Tài liệu Xác định mối liên quan giữa suy yếu (frailty syndrome) và biến cố tim mạch nặng (major cardiac events) trên bệnh nhân cao tuổi mắc bệnh động mạch vành mạn tính: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 42
XÁC ĐỊNH MỐI LIÊN QUAN GIỮA SUY YẾU
(FRAILTY SYNDROME) VÀ BIẾN CỐ TIM MẠCH NẶNG
(MAJOR CARDIAC EVENTS) TRÊN BỆNH NHÂN CAO TUỔI
MẮC BỆNH ĐỘNG MẠCH VÀNH MẠN TÍNH
Huỳnh Trung Quốc Hiếu*, Nguyễn Văn Tân*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Suy yếu (Frailty syndrome), một hội chứng lão khoa, biểu hiện trạng thái dễ bị tổn thương với
các yếu tố về thể chất, xã hội và môi trường, có thể dẫn đến nhiều hậu quả bất lợi trên NCT như ngã, suy giảm
nhận thức, khuyết tật, sống phụ thuộc, cũng như gia tăng tỉ lệ tử vong, sử dụng quá nhiều thuốc, kéo dài thời
gian nằm viện. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu để tìm hiểu mối liên quan giữa suy yếu và các bến cố tim mạch
nặng (BCTMN) trên NCT mắc bệnh ĐMV mạn tính.
Mục tiêu: Xác định mối liên quan giữa suy yếu với các biến cố tim mạch nặng (bao gồm tử vong, tái nhập
viện) tại thời điểm 3 tháng trên bệnh nhân cao tuổi mắc bệnh ĐMV mạn tính.
Phương pháp ngh...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 318 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xác định mối liên quan giữa suy yếu (frailty syndrome) và biến cố tim mạch nặng (major cardiac events) trên bệnh nhân cao tuổi mắc bệnh động mạch vành mạn tính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 42
XÁC ĐỊNH MỐI LIÊN QUAN GIỮA SUY YẾU
(FRAILTY SYNDROME) VÀ BIẾN CỐ TIM MẠCH NẶNG
(MAJOR CARDIAC EVENTS) TRÊN BỆNH NHÂN CAO TUỔI
MẮC BỆNH ĐỘNG MẠCH VÀNH MẠN TÍNH
Huỳnh Trung Quốc Hiếu*, Nguyễn Văn Tân*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Suy yếu (Frailty syndrome), một hội chứng lão khoa, biểu hiện trạng thái dễ bị tổn thương với
các yếu tố về thể chất, xã hội và môi trường, có thể dẫn đến nhiều hậu quả bất lợi trên NCT như ngã, suy giảm
nhận thức, khuyết tật, sống phụ thuộc, cũng như gia tăng tỉ lệ tử vong, sử dụng quá nhiều thuốc, kéo dài thời
gian nằm viện. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu để tìm hiểu mối liên quan giữa suy yếu và các bến cố tim mạch
nặng (BCTMN) trên NCT mắc bệnh ĐMV mạn tính.
Mục tiêu: Xác định mối liên quan giữa suy yếu với các biến cố tim mạch nặng (bao gồm tử vong, tái nhập
viện) tại thời điểm 3 tháng trên bệnh nhân cao tuổi mắc bệnh ĐMV mạn tính.
Phương pháp nghiên cứu: Cắt dọc, thực hiện trên 295 bệnh nhân cao tuổi (> 65 tuổi) nhập viện do bệnh
ĐMV mạn tính tại bệnh viện Thống Nhất TP. Hồ Chí Minh, từ tháng 9/2016 đến tháng 4/2017. Phân tích hồi
quy tuyến tính đa biến được sử dụng để đo lường mối liên quan giữa suy yếu và các biến độc lập.
