Xây dựng bài tập ở các học phần chuyên môn sư phạm nhằm phát triển năng lực sư phạm cho sinh viên ngành Sư phạm kỹ thuật nông nghiệp, Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh

Tài liệu Xây dựng bài tập ở các học phần chuyên môn sư phạm nhằm phát triển năng lực sư phạm cho sinh viên ngành Sư phạm kỹ thuật nông nghiệp, Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 32 (57) - Thaùng 9/2017 118 Xây dựng bài tập ở các học phần chuyên môn sư phạm nhằm phát triển năng lực sư phạm cho sinh viên ngành Sư phạm kỹ thuật nông nghiệp, Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh Designing exercises in the pedagogical modules to develop the Pedagogical Competency of students at Ho Chi Minh City Agriculture and Sylvicultyre University ThS. Phạm Quỳnh Trang, Trường Đại học Nông Lâm TP.HCM Pham Quynh Trang, M.A., Ho Chi Minh City Agriculture and Sylvicultyre University Tóm tắt Phát triển năng lực sư phạm cho sinh viên là một nhiệm vụ quan trọng của công tác đào tạo giáo viên. Một trong những phương pháp giúp nâng cao hiệu quả của hoạt động này là sử dụng bài tập trong các học phần chuyên môn sư phạm. Hoạt động giải quyết bài tập ở các học phần chuyên môn sư phạm không chỉ giúp sinh viên nắm vững kiến thức lý luận mà còn giúp sinh viên phát triển các năng lực sư phạm, đồng thời nâng cao tìn...

pdf12 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 359 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng bài tập ở các học phần chuyên môn sư phạm nhằm phát triển năng lực sư phạm cho sinh viên ngành Sư phạm kỹ thuật nông nghiệp, Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 32 (57) - Thaùng 9/2017 118 Xây dựng bài tập ở các học phần chuyên môn sư phạm nhằm phát triển năng lực sư phạm cho sinh viên ngành Sư phạm kỹ thuật nông nghiệp, Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh Designing exercises in the pedagogical modules to develop the Pedagogical Competency of students at Ho Chi Minh City Agriculture and Sylvicultyre University ThS. Phạm Quỳnh Trang, Trường Đại học Nông Lâm TP.HCM Pham Quynh Trang, M.A., Ho Chi Minh City Agriculture and Sylvicultyre University Tóm tắt Phát triển năng lực sư phạm cho sinh viên là một nhiệm vụ quan trọng của công tác đào tạo giáo viên. Một trong những phương pháp giúp nâng cao hiệu quả của hoạt động này là sử dụng bài tập trong các học phần chuyên môn sư phạm. Hoạt động giải quyết bài tập ở các học phần chuyên môn sư phạm không chỉ giúp sinh viên nắm vững kiến thức lý luận mà còn giúp sinh viên phát triển các năng lực sư phạm, đồng thời nâng cao tình cảm đối với nghề nghiệp tương lai. Bài viết này trình bày những cơ sở lý thuyết và thực tiễn của việc xây dựng bài tập phát triển năng lực sư phạm ở các học phần chuyên môn sư phạm cho sinh viên ngành Sư phạm Kỹ thuật Nông nghiệp, đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh. Từ khóa: bài tập, năng lực sư phạm, học phần chuyên môn sư phạm. Abstract Developing pedagogical competency for students is an important task of teacher training. One of the ways to improve the efficiency of this activity is to use exercises in the pedagogical subjects. Solving- problem exercises in the pedagogical subjects help students not only master their theoretical knowledge but also develop their pedagogical abilities and enhance their feelings for future careers. This article focuses on the theoretical and practical basis for the design of exercises in the pedagogical modules in order to develop the pedagogical competency of students majoring Education of Agricultural Technology at Nong Lam University, Ho Chi Minh city. Keywords: exercises, pedagogical competency, pedagogical subjects. 1. Đặt vấn đề Công tác rèn luyện năng lực sư phạm cho sinh viên các trường đại học có đào tạo giáo viên hiện nay cần đổi mới theo hướng phát triển năng lực nghề nghiệp. Một trong những giải pháp để thực hiện được định hướng trên là thiết kế và sử dụng các bài tập phù hợp với nội dung từng học phần PHẠM QUỲNH TRANG 119 chuyên môn sư phạm như (Tâm lý học; Giáo dục học; Phương pháp dạy học; Phân tích chương trình môn học; Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học) được cho là quan trọng và hiệu quả. Tuy nhiên, hiện nay tại Bộ môn Sư phạm Kỹ thuật Nông nghiệp – Trường Đại học Nông Lâm TP.HCM, hoạt động rèn luyện năng lực sư phạm thông qua việc giải quyết nhiệm vụ học tập từ các bài tập của sinh viên chưa được tiến hành thường xuyên, thiếu tính hệ thống, và các bài tập chưa được xây dựng trên một cơ sở khoa học rõ ràng. Vì vậy, việc nghiên cứu thiết kế bài tập ở các học phần chuyên môn sư phạm nhằm phát triển năng lực sư phạm cho sinh viên ngành Sư phạm Kỹ thuật Nông nghiệp là một việc làm vô cùng cần thiết. 