Tài liệu Xác định kiểu gen HLA-B*1502 ở bênh nhân mới được chẩn đoán mắc bệnh động kinh: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016
Chuyên Đề Nội Khoa II 100
XÁC ĐỊNH KIỂU GEN HLA-B*1502 Ở BÊNH NHÂN MỚI
ĐƯỢC CHẨN ĐOÁN MẮC BỆNH ĐỘNG KINH
Lương Bắc An*, Bùi Nguyễn Nhật Minh*, Nguyễn Thị Hà Giang*, Đỗ Thị Thanh Thủy*.
TÓM TẮT
Mở đầu: Bệnh động kinh là một bệnh lí thần kinh nghiêm trọng thường gặp, các hoạt động điện não bị rối
loạn, gây ra các cơn co giật tái diễn, có hành vi bất thường và đôi khi mất ý thức. Hiện nay, trên thế giới ước tính
có khoảng 50 triệu người động kinh. Tỉ lệ ước lượng trên dân số chung là 4-10/1000 người. Carbamazepine, một
loại thuốc điều trị chống co giật, được sử dụng nhiều trong điều trị bệnh động kinh. Carbamazepine có thể gây ra
các phản ứng quá mẫn nghiêm trọng và đe dọa tính mạng, bao gồm hội chứng Steven Johnson (SJS) và hoại tử da
gây độc (TEN). Nhiều nghiên cứu phát hiện những bệnh nhân gốc châu Á có mang kiểu gen HLA-B*1502 thì
nguy cơ phát triển hội chứng SIS/TEN khi điều trị với Carbamazep...
5 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 251 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xác định kiểu gen HLA-B*1502 ở bênh nhân mới được chẩn đoán mắc bệnh động kinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016
Chuyên Đề Nội Khoa II 100
XÁC ĐỊNH KIỂU GEN HLA-B*1502 Ở BÊNH NHÂN MỚI
ĐƯỢC CHẨN ĐOÁN MẮC BỆNH ĐỘNG KINH
Lương Bắc An*, Bùi Nguyễn Nhật Minh*, Nguyễn Thị Hà Giang*, Đỗ Thị Thanh Thủy*.
TÓM TẮT
Mở đầu: Bệnh động kinh là một bệnh lí thần kinh nghiêm trọng thường gặp, các hoạt động điện não bị rối
loạn, gây ra các cơn co giật tái diễn, có hành vi bất thường và đôi khi mất ý thức. Hiện nay, trên thế giới ước tính
có khoảng 50 triệu người động kinh. Tỉ lệ ước lượng trên dân số chung là 4-10/1000 người. Carbamazepine, một
loại thuốc điều trị chống co giật, được sử dụng nhiều trong điều trị bệnh động kinh. Carbamazepine có thể gây ra
các phản ứng quá mẫn nghiêm trọng và đe dọa tính mạng, bao gồm hội chứng Steven Johnson (SJS) và hoại tử da
gây độc (TEN). Nhiều nghiên cứu phát hiện những bệnh nhân gốc châu Á có mang kiểu gen HLA-B*1502 thì
nguy cơ phát triển hội chứng SIS/TEN khi điều trị với Carbamazepine cao. Xác định kiểu gen HLA-B*1502 trước
khi quyết định sử dụng Carbamazepine nhằm giảm thiểu hội chứng SJS/TEN ở bệnh nhân do sử dụng
carbamazepine là cần thiết.
Mục tiêu: Sử dụng kĩ thuật realtime PCR để phát hiện kiểu gen HLA-B*1502.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Mẫu máu của bệnh nhân với chẩn đoán mới mắc bệnh động
kinh được lấy từ bệnh viện Đại học Y Dược Tp.HCM và bệnh viện Ngoại Thần Kinh Quốc Tế. Tiến hành ly trích
DNA toàn bộ, phản ứng realtime PCR để phát hiện kiểu gen HLA-B*1502.