Kết quả: Bệnh nhân suy yếu có khả năng xuất hiện các biến cố tim mạch nặng (tử vong, tái nhập viện) gấp
2,93 lần so với bệnh nhân không suy yếu (p = 0,003; KTC 95% 1,45 - 5,92). Đồng thời chậm chạp thông qua test
đi bộ 5m là yếu tố có khả năng dự báo xuất hiện biến cố tim mạch nặng ở bệnh nhân cao tuổi mắc bệnh ĐMV
(HR=2,15; KTC 95% 1,08 – 4,3; p = 0,03).
Kết luận: Suy yếu có khả năng dự báo các biến cố bất lợi về sức khỏe ở bệnh nhân cao tuổi bệnh ĐMV, vì vậy
nên sàng lọc suy yếu đối với người cao tuổi mắc bệnh ĐMV mạn tính điều trị nội trú.
Từ khoá: suy yếu, bệnh động mạch vành mạn tính, người cao tuổi
ABSTRACT
DETERMINE THE RELATIONSHIP BETWEEN FRAILTY SYNDROME AND MAJOR CARDIAC
EVENTS ON ELDERLY PATIENTS WITH CHRONIC CORONARY ARTERY DISEASE
Huynh Trung Quoc Hieu, Nguyen Van Tan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 42- 47
Background: Frailty syndrome, a geriatric syndrome, embodies the state vulnerable to physical factors, social
and environment, can lead to many adverse consequences on the seniors as crumpled, cognitive decline life,
disability, dependency, as well as increased mortality, excessive use of drugs, prolong hospitalization. We conduct
research to find out the relationship between Frailty and the major cardiac events on elderly patients with chronic
coronary artery disease.
Objectives: Determine the relationship between decline with the major cardiac events (including mortality,
re-hospitalization) in the time of 3 months on elderly patients with chronic coronary artery disease.
Methods: Longitudinal follow-up was performed in 295 elderly patients (> 65 years) hospitalized with
* Đại học Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: BS. Huỳnh Trung Quốc Hiếu ĐT: 0973555567 Email: quochieu@ump.edu.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 43
chronic coronary artery disease at Thong Nhat Hospital, Ho Chi Minh City, from September 2016 to April 2017.
Multivariate linear regression analysis was used to measure the association between Frailty and independent
variables.
Results: Frailty patients are likely to appear the major cardiac events (mortality, re-hospitalization) were
2.93 times higher than robust (p = 0.003, 95% CI 1.45 - 5.92 ). Simultaneously, a 5m walking test was used to
predict the occurrence of major cardiac events in elderly patients with chronic coronary artery disease (HR = 2.15,
95% CI 1.08-4.3 p = 0.03).
Conclusions: Frailty is likely to predict adverse health events in elderly patients with coronary artery
disease, so should decline screening for elderly with chronic coronary artery disease hospitalize.
Keywords: Frailty, chronic coronary artery disease, elderly people
ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy yếu (Frailty syndrome) là một hội chứng
lâm sàng thường gặp ở NCT, dự báo nguy cơ cao
những bất lợi về sức khỏe như ngã, khuyết tật,
tăng số lần nhập viện, đi khám cấp cứu và thậm
chí tử vong. Khái niệm về suy yếu xuất hiện lần
đầu tiên vào năm 1968 trong một nghiên cứu cắt
ngang trên các đối tượng cao tuổi trong cộng
đồng. Nghiên cứu này đã phác thảo suy yếu như
một phản ứng quá mức và không tương xứng
của NCT với những sự kiện bất lợi. Suy yếu
được biểu hiện như là sự suy giảm khả năng
đương đầu với những “thử thách” sức khỏe và
giảm khả năng trở về tình trạng sức khỏe ổn
định, có thể liên quan đến giảm dự trữ chức
năng. Mức độ suy yếu có thể thay đổi từ dưới
lâm sàng tới giai đoạn lâm sàng rõ ràng đến giai
đoạn cuối đời(3).