2. Thực trạng của hệ thống bài tập các học phần chuyên môn sư phạm Bộ môn Sư phạm Kỹ thuật Nông nghiệp, trường Đại học Nông Lâm TP.HCM được thành lập từ năm 2002 với mục tiêu đào tạo: Cử nhân Sư phạm Kỹ thuật Nông nghiệp hệ chính quy. Để thực hiện được mục tiêu đào tạo này thì sinh viên ngành Sư phạm Kỹ thuật Nông nghiệp được trang bị kiến thức và kỹ năng của 2 lĩnh vực, đó là: lĩnh vực khoa học Nông nghiệp và lĩnh vực khoa học Giáo dục. Nhiệm vụ của các học phần chuyên môn thuộc lĩnh vực khoa học Giáo dục là rèn luyện cho sinh viên những năng lực dạy học và giáo dục cơ bản, cần thiết để sinh viên sau khi tốt nghiệp có thể đáp ứng thực tiễn giảng dạy môn Công nghệ ở trường phổ thông. Sau đây là thực trạng về việc xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập trong các học phần chuyên môn Sư phạm của Bộ môn Sư phạm Kỹ thuật Nông Nghiệp. Chúng tôi tiến hành chọn mẫu điều tra là 5 giảng viên của bộ môn Sư phạm Kỹ thuật Nông nghiệp và 182 sinh viên của 2 lớp DH13SP và DH14SP. Phương pháp khảo sát chủ yếu là sử dụng bảng hỏi với hệ thống các câu hỏi kín, đáp án trả lời gồm 5 mức độ lựa chọn, ứng với điểm từ 5 đến 1, trong đó khách thể nghiên cứu chỉ có một lựa chọn duy nhất. 2.1. Thực trạng các dạng bài tập được giảng viên thiết kế và sử dụng để phát triển năng lực sư phạm cho sinh viên (5 - Rất thường xuyên; 4 - Thường xuyên; 3 - Thỉnh thoảng; 2 - Ít khi; 1- Không bao giờ). Bảng 1: Mức độ thiết kế và sử dụng các dạng bài tập TT Các loại bài tập Mức độ (số lượng) 5 4 3 2 1 1 Bài tập tái hiện 0 2 2 1 0 2 Bài tập vận dụng 0 3 2 0 0 3 Bài tập giải quyết vấn đề 0 1 2 2 0 4 Bài tập gắn với bối cảnh, tình huống thực tiễn 0 0 2 3 0 Nguồn: Thống kê của người nghiên cứu XÂY DỰNG BÀI TẬP Ở CÁC HỌC PHẦN CHUYÊN MÔN SƯ PHẠM NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC 120 Nhìn vào bảng thống kê ở trên cho ta thấy, dạng bài tập mà các giảng viên thường xuyên thiết kế và sử dụng hơn cả là dạng bài tập vận dụng. Đây cũng là một tín hiệu đáng mừng vì việc giảng viên sử dụng bài tập ở cấp độ vận dụng sẽ tạo cho sinh viên có nhiều cơ hội được vận dụng những kiến thức, kỹ năng đã học, qua đó tránh được sự rập khuôn, máy móc và tăng cường tính đa dạng, phong phú. Cũng qua bảng trên ta thấy, dạng bài tập thứ 3 và thứ 4 có số lượng giảng viên thiết kế và sử dụng không nhiều, mặc dù đây là dạng bài tập có tác dụng rất lớn trong việc hình thành và phát triển năng lực nghề nghiệp của sinh viên. Lý do có thể kể ra đây là: để thiết kế được dạng bài tập này đòi hỏi giảng viên là những người có kiến thức chuyên môn sâu rộng và kinh nghiệm thực tiễn nhiều. Mặt khác, để giải quyết dạng bài tập này đòi hỏi sinh viên cũng phải có sự hiểu biết về lý thuyết, thực tiễn giáo dục nhất định và ngoài ra còn phải có kỹ năng giải bài tập nữa. Một số giảng viên khi được hỏi lý do đã cho biết: việc sử dụng các tình huống gắn với thực tiễn giáo dục phổ thông vẫn rất khiêm tốn vì thực tế là kinh nghiệm thực tiễn giáo dục của chính bản thân các giảng viên vẫn còn hạn chế và việc thu thập những tình huống này cũng còn tương đối khó khăn. 2.2. Thực trạng khó khăn mà giảng viên gặp phải khi xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập trong các học phần chuyên môn sư phạm (5- Rất đồng ý; 4 – Đồng ý; 3 – Phân vân; 4 – Không đồng ý; 1 – Rất không đồng ý). Bảng 2: Những khó khăn mà giảng viên gặp phải khi xây dựng và sử dụng bài tập TT Những khó khăn mà giảng viên gặp phải Mức độ (số lượng) 5 4 3 2 1 1 Thiếu thời gian nên ảnh hưởng đến tiến trình dạy học 0 2 1 2 0 2 Một số nội dung môn học trừu tượng nên khó thiết kế bài tập 0 2 1 2 0 3 Nguồn tài liệu để thiết kế và giải bài tập hạn chế 1 3 1 0 0 4 Hiểu biết thực tiễn giáo dục của sinh viên còn hạn chế 2 2 1 0 0 5 Nhiều sinh viên còn chưa tích cực, chủ động trong việc giải quyết bài tập 0 2 2 1 0 6 Kỹ năng giải bài tập của sinh viên còn hạn chế 0 3 2 0 0 7 Tốn thời gian và công sức của giảng viên 4 1 0 0 0 8 Khó khăn khác (kinh phí, cơ sở vật chất) 3 2 0 0 0 Nguồn: Thống kê của người nghiên cứu Số liệu ở bảng trên cho thấy, việc xây dựng và sử dụng bài tập trong các học phần chuyên môn sư phạm cũng gặp không ít khó khăn. Khó khăn mà các giảng viên của bộ môn Sư phạm Kỹ thuật Nông nghiệp