng, trong các thiết chế quyền ḷc ngoài nhà nước. Điều đáng lưu ý là ở chỗ, nước ta mang đặc điểm là một quốc gia đa dân tộc và đa tôn giáo. Xã hội ta đang là một xã hội quá độ tới chủ nghĩa xã hội, trải qua những cuộc chiến tranh kéo dài và hiện nay đang diễn ra những thay đổi sâu sắc về cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý cũng như mô hình phát triển. Những đặc điểm ấy cho thấy, đội ngũ cán bộ nước ta rất đa dạng về thành phần xã hội, dân tộc, tôn giáo, đa dạng cả về trình độ và tính chất: số đông cán bộ có trình độ học vấn trung học, đại học và sau đại học nhưng vẫn còn không ít cán bộ còn ở trình độ thấp, có cán bộ chuyên nghiệp, chuyên trách mà cũng có cán bộ không chuyên nghiệp, họ tham gia các công việc và giữ các chức vụ mang tính kiêm nhiệm, còn chủ yếu vấn là người hành nghề chuyên môn theo đào tạo. Có cán bộ thuộc cơ quan nhà nước, trong các thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể mà cũng có cán bộ thuộc các tổ chức phi chính phủ, hoạt động trong các thành phần kinh tế tư nhân, cá thể, kể cả tư bản tư nhân và tư bản nước ngoài. Có những người đã ngh̉ hưu, thôi việc nhưng tham gia công tác ở địa phương, cơ sở và có giữ chức vụ, lại có những người đứng ra lập các tổ chức tư nhân như cơ sở dịch vụ, y tế tư nhân, trường dân lập hay tư thục hay các công ty làm dịch vụ và họ đảm nhiệm vai trò lãnh đạo, quản lý (Giám đốc, Hiệu trưởng, Chủ tịch hội đồng quản trị). Với đổi mới kinh tế và phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường, với chủ trương của Đảng cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân thì cơ cấu, loại hình cán bộ ở nước ta còn tiếp tục có những biến đổi và ngày càng đa dạng hoá. Điều đó là hợp với lẽ ṭ nhiên của đổi mới và phát triển. Chính điều này liên quan tới quan niệm về cán bộ theo nghĩa rộng và theo hướng mở rộng hơn nữa, từ hệ thống nhà nước và hệ thống chính trị nói chung sang hệ thống xã hội, theo tinh thần của xã hội dân ṣ đang được xây ḍng ở nước ta. Th́ ba, từ tḥc tế nêu trên, chúng ta đi vào tìm hiểu khái niệm “cán bộ”, quan niệm “cán bộ” của Hồ Chí Minh. Trong các vĕn phẩm của mình, Hồ Chí Minh thường ch̉ dùng chung một khái niệm là cán bộ và cũng thường đặt liền một định ngữ cán bộ đảng viên. Với Hồ Chí Minh, cán bộ có thể dùng để ch̉ là người trong Đảng và cũng có cả những cán bộ ngoài Đảng, trong đó không ít người tuy không phải đảng viên nhưng được tín nhiệm, tin cậy, được trọng dụng, giao cho giữ trọng trách lớn, kể cả ở những chức vụ cao cấp, trọng yếu trong Chính phủ, Quốc hội dưới chế độ Dân chủ cộng hoà, Và đảng viên, cũng có thể là đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo mà cũng có thể là đảng viên thuờng không giữ chức vụ gì trong Đảng, 109 Xây dựng đội ngũ cán bộ ... trong chính quyền hay trong chuyên môn. Những đảng viên ấy chiếm số đông trong Đảng ta. Vậy họ có phải là cán bộ không? Và theo nghĩa nào, trong mối quan hệ nào, với ai? Đây là vấn đề rất quan trọng mà bấy lâu nay, trong nhận thức xã hội, kể cả trong nhận thức của cán bộ đảng viên còn chưa được chú trọng. Cách hiểu “cán bộ” ch̉ là những người giữ chức vụ, có chức, có quyền là một cách hiểu tuy không sai những có phần hạn hẹp, nó ch̉ giới hạn trong lĩnh ṿc lãnh đạo quản lý, tức là trong địa hạt quyền ḷc. Quan niệm này nếu bị tuyệt đối hoá thì sẽ là một khiếm khuyết trong tư duy xã hội và tư duy quản lý, nó có khuynh hướng đẩy tới đặc quyền đặc lợi và sinh ra những chứng bệnh đam mê quyền ḷc, coi quyền ḷc là cứu cánh, để dẫn đến quan liêu xa rời quần chúng, thành ra quan cách và quan dạng, và cũng dễ nảy sinh lạm