Kết quả: Trong tổng số 196 mẫu bệnh nhân được nghiên cứu, tần số bệnh nhân mang allele HLA-B*1502 là
24,5 % (48/196) và bệnh nhân không mang allele HLA-B*1502 là 75,5 % (148/196).
Kết luận: Việt Nam nằm trong khu vực châu Á có tần suất mang kiểu allele HLA-B*1502 cao, kết quả
nghiên cứu cho thấy 24,5% bệnh nhân có mang allele HLA-B*1502. Vì vậy, trước khi sử dụng thuốc
carbamazepine điều trị bệnh động kinh, cần yêu cầu thực hiện xét nghiệm HLA-B*1502 giúp bác sĩ lâm sàng có
phương thức điều trị nhằm hạn chế hội chứng SJS/TEN.
Từ khóa: Realtime PCR, HLA-B*1502, Carbamazepine.
ABSTRACTS
IDENTIFYING HLA-B*1502 IN PATIENTS WITH NEWLY DIAGNOSED EPILEPSY
Luong Bac An*, Bui Nguyen Nhat Minh*, Nguyen Thi Ha Giang*, Do Thi Thanh Thuy*
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 20 - No 1 - 2016: 100 - 104
Background: Epilepsy is a common serious neurological disease in which nerve cell activity is disturbed,
causing recurrent seizures, periods of unusual behavior and sometimes loss of consciousness. Recently, there are
approximately 50 million people with epilepsy in the world. The incidence of general population was about 4-
10/1000 cases. Carbamazepine, an anticonvulsant medication has used to treating epilepsy. Carbamazepine can
cause severe hypersensitivity reactions and threatening life, including Steven Johnson Syndrome (SJS) and toxic
epidermal necrolysis (TEN). Many researchers found that Asian patients carrying the HLA-B*1502 have high
risk of developing the syndrome SIS / TEN when treated with Carbamazepine. Genotyping HLA-B*1502 before
using Carbamazepine is necessary to reduce symptoms of SJS / TEN in patients.
Objective: Using real-time PCR to identify HLA-B*1502 genotypes.
* Trung tâm Y sinh học phân tử Đại học Y Dược Tp.Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: CN Lương Bắc An ĐT: 0933908241 Emailluongbacan1991@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Thần kinh 101
Method: A cross-sectional descriptive study. Whole blood samples were obtained from patients with newly
diagnosed epilepsy (University Medical Center, Ho Chi Minh City, Vietnam and International Neurosurgery
Hospital, Ho Chi Minh City, Vietnam). DNA total was extracted by GE kit, real-time PCR was carried out to
detect the HLA-B*1502.
Results: In this study with 196 samples, 48 (24.5%) were found to carry the HLA-B*1502 allele. 148
(75.5%) were not found to carry the HLA-B*1502 allele.
Conclusion: The prevalence of carrying HLA-B*1502 is high in Asian population, especially in Vietnam.
The study show 24.5% patients carry the HLA-B*1502. The identification of patients carrying the HLA-B*1502
allele and the avoidance of carbamazepine therapy in these patients were strongly related with a decrease in the
incidence of carbamazepine - induced SJS/TEN.
Key words: Real-time PCR, HLA-B*1502, carbamazepine.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Động kinh là một trong những bệnh lý thần
kinh nghiêm trọng thường gặp. Bệnhdo các hoạt
động điện não bị rối loạn, gây ra các cơn co giật
tái diễn, có hành vi bất thường và đôi khi mất ý
thức. Bệnh nhân có triệu chứng co giật rất khác
nhau. Một số người đôi khi chỉ có biểu hiện nhìn
chằm chằm trong vài giây, một số khác thì liên
tục co giật tay và chân.