đồng tình với số lượng cao nhất là “Tốn thời gian và công sức của giảng viên. Sau đó là tới khó khăn “Khó khăn khác (kinh PHẠM QUỲNH TRANG 121 phí, cơ sở vật chất)”; tiếp theo là khó khăn “Hiểu biết thực tiễn giáo dục của sinh viên còn hạn chế”và “Kỹ năng giải bài tập của sinh viên còn hạn chế”. Như vậy, qua kết quả này có thể khẳng định: để xây dựng bài tập trong các học phần chuyên môn sư phạm đòi hỏi giảng viên phải dành rất nhiều thời gian, công sức, kinh phí và một số yếu tố liên quan đến cơ sở vật chất của nhà trường để có thể thực hiện được. Vì vậy, việc nghiên cứu xây dựng bài tập trong các học phần chuyên môn sư phạm nhằm góp phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển năng lực sư phạm cho sinh viên là một viêc làm hết sức cần thiết. 2.3. Thực trạng khó khăn mà sinh viên gặp phải trong quá trình giải quyết các bài tập (5- Rất đồng ý; 4 – Đồng ý; 3 – Phân vân; 4 – Không đồng ý; 1 – Rất không đồng ý). Bảng 3: Những khó khăn mà sinh viên gặp phải trong quá trình giải quyết bài tập Khó khăn mà sinh viên gặp phải khi trong quá trình giải quyết bài tập Mức độ (số lượng) X 5 4 3 2 1 Hiểu biết về thực tiễn giáo dục hạn chế 39 131 12 0 0 4,15 Kỹ năng giải quyết bài tập còn hạn chế 13 90 65 14 0 3,17 Kiến thức lý thuyết môn học trừu tượng, khó hiểu 31 119 22 10 0 3,72 Nguồn tài liệu hỗ trợ giải quyết bài tập còn hạn chế 48 107 27 0 0 4,21 Thiếu thời gian làm bài tập 42 61 63 16 0 4,03 Tính tích cực, chủ động chưa cao 0 31 82 63 6 2,75 Khả năng làm việc nhóm, hợp tác chưa tốt 0 25 65 86 6 2,6 Cách tổ chức giải quyết bài tập của giáo viên chưa tích cực, hấp dẫn 0 12 53 107 10 2,36 Nguồn: Thống kê của người nghiên cứu Cùng với những khó khăn của giảng viên, chúng tôi tiến hành tìm hiểu những khó khăn mà sinh viên gặp phải khi hoạt động với bài tập. Kết quả từ bảng số liệu trên cho chúng ta thấy: Khi được giảng viên giao cho giải quyết những bài tập trong các học phần chuyên môn sư phạm thì sinh viên cũng gặp khá nhiều khó khăn, trong đó phải kể đến những khó khăn sau: “Nguồn tài liệu hỗ trợ giải quyết bài tập còn hạn chế” với X= 4,21; “Hiểu biết về thực tiễn giáo dục còn hạn chế”với X= 4,15; “Thiếu thời gian làm bài tập” với X= 4,03; “Kiến thức lý thuyết môn học trừu tượng, khó” với X= 3,72. Nói chung, những khó khăn này chủ yếu mang tính khách quan, cho nên hiệu quả của việc sử dụng bài tập trong các học phần chuyên môn sư phạm sẽ phụ thuộc khá nhiều vào cách tổ chức và hỗ trợ của giảng viên. 2.4. Đánh giá của giảng viên và sinh viên về mức độ hiệu quả sử dụng bài tập trong các học phần chuyên môn sư phạm (5 – Rất cao; 4 – Cao; 3 – Trung bình; 2: Thấp; 1: Rất thấp) XÂY DỰNG BÀI TẬP Ở CÁC HỌC PHẦN CHUYÊN MÔN SƯ PHẠM NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC 122 Bảng 4: Hiệu quả sử dụng bài tập trong các học phần chuyên môn sư phạm Yếu tố đánh giá Mức độ hiệu quả 5 4 3 2 1 X GV SV GV SV GV SV GV SV GV SV SV Hoạt động lĩnh hội kiến thức của sinh viên 1 26 4 119 0 25 0 12 0 0 3,95 Thái độ, hứng thú của sinh viên trong học tập 0 38 4 121 1 20 0 3 0 0 4,06 Hoạt động rèn luyện các kỹ năng sư phạm cơ bản 0 4 2 21 2 116 1 39 0 2 2,92 Hình thành kỹ năng tư duy, giải quyết vấn đề, hợp tác 0 4 2 35 2 128 1 12 0 3 3,13 Gắn lý thuyết với thực tiễn giáo dục 0 0 1 8 2 108 2 60 0 6 2,64 Tính chủ động, tích cực, sáng tạo 0 13 2 125 3 31 0 13 0 0 3,62 Nguồn: Thống kê của người nghiên cứu Nhìn vào bảng trên ta thấy, theo ý kiến đánh giá của giảng viên: mức độ hiệu quả được đánh giá ở mức cao nhất là yếu tố:” Hoạt động lĩnh hội kiến thức của sinh viên”; tiếp theo là tới “Thái độ, hứng thú của sinh viên trong học tập”; Yếu tố được đánh giá có mức độ hiệu quả thấp nhất là “Gắn lý thuyết với thực tiễn giáo dục”. Từ đánh giá của sinh viên, chúng tôi thu được kết quả về mức độ hiệu quả như sau: Thái độ, hứng thú của sinh viên trong học tập với X= 4,06; Hoạt động lĩnh hội kiến thức của SV với X= 3,95; Tính chủ động, tích cực, sáng tạo với X= 3,62; Hình thành kỹ năng tư duy, giải quyết vấn đề, hợp tác với X= 3,13; Hoạt động rèn luyện các kỹ năng sư phạm cơ bản với X= 2,92 và Gắn lý thuyết với thực tiễn giáo dục với X= 2,62. Như vậy, từ số liệu trên ta thấy, ý kiến đánh giá của giảng viên và sinh viên có một số điểm tương đối thống nhất, đó là việc giáo viên tổ chức cho sinh viên sử dụng bài tập trong các học phần chuyên môn sư phạm đã đem lại hiệu quả cao ở một số mặt như: giúp sinh viên lĩnh hội kiến thức môn học tốt hơn, làm tăng hứng thú, tính tích cực. Tuy