quyền, lộng quyền gắn với tham nhũng. Hồ Chí Minh không dừng lại ở nghĩa hẹp, nghĩa tṛc tiếp về cán bộ. Người quan niệm cán bộ theo nghĩa rộng, cán bộ đảng viên đều biểu hiện mình trong tư cách là cán bộ của dân, là người lãnh đạo dân, lãnh đạo dân thì phải hiểu dân, tin dân, giáo dục, tuyên truyền vận động dân làm cách mạng, tổ chức ḷc lượng của dân thành phong trào cách mạng để đem lại lợi quyền cho dân chúng, nâng dân chúng lên chứ không theo đuôi dân chúng, không mị dân, không hống hách, nạt nộ dân. Phải đảm bảo dân chủ chứ không biến thành “quan chủ”, là đầy tớ, là người phục vụ dân chứ không lên mặt “quan cách mạng”. Mặt khác, trong quan niệm và tư tuởng Hồ Chí Minh, cán bộ được Người nói tới với tư cách là cán bộ cách mạng, mỗi đảng viên trong quan hệ với dân là một người cán bộ cách mạng vì họ có trọng trách vẻ vang là lãnh đạo dân. Lãnh đạo dân nhưng đồng thời là người đầy tớ, công bộc tận tuỵ của dân, hết lòng vì nhân dân phục vụ, coi phục vụ dân là lý tưởng và lẽ sống, là mục đích cuộc sống của đời mình. Hồ Chí Minh xem điều đó chính là điều quan trọng nhất, là cao thượng nhất. Với qua niệm rộng rãi, mềm dẻo như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ là bộ phận cốt yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, chiến lược cán bộ cũng là nội dung chủ đạo trong chiến lược con người và “trồng người”. Người đặc biệt chú trọng tới mối quan hệ giữa cán bộ với quần chúng nhân dân. Mối quan hệ này là tính hiện tḥc, cụ thể, là sức sống của quan hệ giữa Đảng với dân, giữa Nhà nước với dân, giữa các tổ chức đoàn thể của quần chúng với bản thân quần chúng đoàn viên, hội viên. Mối quan hệ này không ch̉ quyết định chất lượng, hiệu quả của hệ thống chính trị mà còn củng cố sức mạnh cơ sở xã hội của chế độ. Chính điều này chứng tỏ rằng, cán bộ và chất lượng đội ngũ cán bộ quyết định tất cả và ṣ gắn bó không thể tách rời giữa công tác cán bộ với công tác tổ chức. Cán bộ nào thì phong trào ấy, muốn có cán bộ tốt thì phải xây ḍng tổ chức mạnh, tổ chức và cán bộ phải thường xuyên liên hệ mật thiết, gắn bó với dân, nhất là ở cơ sở. Muốn vậy phải đảm bảo dân chủ, phát huy quyền làm chủ của dân. Những điều trình bày trên cho thấy giá trị lý luận và ý nghĩa tḥc tiễn sâu xa của tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ trong mối quan hệ với DÂN và DÂN CHỦ. Quan niệm như đã nêu trên của Hồ Chí Minh là có tầm tư tưởng chiến lược. Ở đây có hai điều cần nhấn mạnh: Ṃt l̀, quan tâm tới cán bộ là quan tâm tới con người. Chính sách cán bộ và phương pháp dùng người của Hồ Chí Minh là nhằm vào mục tiêu của ṣ nghiệp cách mạng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là chĕm lo 110 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật phát huy động ḷc quan trọng nhất, vun trồng cho nhân tố quyết định nhất của ṣ phát triển - động ḷc con người và nhân tố con người. Hai l̀, đòi hỏi rất cao về chất lượng cán bộ, cả đức và tài, mà đức là gốc, cả hồng và chuyên, cả chính trị và chuyên môn, coi “chính trị là linh hồn, chuyên môn là thể xác”, xét về tḥc chất là đòi hỏi ở người cán bộ và đội ngũ cán bộ nói chung phải tḥc ṣ xứng đáng là cán bộ của dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân, coi đó là lẽ sống, lý tưởng sống của mình, là ṣ phục tùng chân lý cao nhất. R̃ ràng là, Người đã đứng trên quan điểm nhân dân, vì dân, tất cả vì quyền làm chủ và hạnh phúc của dân mà đặt ra yêu cầu đối với cán bộ, vạch ra đường lối, chính sách cán bộ, dồn rất nhiều nỗ ḷc và tinh ḷc vào công tác đào tạo, giáo dục, huấn luyện cán bộ . Những tư tưởng nêu trên của Hồ Chí Minh đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó cũng là cơ sở để xây ḍng một chiến lược cán bộ của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. 2. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ Ở NƯỚC TA Trải qua tḥc tiễn đổi mới, đội ngũ cán bộ Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể trong hệ thống chính trị ở nước ta đã có bước trưởng thành r̃ rệt về nhiều phương diện, đã góp phần quan trọng và quyết định vào việc tạo ra những thành ṭu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đổi mới. Chính sách cán bộ của Đảng và Nhà nước cũng có những đổi mới về nhận thức và nội dung, về tổ chức tḥc hiện để tạo động ḷc thúc đẩy đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Có thể khái quát những chuyển biến tích c̣c và thành ṭu đạt được của đội ngũ cán bộ ở nước ta như sau: - Đội ngũ cán bộ đảng viên, công chức nhà nước và cán bộ các đoàn thể trong hệ thống chính trị đã được xây ḍng ngày càng tĕng v̀ ś lượng, đồng bộ hơn về cơ cấu và ngày càng được trẻ hó, được đ̀o ṭo cơ b̉n v̀ tòn dịn. Các chức danh của đội ngũ cán bộ công chức cũng ngày một phong phú. Đội ngũ cán bộ công chức ở nước ta ngày càng được chuyên môn hoá, kết hợp đào tạo và bồi dưỡng để tiến tới tiêu chuẩn hoá theo hướng hiện đại, làm cho vai trò của đội ngũ cán bộ công chức tỷ lệ thuận với vai trò của nhà nước và hệ thống chính trị.Trong tiến trình đổi mới, cán bộ công chức nước ta được rèn luyện trong tḥc tiễn, thay đổi tư duy nhận thức, dần dần thích ứng với kinh tế thị trường, từng bước vươn lên để đáp ứng những đòi hỏi của yêu cầu mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Đảng và Nhà nước có ṣ quan tâm ngày càng đầy đủ, cụ thể và thiết tḥc đối với cán bộ công chức. Các nghị quyết của Đảng về xây ḍng đội ngũ cán bộ và đổi mới chính sách cán bộ, các vĕn bản, đạo luật của nhà nước, đặc biệt là pháp lệnh cán bộ công chức và nghị định của chính phủ đã phát huy tác dụng trong tḥc tế trên các mặt: tĕng cường giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ công chức, nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn, nghiệp vụ, chú trọng bồi dưỡng các kiến thức quản lý nhà nước, kiến thức ngoại ngữ, tin học giúp cho cán bộ có điều kiện và khả nĕng làm tốt các nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó, công tác giáo dục đạo đức, các cuộc vận động học tập và làm theo gương sáng đạo đức Hồ Chí Minh được đẩy mạnh trong phạm vi cả nước, nhất là từ khi Đảng và Nhà nước ban hành quy chế dân chủ ở cơ sở, đã làm cho cán bộ đảng viên, công chức có chuyển biến tốt hơn về ý thức trách nhiệm, về tôn trọng và lắng nghe ý kiến của quần chúng, củng cố mối liên hệ mật thiết với nhân dân, tḥc hiện phương châm công tác gần dân, trọng dân, hiểu dân, tin dân. 111 Xây dựng đội ngũ cán bộ ... - Chủ trương và chính sách luân chuyển cán bộ được tḥc hiện ở trung ương và các địa phương, kể cả ở cấp cơ sở đã góp phần rèn luyện cán bộ trong môi trường tḥc tiễn, giúp cho cán bộ trưởng thành, từ đó mà ḷa chọn, bố trí cán bộ vào các công việc thích hợp, ḷa chọn được những cán bộ tḥc ṣ có đủ phẩm chất và nĕng ḷc để bổ nhiệm, đề bạt vào các cương vị chủ chốt. - Hiện nay, ở nước ta đã hình thành cơ cấu nhìu th́ ḥ trong đội ngũ cán bộ, công chức, từ các cấp các ngành, ở trung ương, địa phương và cơ sở. Bên cạnh lớp cán bộ được đào tạo, rèn luyện và trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và xây ḍng chủ nghĩa xã hội trước đây, một bộ phận được đào tạo, rèn luyện, trưởng thành từ sau giải phóng miền Nam, trong xây ḍng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, nhất là trong tḥc tiễn 30 