Hiện nay, trên thế giới ước tính có 50 triệu
người động kinh. Tỉ lệ ước lượng trên dân số
chung là 4-10/1.000 người. Ở các nước có thu
nhập thấp và trung bình thì tỉ lệ này cao hơn,
7-14/1.000 người. Tổng thể, ước tính có 2,4
triệu nguời được chẩn đoán động kinh mỗi
năm. Các nước có thu nhập cao, các trường
hợp ghi nhận hằng năm là 30-50/100.000
người, với các nước thu nhập thấp thì tỉ lệ này
cao hơn gấp 2 lần(2). Tại Việt Nam, tỉ lệ mắc
bệnh động kinh là 0,07%, tỉ lệ phát hiện bệnh
mới là 9,6/100.000 dân, tỉ lệ tử vong 1,9/100.000
dân (1). Gần một nửa số trường hợp bệnh động
kinh không có nguyên nhân rõ ràng, số còn lại
được chẩn đoán do di truyền, u não, chấn
thương não do tai nạn, đột quị, bệnh thần kinh
hoặc viêm màng não(5).Bệnh động kinh gây
nguy hiểm khi người bệnh hoạt động như lái
xe, bơi lội.
Carbamazepine là loại thuốc điều trị chống
co giật, được sử dụng nhiều trong điều trị
bệnh động kinh và dùng làm thuốc giảm đau
dây thần kinh sinh ba, rối loạn lưỡng cực. Đặc
biệt carbamazepine được lựa chọn trong điều
trị các bệnh động kinh cục bộ phức tạp ở trẻ
em. Tác dụng của thuốc cũng được ghi nhận là
hiệu quả đáp ứng tốt. Tuy nhiên, theo một số
nghiên cứu, các bệnh nhân là người châu Á
(Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia) khi điều trị
bệnh động kinh với phác đồ Carbamazepine
có nguy cơ cao phát triển hội chứng Steven-
Johnson (SJS) và hoại tử da gây độc (TEN).
Đây là những hội chứng dị ứng trên da
nghiêm trọng. Triệu chứng của SJS là sốt cao,
loét các hốc tự nhiên, tổn thương da: bọng
nước, phồng rộp như phát ban, kèm tổn
thương gan thận, thể nặng dễ dẫn đến tử
vong. TEN cũng có các triệu chứng tương tự,
thậm chí da bong tróc rộng hơn và tỉ lệ tử
vong cao(3). Tỉ lệ tử vong SJS ước tính khoảng
5% và TEN nghiêm trọng hơn từ 25%-35% trên
tổng số ca mắc phải(7). Tình trạng phát triển
hội chứng SJS sau khi sử dụng Carbamazepine
hay xuất hiện ở người châu Á và nguyên nhân
chủ yếu là các dân tộc châu Á có tần số mang
allele HLA-B*1502 cao. Sự liên quan giữa
allele HLA-B*1502 và phát triển hội chứng
SJS/TEN đã được chứng minh(4).Việt Nam nằm
trong khu vực Đông Nam Á, nơi có tần số dân
số mang allele HLA-B*1502 cao, một nghiên
cứu cho thấy 13,5% dân số Việt Nam có mang
kiểu allele HLA-B*1502(6). Vì vậy, chúng tôi
tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu xác
định kiểu gen HLA-B*1502 trước khi điều trị
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016
Chuyên Đề Nội Khoa II 102
carbamazepine cho các bệnh nhân mới được
chẩn đoán động kinh nhằm giúp bác sĩ điều trị
cân nhắc việc sử dụng thuốc, hạn chế hội
chứng SJS-TEN có thể xảy ra ở các bệnh nhân
này.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế thí nghiệm
Mô tả cắt ngang.
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu này được tiến hành trên đối
tượng là các bệnh nhân mới được chẩn đoán
động kinh đến khám tại bệnh viện Đại học Y
dược Tp. HCM và bệnh viện Ngoại Thần Kinh
Quốc tế từ tháng 1-2015 đến tháng 8/2015.
Phương pháp nghiên cứu
Ly trích DNA từ mẫu máu toàn phần
Mẫu máu toàn phần được thu nhận và
chứa trong ống máu chống đông có EDTA.