nhiên, thực tế việc sử dụng bài tập nhằm rèn luyện các năng lực sư phạm cơ bản hay gắn lý thuyết với thực tiễn giáo dục vẫn chưa đem lại hiệu quả như mong muốn. 3. Cơ sở lý thuyết về thiết kế bài tập phát triển năng lực sư phạm ở các học phần chuyên môn sư phạm 3.1. Cơ sở lý thuyết về phát triển năng lực sư phạm cho sinh viên 3.1.1. Khái niệm về năng lực sư phạm Năng lực sư phạm là một năng lực chuyên biệt đặc trưng của nghề dạy học nói chung. Trên cơ sở những quan điểm về năng lực khác nhau dẫn tới những quan điểm về năng lực sư phạm cũng khác nhau, như: PHẠM QUỲNH TRANG 123 Theo Phạm Minh Hạc: “Năng lực sư phạm là tổ hợp những đặc điểm tâm lý của nhân cách nhằm đáp ứng các yêu cầu của hoạt động sư phạm và quyết định sự thành công của hoạt động ấy”. (Trích dẫn bởi Trương Đại Đức - 2011). Theo Nguyễn Đức Vũ (2012): “Năng lực sư phạm là khả năng của giáo viên thực hiện có kết quả các hoạt động dạy học và giáo dục nhằm đạt được các mục tiêu đề ra”. Theo Nguyễn Thị Tình (2016): “Năng lực sư phạm là sự thực hiện có hiệu quả và có trách nhiệm các hành động, giải quyết các nhiệm vụ, vấn đề thuộc lĩnh vực nghề sư phạm (dạy học và giáo dục) trong những tình huống khác nhau trên cơ sở hiểu biết, kỹ năng, kỹ xảo và kinh nghiệm cũng như sự sẵn sàng hành động Nói tóm lại: chúng tôi đồng tình với quan điểm của tác giả Nguyễn Văn Y (2017) cho rằng: Năng lực sư phạm là năng lực người giáo viên thực hiện hiệu quả hoạt động dạy học, giáo dục học sinh được tạo bởi ba thành tố cơ bản là thái độ, kiến thức và kỹ năng sư phạm. 3.1.2. Hoạt động rèn luyện năng lực sư phạm cho sinh viên ở các trường sư phạm Trong năng lực nghề nghiệp của giáo viên, ngoài trình độ kiến thức khoa học chuyên ngành, cần có hệ thống năng lực sư phạm. Năng lực sư phạm là những thuộc tính riêng của người làm nghề dạy học và giáo dục nói chung, nó vừa là điều kiện để giáo viên thực hiện có hiệu quả việc dạy học và giáo dục, đồng thời là hình tượng quan trọng tác động đến việc hình thành và phát triển nhân cách người học. Các nhà tâm lý học đã chứng minh, năng lực của mỗi cá nhân không chỉ là bẩm sinh mà chủ yếu nó được hình thành và phát triển trong quá trình con người hoạt động và giao lưu. Do đó, nhiều nhà nghiên cứu Giáo dục học đã khẳng định: năng lực sư phạm của giáo viên không chỉ được cấu thành từ yếu tố bẩm sinh di truyền mà chủ yếu được hình thành và phát triển trong quá trình học tập, rèn luyện và thực tiễn hoạt động nghề nghiệp sư phạm của giáo viên. Những năng lực sư phạm nếu không được tổ chức rèn luyện thích hợp, cùng với sự nỗ lực rèn luyện thì năng lực sư phạm có thể bị thui chột hoặc chậm phát triển. Vì vậy, việc hình thành và phát triển năng lực cho sinh viên vừa là mục tiêu trọng yếu, vừa là cái đích của quá trình đào tạo giáo viên. Công tác rèn luyện năng lực sư phạm cho sinh viên không chỉ có nhiệm vụ trang bị cho sinh viên hệ thống năng lực sư phạm vững vàng mà còn giáo dục họ lòng yêu nghề, say mê lao động, tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. (Nguyễn Thị Thế Bình, 2016). Hiện nay, công tác đào tạo năng lực sư phạm cho sinh viên ở các cơ sở đào tạo giáo viên thường gồm hai giai đoạn: - Giai đoạn 1: Trang bị cho sinh viên hệ thống tri thức khoa học cơ bản về chuyên ngành khoa học Giáo dục thông qua các môn học nghiệp vụ sư phạm. - Giai đoạn 2: Tổ chức cho sinh viên vận dụng những kiến thức, kỹ năng đã học vào các hoạt động thực tiễn dạy học và giáo dục thông qua các hoạt động như: Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm; kiến tập và thực tập sư phạm. Mỗi giai đoạn trên đều có một vị trí, vai trò nhất định nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ nhau trong quá trình đào tạo năng lực sư phạm cho sinh viên. Giai đoạn 1 được xem là cơ sở, nền tảng, có tính chất định hướng cho nghề nghiệp. Giai đoạn 2 giúp sinh viên hình thành những phẩm chất và năng lực sư phạm một cách tổng hợp, từng bước vươn lên trở thành người giáo viên. XÂY DỰNG BÀI TẬP Ở CÁC HỌC PHẦN CHUYÊN MÔN SƯ PHẠM NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC 124 Tại trường Đại học Nông Lâm TP.HCM, trong giai đoạn 1 của chương trình đào tạo ngành Sư phạm Kỹ thuật Nông nghiệp, sinh viên được học các môn thuộc khối kiến thức nghiệp vụ sư phạm như: Tâm lý học, Giáo dục học, tâm lý học lứa tuổi và sư phạm, Lý luận dạy học, Nghiên cứu khoa học giáo dục, Đo lường và đánh giá trong giáo dục, Ứng dụng Công nghệ thông tin trong dạy học, Công nghệ dạy học, Phương pháp dạy học