nĕm đổi mới. Các thế hệ cán bộ ở nước ta đã có ṣ kế thừa và phát triển lẫn nhau, bổ sung cho nhau để phát huy mặt tích c̣c và khắc phục những mặt còn hạn chế. Trong đội ngũ cán bộ ở nước ta, có không ít những gương điển hình về cán bộ đảng viên tận tuỵ và liêm khiết, phát huy được vai trò tiên phong gương mẫu trong công tác và lối sống, được quần chúng nhân dân tín nhiệm. Đánh giá chung về chất lượng đội ngũ cán bộ, Đảng ta đã nhấn mạnh: “Đa số cán bộ đảng viên phát huy được vai trò tiên phong, nĕng động, sáng tạo trong công tác, lao động, rèn luyện phẩm chất, nĕng ḷc, có bước trưởng thành, đóng vai trò nòng cốt trong công cuộc đổi mới, góp phần xứng đáng vào thành quả chung của ṣ nghiệp xây ḍng và bảo vệ tổ quốc”1. Về công tác cán bộ cũng có một số đổi mới về mặt ṇi dung và ćch l̀m. Đã giữ vững và tḥc hiện quan điểm Đảng thống nhất 1 Đảng cộng sản Việt Nam, Vĕn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, H.2005, tr.261. lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, tḥc hiện tốt hơn nguyên tắc tập trung dân chủ, coi trọng hơn việc phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị và người đứng đầu các tổ chức, bước đầu tḥc hiện việc tổ chức cho nhân dân tham gia ý kiến vào công tác cán bộ, nhất là ở cơ sở 22. Tổng kết 30 nĕm đổi mới, Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh tới bài học về cán bộ, công tác tổ chức cán bộ và chính sách cán bộ. Đó là: “Đảng tập trung lãnh đạo về đường lối, chủ trương, xây ḍng tiêu chí, tiêu chuẩn, cơ chế, chính sách về cán bộ, công chức. Đẩy mạnh dân chủ hóa công tác cán bộ”; “Tập trung xây ḍng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ nĕng ḷc và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ. Có cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài 3. Cùng với những chuyển biến tích c̣c và thành ṭu đạt được, chất lượng đội ngũ cán bộ và hiệu quả việc tḥc hiện chính sách cán bộ ở nước ta cũng còn có những hạn chế, yếu kém và bất cập, kể cả những vấn đề phát sinh trong điều kiện kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập, cần phải tập trung giải quyết. Đó là: - Một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp, yếu kém cả về phẩm chất và nĕng ḷc; thiếu tính chiến đấu và tinh thần bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, giảm sút lòng tin, phai nhạt lý tưởng, một số ít có biểu hiện bất mãn, mất lòng tin, nói và làm trái với quan điểm, đường lối của Đảng, vi phạm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, vi phạm pháp luật nhà nước 4. - Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân trong một 2 Đảng cộng sản Việt Nam, Vĕn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, H.2005, tr.267. 3 ĐCSVN: Vĕn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb,CTQG, H.2016, Tr.180, 206-207. 4 Đảng cộng sản Việt Nam, Vĕn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb. CTQG, H.2005, tr .263-264. 112 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật bộ phận cán bộ đảng viên có chiều hướng gia tĕng, vẫn còn tình trạng “chạy chức”, “chạy quyền”, “chạy tội”, “chạy bằng cấp”. Thoái hoá biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài chưa được ngĕn chặn, đẩy lùi làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Đó là một nguy cơ lớn liên quan đến ṣ sống còn của Đảng, của chế độ1 5. - Do tác động mặt trái của kinh tế thị trường, hơn nữa do yếu kém của quản lý và do không thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ đảng viên, công chức mà mấy nĕm gần đây chủ nghĩa cá nhân vụ lợi, vị kỷ đã có chiều hướng gia tĕng, lối sống tôn thờ đồng tiền và các tiện nghi vật chất, hưởng lạc đã ảnh hưởng vào không ít cán bộ, làm vẩn đục các quan hệ xã hội, môi trường xã hội, làm lu mờ các giá trị đạo đức, vĕn hoá, dẫn tới những lệch lạc trong định hướng giá trị. Ṣ thiếu gương mẫu, lối sống buông thả của một số cán bộ, của những người lớn đã làm hư hỏng chính thế hệ trẻ, con em họ trong gia đình. Có nhiều biểu hiện lời nói không đi đôi với việc làm, nói mà không làm, làm không đến nơi đến chốn, thói cơ hội tuỳ thời trong chính trị còn đi liền với thói đạo đức giả, thói giả đạo đức. Đạo đức của cán bộ công chức bị suy giảm còn ảnh hưởng xấu tới đạo đức trong gia đình, nhà trường, cơ quan, xã hội. Từ tḥc trạng nêu trên về chất lượng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ, chúng tôi kiến nghị một số giải pháp sau: Th́ nhất, cần phải tĕng cường gío dục nḥn th́c trong Đ̉ng v̀ trong ćc cơ quan Nh̀ nước, trong ćc đòn th̉ thục ḥ th́ng ch́nh tṛ về tầm quan trọng của công tác cán 5 Đảng cộng sản Việt Nam, Vĕn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb. CTQG, H.2005, tr263-264 bộ, ý nghĩa chiến lược của vấn đề cán bộ và xây ḍng đội ngũ cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ phát triển mới của cách mạng nước ta. Làm cho mọi người nhận thức r̃ vai trò to lớn và có tính chất quyết định của cán bộ trong việc tḥc hiện triển khai các nhiệm vụ của đổi mới, thể hiện tập trung ở tḥc hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Chất lượng nguồn nhân ḷc của nước ta thể hiện trước hết ở chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, từ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt đến cán bộ chuyên môn nghiệp vụ, cán bộ khoa học kỹ thuật. Đội ngũ cán bộ này là nguồn nhân ḷc quan trọng nhất để tḥc hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây ḍng Đảng, nhà nước pháp quyền và đổi mới hệ thống chính trị. Đây cũng chính là ḷc lượng to lớn để gây ḍng và thúc đẩy phong trào cách mạng, đưa đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước tới quần chúng, tổ chức, tập hợp quần chúng tḥc hiện. Trong tình hình hiện nay, việc giáo dục nhận thức cho cán bộ và trong đội ngũ cán bộ ở nước ta phải đặc biệt chú trọng giáo dục về ý thức trách nhiệm đi liền với tôn trọng pháp luật. Nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân trong việc đào tạo, giáo dục cán bộ đặc biệt là trách nhiệm của dân trong việc giám sát cán bộ, công chức về hoạt động, hành vi, lối sống, làm cho đội ngũ cán bộ trong sạch, phòng chống, ngĕn chặn ṣ thoái hoá, sa sút phẩm chất của cán bộ trong điều kiện Đảng cầm quyền và trong nền kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế. Th́ hai, Tḥc h̀nh ṛng rãi dân ch̉ trong Đ̉ng v̀ trong xã ḥi để vừa đảm bảo dân chủ và phát huy quyền làm chủ của dân vừa phát huy khả nĕng sáng tạo, tính tích c̣c, ṭ giác của cán bộ, tạo thành sức mạnh từ mối liên hệ mật thiết giữa cán bộ với quần chúng, nhờ đó mà nâng cao được hiệu quả hoạt động trong 113 Xây dựng đội ngũ cán bộ ... các lĩnh ṿc công tác. Điều thiết tḥc nhất là phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí có hiệu quả. Một khi dân ủng hộ đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, một khi đội ngũ cán bộ được dân tín nhiệm, tin tưởng thì đó là cơ sở chắc chắn nhất đảm bảo cho ổn định và phát triển ở nước ta, cho thắng lợi của đổi mới. Th́ ba, Tḥc h̀nh đ̣o đ́c ćch ṃng theo gương sáng Hồ Chí Minh trong đông đảo cán bộ đảng viên công chức và quần chúng nhân dân. Đây phải là việc làm thường xuyên, lâu d̀i, chú trong tḥc chất, hiệu quả, tác dụng, chống hình thức, phô trương, nhất là phải chú trọng