BMV là bệnh thường gặp ở các nước phát
triển và có xu hướng gia tăng rất nhanh ở các
nước đang phát triển. Theo ước tính ở Hoa Kỳ
hiện có khoảng 13 triệu người mắc bệnh và
BMV là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở
cả nam lẫn nữ giới. Các biểu hiện lâm sàng
của XVĐM đa dạng hơn và nghiêm trọng hơn
ở NCT so với người trẻ. Đa yếu tố bệnh
nguyên có những ảnh hưởng khác nhau lên sự
lão hóa mạch máu trong suốt cuộc đời. Vì vậy,
lão hóa mạch máu đóng vai trò hàng đầu và
nổi bật dẫn đến XVĐM ở NCT(9).
Gần đây nhiều nghiên cứu chứng minh
rằng suy yếu và bệnh tim mạch chia sẽ nhiều
sự tương đồng về sinh lý bệnh, đặc biệt là mối
liên quan với các dấu ấn sinh học viêm hs-CRP
và IL-6(7). Đánh giá suy yếu được xem là công
cụ để dự đoán các nguy cơ của bệnh nhân và
hướng dẫn bác sĩ lâm sàng cá thể hóa điều trị
nhằm phát huy tối đa “khả năng chịu đựng
tổn thương” của bệnh nhân, hướng về một kết
quả điều trị tích cực. Hơn nữa, bệnh nhân suy
yếu phải đối mặt với nguy cơ cao hơn từ các
thủ thuật xâm lấn cũng như giảm khả năng
hồi phục từ các can thiệp để chống lại các
khiếm khuyết thực thể của suy yếu(12, 14). Kết
quả nghiên cứu cũng là tiền đề cho các nghiên
cứu liên quan sâu rộng hơn sau này.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định mối liên quan giữa suy yếu với các
biến cố tim mạch nặng (bao gồm tử vong, tái
nhập viện) tại thời điểm 3 tháng trên bệnh nhân
cao tuổi mắc bệnh ĐMV mạn tính.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu mô tả cắt ngang và theo dõi dọc
với phương pháp chọn mẫu thuận tiện, thực
hiện từ tháng 9/2016 đến tháng 4/2017 trên 295
bệnh nhân NCT (>65 tuổi) tại Trung tâm Tim
Mạch bệnh viện Thống Nhất Tp. Hồ Chí Minh.
Cỡ mẫu nghiên cứu được tính dựa vào công
thức ước lượng một trung bình với khoảng tin
cậy 95%, sử dụng tỷ lệ ước tính NCT có suy yếu
là 19% theo nghiên cứu của tác giả Gharacholou
và cộng sự năm thực hiện năm 2012 tại Hoa Kỳ.
Cỡ mẫu cần thiết cho nghiên cứu là 237 người.
Sau khi dự tính tình trạng thiếu mẫu có thể xảy
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 44
ra với ước đoán khoảng 10%, cỡ mẫu tính được
gồm 270 đối tượng.
Dân số mục tiêu là tất cả bệnh nhân cao tuổi
(≥ 65 tuổi) nhập viện do bệnh ĐMV mạn tính tại
Trung Tâm Tim Mạch bệnh viện Thống Nhất
thành phố Hồ Chí Minh, từ tháng 9/2016 đến
tháng 4/2017. Từ dân số mục tiêu chọn ra những
trường hợp được chẩn đoán là bệnh ĐMV mạn
tính dựa trên thăm khám lâm sàng kết hợp các
test thăm dò: ĐTĐ lúc nghỉ, ĐTĐ gắng sức, SA
tim gắng sức, MSCT hoặc chụp ĐMV(1, 10). Chúng
tôi loại ra khỏi nghiên cứu những trường hợp
sau: bệnh nhân có hội chứng vành cấp; bệnh
nhân có di chứng thần kinh sau cơn đột quỵ;
bệnh Parkinson nặng; sa sút trí tuệ; bệnh nhân
không thể vận động, đi lại; chống chỉ định vận
động và hoạt động thể lực của bác sĩ điều trị;
bệnh nội khoa cấp tính; không đồng ý tham gia
nghiên cứu.