Không sử dụng chất chống đông là heparin
Mẫu được tách chiết DNA với bộ Kit GE theo
hướng dẫn của nhà sản xuất.
Xác định kiểu gen HLA-B*1502
Kiểu gen HLA-B*1502 được xác định bằng
PG 1502 Detection Kit. SYBR Green là chất
phát huỳnh quang được sử dụng phát hiện
sản phẩm sau phản ứng khuếch đại. Trình tự
các cặp mồi được thiết kế bởi nhà sản xuất.
Thành phần phản ứng theo hướng dẫn của
nhà sản xuất. Hai phản ứng PCR được tiến
hành trên cùng một mẫu bệnh. Phản ứng
khuếch đại đặc hiệu cho kiểu gen HLA-
B*1502, phản ứng còn lại khuếch đại gen
chứng nội G3PDH (internal control – IC). Gen
chứng nội giúp xác nhận được khả năng âm
tính giả do ức chế trong phản ứng PCR.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN.
Chất lượng mẫu tách chiết
DNA mẫu được tách chiết từ mẫu máu toàn
phần bằng bộ kit GE (Health Care). Độ tinh sạch
của DNA được đo bằng máy đo quang phổ có
giá trị OD260/280 nằm trong khoảng 1,7 đến 2,0.
Giá trị Ct
Mỗi mẫu bệnh nhân được đánh giá bằng 2
giá trị Ct, một giá trị Ct từ phản ứng khuếch đại
kiểu gen HLA-B 1502 và một giá trị Ct từ phản
ứng khuếch đại gen chứng nội (internal control –
IC). Sự khác biệt giữa hai giá trị Ct chính là kết
quả của thí nghiệm và được tính theo công thức.
ΔCt = Ct HLA-B 1502 – Ct IC.
Bảng 1: Hướng dẫn đọc kết quả allele HLA-B*1502
IC Ct ≤ 27
Ct HLA-B 1502 ≤ 35
ΔCt ≤ 7 HLA-B*1502
dương tính
ΔCt > 7 HLA-B*1502
âm tính
Ct HLA-B 1502> 35
HLA-B*1502
âm tính
IC Ct > 27
Phản ứng PCR bị ức chế
Kiểm tra lại
Nồng độ DNA thấp
Bảng 2: Kết quả HLA-B*1502
Giới
tính
HLA-B*1502
dương tính (N=48)
HLA - B*1502
âm tính (N=148)
Tổng
(N=196)
Nam 25 (52,1%) 61 (41,2%) 86 (43,9%)
Nữ 23 (47,9%) 87 (58,8%) 110 (56,1%)
Nếu giá trị Ct IC nhỏ hơn hoặc bằng 27 và giá
trị ΔCt nhỏ hơn hoặc bằng 7, kết quả được ghi
nhận HLA-B 1502 dương tính.
Nếu giá trị Ct IC nhỏ hơn hoặc bằng 27 và giá
trịΔCt lớn hơn 7, kết quả được ghi nhận HLA-B
1502 âm tính.
Giá trị Ct HLA-B 1502 > 35 cũng được ghi nhận là
âm tính. Phản ứng PCR bị ức chế hoặc nồng độ
DNA thấp khi giá trị Ct IC lớn hơn 27. Các mẫu
này cần kiểm tra lại.
Kết quả đối với chứng dương và chứng âm
cũng tương tự. Đối với chứng dương, giá trị Ct IC
≤ 27 và ΔCt ≤ 7. Giá trị Ct ở chứng âm không ghi
nhận được hoặc lớn hơn 35.