vào việc làm, vào hành động tḥc tế chứ không phải lời nói. Tḥc hành đạo đức cách mạng theo gương sáng Hồ Chí Minh là một trong những biện pháp quan trọng làm cho Đảng trong sạch, nhà nước có hiệu ḷc trong quản lý, góp phần chấn hưng nền đạo đức xã hội đang suy thoái. Tḥc hành đạo đức cách mạng theo gương sáng Hồ Chí Minh thì sẽ tạo được sức mạnh đạo đức, tinh thần cho cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng có hiệu quả, Do đó, phải chú trọng nội dung công tác xây ḍng Đảng không ch̉ là chính trị, tư tưởng, tổ chức mà còn là đạo đức, lối sống. Phải đề cao đạo đức công chức, gắn liền với kỷ lụt công vụ trong các cơ quan nhà nước. Tận dụng mọi phương tiện thông tin đại chúng, khai thác những hình thức tuyên truyền, vận động, giáo dục đa dạng, phong phú, có tác dụng nâng cao nhận thức, bồi dưỡng tình cảm, niềm tin và thúc đẩy hành động đối với đông đảo cán bộ đảng viên và quần chúng. Đây là cuộc vận động chính trị - xã hội rộng lớn và giáo dục vĕn hoá sâu sắc trong Đảng, trong dân. Th́ tư, Đẩy mạnh học tập, bồi dưỡng và nâng cao nĕng ḷc cho cán bộ đảng viên công chức trong tình hình hiện nay, khi kinh tế tri thức, xã hội học tập đang đặt ra những yêu cầu ngày một cao. Muốn vậy phải đẩy mạnh cải cách giáo dục, hiện đại hoá nội dung và đổi mới phương pháp giáo dục, chú trọng nâng cao nĕng ḷc, trình độ tư duy để phát triển trí tuệ, đề cao tính sáng tạo, hình thành nhu cầu ṭ học, ṭ đào tạo để ṭ vươn lên. Phải chú trọng tḥc chất, hiệu quả, chống hình thức, giả dối, nhất là tình trạng thương mại hoá giáo dục hiện nay. Th́ nĕm, Tận dụng nguồn nhân ḷc cán bộ hiện có, chú trọng đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kế cận; phát huy nhiệt tình khả nĕng, ṣ cống hiến của mọi cán bộ, trong Đảng và ngoài Đảng, cán bộ lãnh đạo quản lý và cán bộ khoa học - kỹ thuật, chú trọng sử dụng, tin cậy, tôn vinh và đãi ngộ xứng đáng những nhân tài, hiền tài của đất nước. Đặc biệt chú trọng tới đội ngũ cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số, tính cân đối hợp lý của phân bố ḷc lượng cán bộ ở các vùng, miền, các cấp, các ngành đảm bảo đủ nhân ḷc cho phát triển toàn diện kinh tế - vĕn hoá trong cả nước. 3. KẾT LUẬN Sau 30 nĕm đổi mới, Đảng và nhân dân ta đã giành được những thành ṭu to lớn về nhiều mặt, có ý nghĩa lịch sử. Thế và ḷc của cách mạng nước ta đã có những bước phát triển mới. Trong mỗi bước đường tiến lên của cách mạng, cán bộ có vai trò vô cùng to lớn và quan trọng. Ngày nay, khi đi vào đổi mới, phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhiệm vụ mới, yêu cầu mới đang đặt ra cho đội ngũ cán bộ đảng viên, công chức ở nước ta những thử thách mới phải vượt qua, phải đủ sức tḥc hiện những nhiệm vụ khó khĕn, phức tạp, mởi mẻ để đưa nước ta trở thành một nước vĕn minh, hiện đại. Vận dụng 114 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, quyết tâm xây ḍng một đội ngũ cán bộ đủ đức, đủ tài, đủ sức đánh bại chủ nghĩa cá nhân, làm đầy tớ, công bộc trung thành, tận tuỵ của dân - đó là nhân tố cơ bản đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng nước ta. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Hồ Chí Minh, Tòn ṭp, 12Tập, Nxb. CTQG, H.1995, 1996, 2000 [2]. Nguyễn Thế Kiệt (chủ biên): Đạo đức người cán ḅ lãnh đ̣o ch́nh tṛ hịn nay. Nxb. CTQG, H.2005 [3]. Trần Thành (chủ biên): Tư duy lý lụn với họt đ̣ng c̉a người ćn ḅ lãnh đ̣o, ch̉ đ̣o tḥc tiễn. Nxb. CTQG, H.2003. [4]. Vĕn kịn Đ̣i ḥi Đ̉ng l̀n th́ X. Nxb. CTQG, H.2006 [5]. Vĕn kịn Đ̣i ḥi Đ̉ng l̀n th́ XII. Nxb. CTQG, H.2016.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf25_7694_2136160.pdf