Năm 2000, Fried`s Frailty Phenotype hay
thường được gọi là chỉ số CHS đã được Fried và
đồng nghiệp đề xuất gồm năm tiêu chí: sụt cân
không chủ ý, tình trạng yếu cơ, kiệt sức (sức bền
và năng lượng kém), sự chậm chạp, và mức hoạt
động thể lực thấp.
Các tiêu chí thành phần
Sụt cân không chủ ý 4,5 kg hoặc giảm 5%
trọng lượng cơ thể so với năm trước.
Tình trạng yếu cơ: cơ lực tay thấp hơn so với
mức cơ bản (đã điều chỉnh theo giới và chỉ số
khối cơ thể).
Kiệt sức (Sức bền và năng lượng kém): Tự
báo cáo về tình trạng kiệt sức, xác định bằng hai
câu hỏi trong thang điểm tự báo cáo trầm cảm
CES–D (Center for Epidemiologic Studies
Depression Scale).
Sự chậm chạp: nhỏ hơn mức cơ bản đã được
điều chỉnh theo giới tính và chiều cao đứng, dựa
trên thời gian đi bộ 5m.
Mức hoạt động thể lực thấp: Tổng số kilocalo
tiêu hao trong mỗi tuần được tính toán dựa trên
bộ câu hỏi các hoạt động trong tuần qua.
Đối tượng nghiên cứu đáp ứng ba trong số
năm tiêu chí thì xác định là có suy yếu
(Frailty), từ một đến hai tiêu chí là tiền suy
yếu (Pre-frailty), không có tiêu chí nào là
không có suy yếu(2).
Chúng tôi trực tiếp hỏi bệnh sử, tiền sử và
khám lâm sàng kỹ lưỡng bệnh nhân khi nhập
viện, theo dõi bệnh nhân sau khi xuất viện. Xem
xét kết quả chụp ĐMV sau đó tiến hành thu thập
các dữ liệu theo tiêu chuẩn Fried. Mỗi bệnh nhân
cần 10 – 15 phút để cân, đo sức mạnh bàn tay, tốc
độ đi bộ, hỏi hai câu hỏi liên quan tới “kiệt sức”
và bảng câu hỏi về hoạt động thể lực.
Khám lâm sàng: nhằm đánh giá tình trạng
chung, dấu hiệu sinh tồn, tình trạng bệnh tim
mạch, đánh giá mức độ đau thắt ngực theo Hiệp
hội Tim mạch Canada (Canadian Cardiovascular
Society - CCS). Thu thập thông tin cá nhân, đánh
giá theo bộ câu hỏi soạn sẵn. Số liệu được xử lý
mỗi ngày, để cung cấp lại thông tin ngay khi có
phát hiện sai sót.
Theo dõi bệnh nhân sau khi xuất viện: Tất cả
bệnh nhân sau khi xuất viện sẽ được theo dõi tại
phòng khám A (đối với bệnh nhân là cán bộ
thuộc bảo hiểm y tế của bệnh viện Thống Nhất),
phòng khám B (đối với bệnh nhân không phải là
cán bộ có hoặc không có bảo hiểm y tế). Nếu
bệnh nhân không tái khám thì chúng tôi sẽ liên
hệ trực tiếp qua điện thoại. Toàn bộ bệnh nhân
trong mẫu nghiên cứu sẽ được chúng tôi trực
tiếp gọi điện thoại để biết được tình trạng sống
còn và tử vong sau khi xuất viện tại thời điểm 3
tháng kể từ ngày xuất viện.
Biến cố tim mạch nặng: được định nghĩa khi
đối tượng nghiên cứu trong quá trình theo dõi
xảy ra một hoặc nhiều kết cục sau: 1. tử vong; 2.
tái nhập viện(4, 6, 16).
Tái nhập viện: gọi là tái nhập viện khi trong
thời gian theo dõi bệnh nhân phải nhập viện vì
bệnh tim mạch như tăng huyết áp, suy tim, bệnh
ĐMV, bệnh mạch máu ngoại biên, đột quỵ(13).
Tử vong trong quá trình theo dõi: ghi nhận tất
cả những trường hợp tử vong, nguyên nhân của
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 45
tử vong là do tim mạch hay không do tim mạch.
Gọi là tử vong do tim mạch khi bệnh nhân
tử vong do nhồi máu cơ tim, rối loạn nhịp thất
(nhanh thất hay rung thất), suy tim nặng, đột
quỵ(8).
Tử vong do mọi nguyên nhân: tại thời điểm
kết thúc nghiên cứu, ghi nhận tất cả các trường
hợp tử vong bất kể nguyên nhân là gì(8).
Nhập liệu bằng phần mềm Epi Data và
phân tích theo phần mềm STATA 11.0. Kiểm
tra bảng câu hỏi và kết quả từng đối tượng
ngay trong ngày, nếu cần thiết trở lại gặp đối
tượng khảo sát lần 2.
Kết quả được trình bày dưới dạng tần suất, tỉ
lệ %, trung bình ± độ lệch chuẩn (có phân phối
chuẩn), trung vị và khoảng tứ vị 25%-75% (có
phân phối không chuẩn), dùng phép kiểm chi
bình phương để so sánh 2 biến định tính, sử
dụng mô hình hồi quy Logistic đa biến phân tích
các yếu tố nguy cơ liên quan đến sự xuất hiện
của suy yếu với ngưỡng ý nghĩa p<0.05. Để theo
dõi và đánh giá biến cố tim mạch nặng giữa hai
nhóm suy yếu và không suy yếu, chúng tôi dùng
thuật toán phân tích sống còn (survival analysis)
với đường biểu diễn Kaplan-Meier.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Qua theo dõi 295 bệnh nhân cao tuổi bệnh
ĐMV, nghiên cứu của chúng tôi có 38 bệnh nhân
phải tái nhập viện trong thời gian theo dõi 3
tháng chiếm tỉ lệ là 12,88%, có 4 bệnh nhân tử
vong chiếm tỉ lệ 1,36%. Có 39 bệnh nhân được
ghi nhận xảy ra biến cố tim mạch nặng trong quá
trình theo dõi chiếm tỉ lệ 13,22%.
Bảng 1: Các biến cố tim mạch nặng tại thời điểm 3
tháng
Biến cố Giá trị Tần số Tỉ lệ (%)
Tái nhập viện do bệnh tim mạch
Không 257 87,12
Có 38 12,88
Số lần tái nhập viện
1 lần 23 60,53
2 lần 12 31,58
3 lần 3 7,89
Tử vong do bệnh tim mạch
Không 291 98,64
Có 4 1,36
Thời gian tử vong sau 1 tháng 2 50
3 tháng 2 50
Biến cố tim mạch nặng
Không 256 86,78
Có 39 13,22
Bảng 2: Liên quan giữa suy yếu và tỉ lệ tử vong tại
thời điểm 3 tháng
Suy yếu Tử vong p HR (KTC 95%)
Không 1
0,59 1,87 (0,18 – 19,1)
Có 3
Những bệnh nhân suy yếu sẽ có nguy cơ tử
vong gấp 1,87 lần những bệnh nhân không suy
yếu, nhưng mối liên quan không có ý nghĩa
thống kê (với p > 0,05).
Bảng 3: Liên quan giữa suy yếu và biến cố tim mạch
nặng tại thời điểm 3 tháng
Suy yếu Biến cố tim mạch nặng p HR (KTC 95%)
Không 17
0,003
2,93
(1,45 - 5,92) Có 22
Có mối liên quan giữa tình trạng suy yếu
theo tiêu chuẩn Fried với thời gian xảy ra biến cố
tim mạch nặng (03 tháng) ở bệnh nhân người
cao tuổi mắc bệnh ĐMV. Bệnh nhân suy yếu sẽ
có nguy cơ xảy ra biến cố tim mạch nặng gấp
2,93 lần những bệnh nhân không suy yếu, mối
liên quan có ý nghĩa thống kê (với p < 0,05; KTC
95% 1,45 - 5,92).