Nghiên cứu của chúng tôi thu nhận 196 mẫu
bệnh nhân, 48 (24,5%)trường hợp có mang allele
HLA-B*1502. Có 148 (75,5%) trường hợp không
mang allele HLA-B*1502. Phân tích kết quả
nghiên cứu, chúng tôi thấy tần số allele HLA-
B*1502 (24,5%) cao so với các nước trong khu vực
lân cận như Trung Quốc (5-15%), Malaysia (12-
15%), Thái Lan (8-27%)(4,8). Ở các nước Nhật Bản,
Hàn Quốc và Sri Lanka tỉ lệ này rất thấp. Ngược
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Thần kinh 103
lại, dân tộc da trắng và châu Phi hầu nhưng
không mang allele HLA-B*1502. Nhiều nghiên
cứu cũng phát hiện những bệnh nhân có gốc
người Trung Hoa có mang kiểu gen HLA-B*1502
cao, nên tăng nguy cơ phát triển hội chứng
SIS/TEN khi điều trị với Carbamazepine (4, 8). Sự
biến động tỉ lệ HLA-B 1502 cũng đáng chú ý.
Trong khu vực châu Á, tại Hong Kong, Thái Lan,
Malaysia và một phần Philipine có hơn 15% dân
số mang kiểu allele HLA-B*1502 dương tính, so
với 10% dân số Đài Loan. Tuy nhiên, chỉ có 4%
dân số ở phía bắc Trung Quốc mang kiểu gen
này (3). Tại Nam Á, bao gồm Ấn Độ, tỉ lệ trung
bình kiểu allele HLA-B*1502 dao động từ 2-4%
dân số, cao hơn ở một số nhóm dân tộc. Tần số
allele HLA-B*1502 hiện diện ít hơn 1% dân số tại
Nhật Bản và Hàn Quốc. Đặc biệt, phần lớn allele
HLA-B*1502 không xuất hiện ở người da trắng,
người Mỹ gốc Phi, Tây Ban Nha, người Mỹ bản
địa(8).
Cơ chế gây hội chứng Steven-Johnson do sử
dụng carbamazepine vẫn chưa được nghiên cứu
rõ. Theo một số nghiên cứu, Carbamazepine
được chuyển hóa thành dạng có hoạt tính sinh
học và không gây độc cho tế bào, tuy nhiên một
số enzyme tham gia vào quá trình chuyển hóa bị
thiếu, dẫn tới tạo ra một số hoạt chất trung gian
gây độc. Carbamazepine được chuyển thành
dạng có hoạt tính sinh học gồm: Carbamazepine
10,11- epoxide, 3-hydroxy carbamazepine, 2-
hydroxy carbamazepine và carbamazepine 2,3-
epoxide nhờ enzyme cytochrome P450 ở gan.
Hầu hết các phản ứng epoxides đều được khử
độc thành dạng dihydrodiol không độc nhờ vi
lạp thể epoxide hydrolase 1 (EPHX1) ở gan hoặc
tạo thành các liên hợp glutathione bởi
glutathione transferase.
Dị ứng trên da do thuốc được kích hoạt
bởi carbamazepine. Các tế bào gây độc T-CD8
trung gian chính xuất hiện trong hội chứng
SJS. Nhiều bằng chứng cho thấy các dị ứng da
do thuốc liên quan yếu tố phức hợp tương
thích mô chính (MHC) phụ thuộc sự trình
diện cơ chế chuyển hóa với tế bào T hoạt hóa.
Các allele HLA-B khởi động đáp ứng miễn
dịch bằng cách trình diện các kháng nguyên
nội bào cho các tế bào T gây độc, kết quả dẫn
tới sự tăng sinh các tế bào T gây độc.
Nhiều thuốc sử dụng điều trị động kinh co
giật (carbamazepine, phenytoin, henobarbital)
gây hội chứng SJS/TENđã được ghi nhận. Ngoài
ra, allele HLA-B*1502 còn được ghi nhận ở một
nhóm nhỏ bệnh nhân sử dụng thuốc lamotrigine
và phenytoin gây hội chứng SIS/TEN. Nhiều
biến thể allele HLA-B được ghi nhận liên quan
hội chứng SJS/TEN. Ví dụ, HLA-B*5701 đối với
phản ứng quá mẫn khi dùng abacavir, HLA-
B*5801 đối với allopurinol và HLA-B*1513 với
phenytoin(8).