kỹ thuật nông nghiệp, Tập giảng dạy môn Kỹ thuật nông nghiệp, Phân tích chương trình môn Công nghệ 10. Các môn học này thể hiện trực tiếp đặc trưng nghề nghiệp, đặt cơ sở quan trọng về mặt nghiệp vụ cho việc đào tạo giáo viên, trang bị cho sinh viên những lý luận cơ bản, hiện đại về hoạt động dạy học và giáo dục, hình thành cho sinh viên những năng lực sư phạm cơ bản để sau khi ra trường họ có thể tiến hành tốt các hoạt động dạy học và giáo dục ở trường phổ thông, thích ứng với những yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn giáo dục Việt Nam. 3.1.3. Định hướng công tác rèn luyện năng lực sư phạm cho sinh viên ở các trường cơ sở đào tạo giáo viên Phát triển năng lực công dân và năng lực học tập được coi là chiến lược phát triển con người, phát triển giáo dục và đào tạo của các quốc gia trên toàn thế giới và Việt Nam chúng ta không phải là ngoại lệ. Ngày 13/12/2014, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT đã phê duyệt Chương trình “Phát triển ngành Sư phạm và các trường sư phạm từ năm 2011 đến năm 2020” khẳng định: Hoạt động đào tạo năng lực nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên trong các trường đại học sư phạm và các cơ sở có đào tạo giáo viên theo hướng tiếp cận phát triển năng lực nghề nghiệp là một khâu then chốt. Làm rõ hơn định hướng này, tác giả Đinh Quang Báo (2017) đã chỉ ra rằng: Mục tiêu đào tạo giáo viên là để xây dựng ở người học năng lực thực hiện các hoạt động cơ bản trong thực tiễn nghề nghiệp chứ không phải những kiến thức, kỹ năng và thái độ một cách cụ thể, riêng biệt. Quan trọng hơn chính là ở điều kiện để học huy động một cách tổng hợp, linh hoạt những kiến thức, kỹ năng và thái độ đã được trang bị vào giải quyết những tình huống thực trong bối cảnh cụ thể. Nói tóm lại, công tác rèn luyện năng lực sư phạm cho sinh viên các trường sư phạm hiện nay cần đổi mới theo hướng phát triển năng lực nghề nghiệp gắn với thực tiễn giáo dục. Một trong những giải pháp để thực hiện được định hướng trên là: đào tạo bằng phương thức tích hợp. Biện pháp tổ chức đào tạo tích hợp rất đa dạng, phong phú; trong đó việc thiết kế các bài tập phù hợp với nội dung từng tín chỉ, từng học phần, từng mô đun là quan trọng và hiệu quả nhất (Đinh Quang Báo, 2017). Như vậy, việc sử dụng bài tập trong học phần chuyên môn sư phạm nhằm hình thành và phát triển năng lực sư phạm cho sinh viên ngành sư phạm là một hướng đi hiệu quả và phù hợp với xu thế đào tạo giáo viên theo năng lực hiện nay. 3.2. Cơ sở lý thuyết về thiết kế bài tập 3.2.1. Khái niệm bài tập Bài tập là một thành tố quan trọng của quá trình dạy học. Bài tập là phương tiện để giáo viên tiến hành hoạt động dạy và người học tiến hành hoạt động học. Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về bài tập như: Tác giả Thái Duy Tuyên (2007) cho rằng: Bài tập là một hệ thống thông tin xác định, bao gồm hai tập hợp gắn bó chặt chẽ và tác động qua lại với nhau đó là: những điều kiện và những yêu cầu. Theo Nguyễn Thị Kim Liên (2011): PHẠM QUỲNH TRANG 125 Bài tập là những nhiệm vụ GV đặt ra cho SV thực hiện, được trình bày dưới dạng câu hỏi hoặc yêu cầu hoạt động, tạo điều kiện cho SV luyện tập nhằm nhận thức, củng cố, đào sâu hệ thống tri thức đã học, vận dụng vào thực tiễn và rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo và phẩm chất nhân cách nghề nghiệp. Như vậy, có thể hiểu bài tập là các vấn đề, câu hỏi, tình huốngchứa đựng mâu thuẫn cần giải quyết thông qua việc vận dụng kiến thức, kỹ năng đã học được (Đinh Quang Báo, 2017). 3.2.2. Các loại bài tập trong dạy học Trong nghiên cứu này, chúng tôi lựa chọn cách phân chia của tác giả Bernd Meier - Nguyễn Văn Cường (2016), dựa trên các bậc nhận thức và chú ý đến đặc điểm của học tập định hướng năng lực, gồm các dạng bài tập như sau: - Bài tập tái hiện: yêu cầu sự hiểu và tái hiện tri thức. Sau đây là ví dụ về dạng bài tập tái hiện mà chúng tôi đã nghiên cứu thiết kế ở học phần Giáo dục học: Anh, chị hãy quan sát và phân biệt hiện tượng Mèo dạy con bắt chuột và Chị dạy em “chào bà”, từ đó rút ra kết luận sư phạm qua hai hiện tượng này? Mục tiêu của bài tập này nhằm rèn luyện cho sinh viên khả năng phân biệt được hiện tượng giáo dục của loài người với hiện tượng mang tính chất bản năng ở loài vật. Để giải quyết bài tập này sinh viên chỉ cần tái hiện lại những kiến thức liên quan đến bản chất của hoạt động giáo dục của con người, từ đó tìm ra điểm khác biệt mang tính bản chất của hai hiện tượng trên. - Bài tập