Bảng 4: Mối liên quan giữa các tiêu chí thành phần
chẩn đoán suy yếu với biến cố tim mạch nặng
Tiêu chí
Biến cố
tim mạch nặng
p
HR
(KTC 95%)
Chậm chạp (Test
đi bộ 5m)
Không 13
0,03
2,15
(1,08 – 4,3) Có 26
Yếu cơ (Lực bóp
bàn tay)
Không 10
0,055
2,05
(0,97 – 4,3) Có 29
Sụt cân không tự
chủ
Không 36
0,854
0,89
(0,275 – 2,9) Có 3
Hoạt động thể lực
kém
Không 11
0,063
1,98
(0,96 – 4,04) Có 28
Kiệt sức
Không 30
0,988
1,01
(0,48 – 2,12) Có 9
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa
test đi bộ 5m tại thời điểm xảy ra biến cố tim
mạch nặng (3 tháng) ở bệnh nhân người cao tuổi
mắc bệnh ĐMV. Bệnh nhân có test thời gian đi
bộ 5m (+) sẽ có nguy cơ xảy ra biến cố tim mạch
nặng gấp 2,15 lần những bệnh nhân có tets đi bộ
5m (-), mối liên quan có ý nghĩa thống kê (với p <
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 46
0,05; KTC 95% 1,08 – 4,3).
BÀN LUẬN
NCT thường có nguy cơ cao những bất lợi về
sức khỏe như ngã, khuyết tật, tăng số lần nhập
viện, đi khám cấp cứu và thậm chí tử vong. Tỉ lệ
người NCT nhập viện được chẩn đoán suy yếu
thường rất cao. Việc xác định chính xác bệnh
nhân có thể gặp các hậu quả bất lợi là rất quan
trọng đối với việc lập kế hoạch chăm sóc cá nhân
và đánh giá rủi ro đối với các phương pháp điều
trị hoặc can thiệp y tế. Tuy nhiên cho đến nay,
vẫn chưa có sự đồng thuận về phương pháp xác
định chính xác những bệnh nhân nhập viện có
nguy cơ cao dẫn đến các hậu quả bất lợi. Các nhà
khoa học gần đây đã đề nghị xem suy yếu như là
một công cụ đơn giản và nhanh chóng để đánh
giá và dự báo các nguy cơ về bất lợi sức khỏe ở
NCT(5, 16). Nghiên cứu của tác giả Purser và cộng
sự năm 2006, thực hiện trên 309 bệnh nhân NCT
mắc bệnh ĐMV ở Hoa Kỳ, mục tiêu là để xác
định, đánh giá mức độ suy yếu của NCT điều trị
nội trú, đồng thời tìm hiểu mối liên hệ giữa suy
yếu và tỉ lệ tử vong tại thời điểm 6 tháng. Tác giả
đã kết luận có mối liên quan giữa suy yếu và tỉ lệ
tử vong tại thời điểm 6 tháng sau theo dõi và
chậm chạp thông qua test đi bộ 5m là yếu tố dự
báo mạnh tỉ lệ tử vong sau 6 tháng (OR =3,8;
KTC 95% 1,1-13,1)(11).
Nghiên cứu của tác giả Singh và cộng sự
năm 2011, thực hiện trên 629 bệnh nhân NCT
mắc bệnh ĐMV, tác giả theo dõi các đối tượng
nghiên cứu trong 3 năm để tìm hiểu mối liên
quan của suy yếu với các biến cố tim mạch nặng
ở NCT, cuối cùng tác giả kết luận những bệnh
nhân suy yếu có nguy cơ xảy ra biến cố tim mạch
nặng gấp 2,61 lần so với những bệnh nhân
không suy yếu (HR = 2,61; 1,52 – 4,5)(13). Nghiên
cứu của tác giả Liang Feng và cộng sự năm 2015
nghiên cứu trên 2804 NCT với mục tiêu nghiên
cứu là tìm hiểu mối liên quan giữa suy yếu về
thể chất với tỉ lệ tử vong, tỉ lệ nhập viện, và giảm
chất lượng cuộc sống ở NCT sống trong cộng
đồng tại Singgapore, tác giả đã báo cáo NCT suy
yếu có nguy cơ tử vong tăng 2,56 lần so với NCT
không suy yếu (2,56; KTC 95% 1,56-4,19)(5).