Tuy nhiên, tỉ lệ tần số allele HLA-B*1502 vẫn
còn chưa biết rõ ở nhiều vùng địa lí và các nhóm
dân tộc tại Việt Nam. Với một nghiên cứu cho
thấy 13,5% dân số Việt Nam có mang kiểu allele
HLA-B*1502, nên Việt Nam là nước có nguy cơ
cao bị hội chứng SJS/TEN khi điều trị với
Carbamazepine(6). Nghiên cứu của chúng tôi
thấy được tần suất allele rất cao (24,9%) tương
đương với các nước Asian và nghiên cứu tại
bệnh viện Bạch Mai (8,9). Vì vậy, bệnh nhân mới
mắc bệnh động kinh nên được tầm soát kiểu
allele HLA-B*1502 trước khi cân nhắc sử dụng
thuốc carbamazepine. Thời gian trung bình biểu
hiện hội chứng SJS/TEN do sử dụng
carbamazepine là từ 25-90 ngày. Bệnh nhân đã
điều trị với carbamazepine hơn 3 tháng mà
không có biểu hiện di ứng thì không cần thực
hiện các xét nghiệm HLA-B*1502 mà vẫn tiếp tục
sử dụng thuốc (8).
KẾT LUẬN
Nghiên cứu bước đầu xác định được 24,5%
dân số có mang allele HLA-B*1502. Đây là tỉ lệ
khá cao so với các nước trong khu vực châu Á.
Để giảm tỉ lệ tử vong và tỉ lệ mắc bệnh liên quan
tới sử dụng thuốc Carbamazepine trong điều trị
động kinh, bệnh nhân nên được xét nghiệm xác
định kiểu HLA-B*1502 trước khi điều trị bệnh.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016
Chuyên Đề Nội Khoa II 104
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Brent FP, McLeod HL (2008), "Carbamazepine, HLA-B*
1502 and risk of Stevens-Johnson syndrome and toxic
epidermal necrolysis: US FDA recommendations".
2. Chen P, et all (2011), "Carbamazepine-induced toxic
effects and HLA-B* 1502 screening in Taiwan", New
England Journal of Medicine. 364(12), pp. 1126-1133.
3. Chung WH, et all (2004), "Medical genetics: a marker for
Stevens–Johnson syndrome", Nature. 428(6982), pp. 486-
486.
4. Hoa B, et all (2008), "HLA-A,-B,-C,-DRB1 and-DQB1
alleles and haplotypes in the Kinh population in
Vietnam", Tissue Antigens. 71(2), pp. 127-134.
5. Hung SI, et all (2006), "Genetic susceptibility to
carbamazepine-induced cutaneous adverse drug
reactions", Pharmacogenetics and genomics. 16(4), pp. 297-
306.
6. Lê Dương Hữu, al et (2008), "Tình hình quản lí bệnh động
kinh tại huyện Châu Thành tỉnh Tiền Giang", Tạp chí Y
Học TP. HCM. 12(1), pp. 315.
7. Lim KS, PatrickK, Tan CT (2008), "Association of HLA-B*
1502 allele and carbamazepine-induced severe adverse
cutaneous drug reaction among Asians, a review",
Neurology Asia. 13(6), pp. 15-21.
8. NinaBP, et al (2009), "The descriptive epidemiology of
epilepsy—a review", Epilepsy research. 85(1), pp. 31-45.
9. Van Nguyen Dinh, et all (2015), "HLA-B* 1502 and
carbamazepine-induced severe cutaneous adverse drug
reactions in Vietnamese", Asia Pacific Allergy. 5(2), pp. 68.
Ngày nhận bài báo: 20/11/2015
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20/11/2015
Ngày bài báo được đăng: 15/02/2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xac_dinh_kieu_gen_hla_b1502_o_benh_nhan_moi_duoc_chan_doan_m.pdf