vận dụng: Các bài tập ở dạng này đòi hỏi người học vận dụng những kiến thức trong tình huống không thay đổi. Các bài tập này nhằm củng cố kiến thức và rèn luyện kỹ năng cơ bản, chưa đòi hỏi sự sáng tạo. Ví dụ về dạng bài tập vận dụng ở học phần Ứng dụng Công nghệ thông tin trong dạy học: “Anh, chị hãy sử dụng phần mềm Powerpoint để thiết kế bài giảng điện tử cho một bài học bất kỳ trong SGK Công nghệ 10”. Mục tiêu của bài tập này nhằm rèn luyện cho sinh viên kỹ năng sử dụng các phần mềm dạy học vào trong hoạt động soạn giáo án. Để giải quyết bài tập bài tập này, sinh viên sẽ vận dụng những kiến thức về phần mềm Powerpoint và những kiến thức liên quan khác để thiết kế được bài giảng điện tử có tính thẩm mỹ, khoa học và có tính tương tác cao. - Bài tập giải quyết vấn đề: Các bài tập này đòi hỏi sự phân tích, tổng hợp, đánh giá, vận dụng kiến thức vào những tình huống thay đổi, giải quyết vấn đề. Dạng bài tập này yêu cầu sự sáng tạo của người học. Ví dụ ở học phần Phương pháp dạy học Kỹ thuật Nông nghiệp là bài tập: Sau khi xem xong đoạn băng giờ giảng của một giáo viên dạy môn Công nghệ 10, sinh viên lớp DH14SP đã phân chia làm 2 nhóm, họ tranh luận với nhau về phương pháp dạy học chủ yếu mà giáo viên sử dụng trong bài giảng đó. Môt nhóm cho rằng giáo viên đó đã sử dụng phương pháp Thảo luận nhóm, nhóm còn lại thì cho rằng đó là phương pháp Giải quyết vấn đề. Anh, chị hãy xem lại đoạn băng bài giảng và xác định chính xác phương pháp dạy học mà giáo viên sử dụng? Theo anh, chị: phương pháp dạy học mà giáo viên sử dụng có phù hợp và hiệu quả không? Tại sao? Nếu không thì hãy đề xuất cách khắc phục hoặc lựa chọn PPDH khác phù hợp hơn? Mục tiêu của bài tập này nhằm rèn luyện kỹ năng nhận diện, lựa chọn phương pháp dạy học. Để giải quyết bài tập này, trước hết sinh viên phải dựa vào XÂY DỰNG BÀI TẬP Ở CÁC HỌC PHẦN CHUYÊN MÔN SƯ PHẠM NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC 126 các lý thuyết liên quan đến: đặc điểm của mỗi phương pháp dạy học, cơ sở lựa chọn phương pháp dạy học và các tiêu chí sử dụng phương pháp dạy học hiệu quả, từ đó vận dụng để gọi tên chính xác phương pháp dạy học chủ yếu mà giáo viên sử dụng trong đoạn băng, đồng thời phân tích, đánh giá xem phương pháp dạy học đó có phù hợp và hiệu quả hay không? Nếu không thì sinh viên phải để xuất cách khắc phục hoặc phải lựa chọn và sử dụng phương pháp day học khác phù hợp hơn. Đến đây tính sáng tạo của sinh viên sẽ thể hiện. - Bài tập gắn với bối cảnh, tình huống thực tiễn: Các bài tập này cần chú ý gắn vấn đề với các bối cảnh và tình huống thực tiễn. Những bài tập này là những bài tập mở, tạo cơ hội cho nhiều cách tiếp cận, nhiều con đường giải quyết khác nhau. Ví dụ về bài tập gắn với bối cảnh, tình huống thực tiễn ở học phần Phân tích chương trình môn học: “Giả sử anh, chị được phân công giảng dạy tại một trường THPT thuộc khu vực nông thôn có môi trường học tập và sinh sống gắn liền với hoạt động sản xuất nông nghiệp. Anh chị hãy xây dựng mục tiêu cụ thể cho các chương thuộc phần Nông lâm ngư nghiệp theo định hướng chung của chương trình công nghệ 10. Đề xuất các nội dung gắn liền với thực tế sản xuất nông nghiệp của địa phương sẽ lồng ghép vào giảng dạy. Lưu ý: Anh, chị có thể lựa chọn 1 khu vực có đặc điểm như yêu cầu bài tập đề ra để tìm hiểu”. Mục tiêu của bài tập này là: Phát triển kỹ năng phân tích mục tiêu dựa trên sự thay đổi của bối cảnh thực tế có liên quan và các yêu cầu chung của môn học. Để giải quyết bài tập này, sinh viên căn cứ trên mục tiêu cụ thể của chương trình môn Công nghệ 10, điều kiện thực tế gặp phải mà xác định lại mục tiêu cụ thể của các chương trong SGK Công nghệ 10 theo hướng gắn liền hoàn cảnh thực tế tại địa phương, đẩy mạnh vận dụng kiến thức học được của học sinh vào thực tế cuộc sống nhằm tăng hiệu quả chung của môn học. Sinh viên cần tìm hiểu rõ bối cảnh thực tế ở những lĩnh vực liên quan, phân tích những nội dung nào phù hợp, đề xuất và xây dựng các nội dung để đưa vào bài giảng. Khuyến khích có mô tả rõ ràng về cơ cấu ngành nghề, sản xuất tại địa phương. Như vậy, mỗi dạng bài tập sẽ có đặc điểm, vai trò và mục tiêu khác nhau. Do đó, điều quan trọng là giáo viên cần sử dụng các loại bài tập một cách linh hoạt và phối hợp chúng với nhau để đảm bảo sinh viên nắm vững kiến thức, từ đó hình thành và phát triển các kỹ năng sư phạm. 3.2.3. Nguyên tắc thiết kế bài tập ở các học phần chuyên môn sư phạm Để đem lại hiệu quả giáo dục cao thì các bài tập được