Tác giả Studenski năm 2011 sau khi thực
hiện một nghiên cứu phân tích gộp từ 09 nghiên
cứu đoàn hệ trước đó (thực hiện từ năm 1986
đến năm 2000) cũng đã đề xuất đánh giá tốc độ
đi bộ chậm (thông qua test đi bộ 5m) như là một
phương pháp đánh giá nguy cơ tử vong cũng
như các hậu quả sức khỏe bất lợi ở NCT(15).
Qua nghiên cứu 295 bệnh nhân cao tuổi mắc
bệnh ĐMV điều trị nội trú tại Trung tâm tim
mạch bệnh viện Thống Nhất, chúng tôi nhận
thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa
suy yếu và các biến cố tim mạch nặng (tử vong,
tái nhập viện) tại điểm theo dõi 3 tháng (với p <
0,05). Bệnh nhân suy yếu có khả năng xuất hiện
các biến cố tim mạch nặng (tử vong, tái nhập
viện) gấp 2,93 lần so với bệnh nhân không suy
yếu (p = 0,003; KTC 95% 1,45 - 5,92). Kết quả này
là phù hợp với các nghiên cứu khác trên thế giới,
và một lần nữa chứng minh suy yếu là yếu tố
nguy cơ có thể dự báo những biến cố sức khỏe
bất lợi ở NCT. Đồng thời chậm chạp thông qua
test đi bộ 5m cũng là phương pháp đánh giá suy
yếu có khả năng dự báo xuất hiện biến cố tim
mạch nặng ở bệnh nhân cao tuổi mắc bệnh ĐMV
(HR=2,15; KTC 95% 1,08 – 4,3; p = 0,03). Chúng
tôi cũng nhận thấy bệnh nhân suy yếu sẽ có
nguy cơ tử vong gấp 1,87 lần những bệnh nhân
không suy yếu, nhưng mối liên quan không có ý
nghĩa thống kê (với p > 0,05). Kết quả này có thể
là do cỡ mẫu nghiên cứu chưa đủ lớn cũng như
thời gian theo dõi tương đối ngắn (3 tháng) so
với các nghiên cứu khác trên thế giới.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Qua nghiên cứu tình trạng suy yếu trên
295 bệnh nhân cao tuổi mắc bệnh ĐMV điều
trị tại Bệnh viện Thống Nhất Thành phố Hồ
Chí Minh, chúng tôi kết luận như sau: bệnh
nhân suy yếu có khả năng xuất hiện các biến
cố tim mạch nặng (tử vong, tái nhập viện) gấp
2,93 lần so với bệnh nhân không suy yếu (p =
0,003; KTC 95% 1,45 - 5,92). Đồng thời chậm
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 47
chạp thông qua test đi bộ 5m là yếu tố có khả
năng dự báo xuất hiện biến cố tim mạch nặng
ở bệnh nhân cao tuổi mắc bệnh ĐMV
(HR=2,15; KTC 95% 1,08 – 4,3; p = 0,03).
Suy yếu có khả năng dự báo các biến cố bất
lợi về sức khỏe ở bệnh nhân cao tuổi bệnh ĐMV,
vì vậy nên sàng lọc suy yếu đối với người cao
tuổi mắc bệnh ĐMV mạn tính điều trị nội trú,
đặc biệt là các đối tượng có các đặc điểm liên
quan đến suy yếu, cụ thể là đối tượng có tuổi
cao, BMI thấp, có tình trạng rối loạn lipid máu,
bệnh suy tim.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cassar A, Holmes DR, Rihal CS, Gersh BJ (2009), "Chronic
Coronary Artery Disease: Diagnosis and Management". Mayo
Clinic Proceedings, 84 (12), pp.1130-1146.