thiết kế phải đảm bảo những nguyên tắc nhất định. Những nguyên tắc này cũng chính là những tiêu chí để đánh giá bài tập có đạt yêu cầu hay không. Sau đây là một số nguyên tắc chủ yếu trong việc xây dựng bài tập phát triển năng lực sư phạm mà chúng tôi đề ra trên cơ sở phân tích, tổng hợp các nguyên tắc từ những nghiên cứu của các tác giả đi trước. - Bài tập phải góp phần thực hiện mục tiêu học tập môn học. Nguyên tắc này đòi bài tập được xây dựng không chỉ giúp sinh viên nắm vững tri thức lý luận giáo dục mà còn phải biết vận dụng tri thức đó để hình thành năng lực sư phạm. Đây là nguyên tắc bao trùm việc xây dựng các bài tập ở các học phần chuyên môn sư phạm. - Bài tập phát triển năng lực sư phạm vừa phải phù hợp với trình độ của sinh viên, vừa phải đảm bảo tính đa dạng, PHẠM QUỲNH TRANG 127 phong phú. - Bài tập phải được xây dựng một cách đa dạng, phong phú. Việc tiếp cận và tham gia giải nhiều loại bài tập, sinh viên sẽ càng có cơ hội tìm hiểu sâu sắc tri thức đã học, rèn luyện nhiều dạng kĩ năng chuyên biệt, nhờ đó mà làm quen với nhiều tình huống, hoàn cảnh, môi trường, hoạt động giáo dục khác nhau. - Bài tập phải đảm bảo tính vừa sức đối với trình độ, khả năng và đặc điểm của sinh viên. - Bài tập cần phản ánh thực tiễn hoạt động nghề nghiệp của giáo viên ở trường phổ thông. Bài tập cần được gắn liền với thực tiễn công tác dạy học và giáo dục ở các trường phổ thông hiện nay. - Bài tập phải được thiết kế dưới dạng hoạt động học tập cho chính người học. Bởi vì năng lực chỉ được hình thành và phát triển thông qua các hoạt động, do đó nếu càng tích cực, chủ động trong hoạt động học tập thì người học càng có cơ hội phát triển năng lực. - Bài tập phải tích hợp được kiến thức, kỹ năng, thái độ của người học. Kiến thức, kỹ năng và thái độ là những thành tố cơ bản trong cấu trúc của năng lực và khi giải quyết bài tập người học cần kết hợp linh hoạt kiến thức, kỹ năng mới có thể giải quyết có hiệu quả vấn đề đặt ra. 3.2.4. Quy trình xây dựng bài tập ở các học phần chuyên môn sư phạm Quy trình xây dựng bài tập thực hành là một tiến trình bao gồm các giai đoạn, các khâu, các bước, các thao tác được sắp xếp theo một trình tự logic nhất định có mối liên hệ chặt chẽ với nhau để xây dựng bài tập của môn học (Trần Thị Hương (2011). Trên cơ sở tổng hợp các quy trình xây dựng bài tập của nhiều tác giả, chúng tôi đề xuất quy trình thiết kế bài tập phát triển năng lực sư phạm trong các học phần chuyên môn sư phạm theo trình tự các giai đoạn như sau: XÂY DỰNG BÀI TẬP Ở CÁC HỌC PHẦN CHUYÊN MÔN SƯ PHẠM NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC 128 - Giai đoạn 1: Phân tích mục tiêu của các học phần chuyên môn sư phạm, chú trọng các mục tiêu về phát triển năng lực. Mục tiêu chính là những yêu cầu về năng lực, cụ thể là những kiến thức, kỹ năng và thái độ mà người học cần đạt được sau khi học xong mỗi học phần. Mục tiêu này có tác dụng định hướng cho giảng viên trong việc xây dựng hệ thống bài tập, đây chính là cơ sở để giảng viên xác định loại bài tập, nội dung và số lượng bài tập cho từng chương, bài học cụ thể. Đồng thời mục tiêu học tập cũng là căn cứ để giảng viên đánh giá các mức độ năng lực sư phạm mà sinh viên đạt được sau khi thực hiện hệ thống bài tập của học phần. - Giai đoạn 2: Phân tích nội dung từng học phần để sàng lọc và lựa chọn nội dung kiến thức có thể chuyển hóa thành bài tập phát triển năng lực sư phạm. Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là phân tích nội dung kiến thức ở các học phần để lựa chọn ra những nội dung cơ bản, trọng tâm và có liên quan trực tiếp đến các năng lực sư phạm. Ví dụ như: Đối với các học phần Tâm lý học, Giáo dục học lựa chọn những nội dung hướng tới hình thành ở sinh viên các năng lực như: tìm hiểu học sinh và môi trường giáo dục, tổ chức các hoạt động trong và ngoài nhà trường, phối hợp và tổ chức các lực lượng giáo dục, xây dựng và phát triển tập thể lớp, giáo dục học sinh cá biệt, giao tiếp và xử lý các tình huống trong các mối quan hệ sư phạm. Đồng thời, hình thành các năng lực dạy học cơ bản, làm cơ sở cho sự phát triển năng lực dạy học các bộ môn. Các kiến thức của học phần phương pháp dạy học, tập trung phát triển năng lực: lựa chọn các phương pháp dạy học; thiết kế và tổ chức các hoạt động học tập của học sinh, soạn giáo án. - Giai đoạn 3: Xác định hệ thống bài tập của học phần Trong giai đoạn này, giảng viên cần căn cứ vào mục tiêu, nội dung từng chương/ bài học mà xác định những dạng bài tập nào cần thiết nhất trong từng chương. Hệ thống bài tập bao gồm một số lượng nhất định, đảm bảo tính đa dạng, phong phú của các dạng bài và được sắp xếp theo các vấn đề học tập hay hệ thống kĩ năng. Các loại bài tập cũng đảm bảo từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ chung đến riêng, từ bài tập có tính tái tạo đến bài tập đòi hỏi tính sáng tạo Bài tập nêu ra cũng phải phổ biến, khách quan, thường xuyên gặp trong thực tiễn giáo dục. - Giai đoạn 4: Thu thập, lựa chọn và khai thác nguồn dữ liệu liên quan đến hệ thống bài tập Nhiệm vụ của giai đoạn này là sưu tầm, lựa chọn và khai thác những dữ liệu có liên quan đến hệ thống bài tập từ rất nhiều nguồn khác nhau như: Các tài liệu tham khảo, sách báo, tạp chí chuyên ngành, văn bản, các trang web có liên quan đến năng lực sư phạm; các bài tập có sẵn trong các tài liệu hiện hành.Ngoài ra, giảng viên cần học hỏi, chia sẻ với đồng nghiệp và dự giờ, trao đổi với giáo viên ở trường phổ thông để tạo ra những bài tập vừa có giá trị khoa học và mang tính thực tiễn. - Giai đoạn 5: Sưu tầm, soạn thảo bài tập mới và sắp xếp chúng thành một hệ thống phù hợp Từ các nguồn dữ liệu tìm được ở trên, giảng viên tiến hành chọn lọc, soạn thảo từng bài tập theo các tiêu chí đã được xác định và sắp xếp chúng thành một hệ thống. Tiến hành soạn thảo bài tập là giai đoạn quyết định chất lượng hệ thống bài tập. - Giai đoạn 6: Tiến hành thử nghiệm PHẠM QUỲNH TRANG 129 và điều chỉnh hệ thống bài tập Mục đích của giai đoạn thử nghiệm này nhằm phân tích, đánh giá hiệu quả, tính khả thi của các bài tập đã xây dựng, để từ đó điều chỉnh và hoàn thiện. 4. Kết luận Trong hoạt động đào tạo, bài tập có vai trò quan trọng giúp tăng cường hoạt động nhận thức và rèn luyện kĩ năng nghề nghiệp cho sinh viên. Để xây dựng bài tập theo định hướng phát triển năng lực, trước tiên cần dựa vào chuẩn năng lực nghề nghiệp và mục tiêu của chương trình môn học. Trên cơ sở phân tích mục tiêu, nội dung của các học phần chuyên môn sư phạm, giảng viên cần xác định hệ thống các đơn vị kiến thức có thể biến thành bài tập, từ đó xây dựng các bài tập thỏa mãn những yêu cầu, nguyên tắc khoa học nhất định. Như vậy, việc thiết kế bài tập trong các học phần chuyên môn sư phạm nhằm phát triển năng lực sư phạm cho sinh viên phải được thực hiện dựa trên một cơ sở lý thuyết và thực tiễn khoa học. Đây được xem là một trong những phương hướng tích cực góp phần nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên của các trường đại học sư phạm nói chung và ngành Sư phạm Kỹ thuật Nông nghiệp, trường đại học Nông Lâm TP. HCM nói riêng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Chương trình Phát triển ngành Sư phạm và các trường sư phạm từ năm 2011 đến năm 2020, Nghị quyết số 6290/QĐ-BGDĐT ngày 13/12/2014. 2. Đinh Quang Báo (2017), Chương trình đào tạo giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông, Nxb Đại học Sư phạm. 3. Nguyễn Thị Thế Bình, Nguyễn Thị Phương Thanh (2016), “Phát triển năng lực dạy học cho sinh viên ngành sư phạm lịch sử trước yêu cầu đổi mới”, Tạp chí Giáo dục, số 386, tr. 36. 4. Trương Đại Đức (2011), Bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên thực hành các trường dạy nghề khu vực miền núi phía Bắc, Luận án tiến sĩ giáo dục học, Trường Đại học Thái Nguyên. 5. Trần Thị Hương (2011), “Xây dựng hệ thống bài tập thực hành hệ thống môn GDH phổ thông theo chương trình đào tạo tín chỉ ở trường đại học”, Tạp chí khoa học Đại học Sư phạm TP.HCM, số 31, tr. 167. 6. Nguyễn Thị Kim Liên (2007), Xây dựng hệ thống bài tập thực hành môn Lí luận và phương pháp dạy học Địa lí, Báo cáo tổng kết đề tài cấp trường, Trường Đại học Sư phạm TP. HCM. 7. Nguyễn Thị Tình (2016), “Một số vấn đề lý luận về phát triển năng lực nghề nghiệp giáo viên”, Tạp chí Giáo dục, số 385, tr. 28. 8. Thái Duy Tuyên (2007), Phương pháp dạy học truyền thống và đổi mới, Nxb Giáo dục. 9. Nguyễn Đức Vũ (2012), “Xây dựng các tiêu chí đánh giá năng lực nghiệp vụ sư phạm và nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường sư phạm”, Tạp chí Giáo dục, số 296, tr. 4. 10. Nguyễn Văn Y (2017), “Bồi dưỡng năng lực sư phạm cho GV nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông”, Tạp chí Giáo dục, số 402, tr. 9. 11. Bernd Meier - Nguyễn Văn Cường (2016), Lý luận dạy học hiện đại, Nxb Đại học Sư phạm. Ngày nhận bài: 04/7/2017 Biên tập xong: 15/9/2017 Duyệt đăng: 20/9/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf35_7559_2215087.pdf
Tài liệu liên quan