2. Clegg A, Young J, Iliffe S, Rikkert MO, Rockwood K (2013),
"Frailty in elderly people". The Lancet, 381 (9868), pp.752-762.
3. Conroy S, Elliott A (2017), "The frailty syndrome". Medicine, 45
(1), pp.15-18.
4. Dent E, Chapman I, Howell S, Piantadosi C, Visvanathan R
(2014), "Frailty and functional decline indices predict poor
outcomes in hospitalised older people". Age Ageing, 43 (4),
pp.477-84.
5. Feng L, Nyunt MSZ, Gao Q, Feng L, Yap KB, Ng T-P (2016),
"Cognitive Frailty and Adverse Health Outcomes: Findings
From the Singapore Longitudinal Ageing Studies (SLAS)".
Journal of the American Medical Directors Association,
6. Gharacholou SM, Roger VL, Lennon RJ, Rihal CS, Sloan JA,
Spertus JA, Singh M (2012), "Comparison of frail patients versus
nonfrail patients≥ 65 years of age undergoing percutaneous
coronary intervention". The American journal of cardiology, 109
(11), pp.1569-1575.
7. Halter JB, et al. (2010), Effects of aging on Cardiovascular
Structure and Function. Hazzards Geriatric Medicine and
Gerontology. 6 ed. The McGraw-Hill Companies, 883-896.
8. Hamonangan R, Wijaya IP, Setiati S, Harimurti K (2016),
"Impact of Frailty on the First 30 Days of Major Cardiac Events
in Elderly Patients with Coronary Artery Disease Undergoing
Elective Percutaneous Coronary Intervention". Acta Med Indones,
48 (2), pp.91-8.
9. Nguyễn Đức Công (2011), Bệnh học người cao tuổi đào tạo sau đại
học, Tập 1, NXB Y Học, tr.3-56.
10. Phạm Gia Khải (2008), Xử trí Bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính
(Đau thắt ngực ổn định), Khuyến cáo về các bệnh lý Tim mạch và
Chuyển hóa, Tập 1, Hội Tim mạch học Việt Nam, tr.329-351.
11. Purser JL, Kuchibhatla MN, Fillenbaum GG, Harding T,
Peterson ED, Alexander KP (2006), "Identifying frailty in
hospitalized older adults with significant coronary artery
disease". Journal of the American Geriatrics Society, 54 (11),
pp.1674-1681.
12. Rajabali N, Rolfson D, Bagshaw SM (2016), "Assessment and
Utility of Frailty Measures in Critical Illness, Cardiology, and
Cardiac Surgery". Canadian Journal of Cardiology, 32 (9), pp.1157-
1165.
13. Singh M, Rihal CS, Lennon RJ, Spertus JA, Nair KS, Roger VL
(2011), "Influence of frailty and health status on outcomes in
patients with coronary disease undergoing percutaneous
revascularization". Circulation: Cardiovascular Quality and
Outcomes, 4 (5), pp.496-502.
14. Solfrizzi V, et al. (2013), "Frailty syndrome and the risk of
vascular dementia: the Italian Longitudinal Study on Aging".
Alzheimer's & Dementia, 9 (2), pp.113-122.
15. Studenski S, et al. (2011), "Gait speed and survival in older
adults". Jama, 305 (1), pp.50-8.
16. Vermeiren S, et al. (2016), "Frailty and the Prediction of Negative
Health Outcomes: A Meta-Analysis". Journal of the American
Medical Directors Association, 17 (12), pp.1163.e1-1163.e17.
Ngày nhận bài báo: 18/11/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 19/11/2017
Ngày bài báo được đăng: 15/3/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xac_dinh_moi_lien_quan_giua_suy_yeu_frailty_syndrome_va_bien.pdf