Tài liệu Vốn đầu tư quốc tế và vai trò của FDI đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia: Chương 1: Đầu tư quốc tế và vai trò của FDI đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Lý luận về đầu tư quốc tế:
Khái niệm đầu tư quốc tế:
Đầu tư quốc tế là một quá trình kinh tế trong đó các nhà đầu tư nước ngoài ( tổ chức hoặc cá nhân) đưa vốn hoặc bất kỳ hình thức giá trị nào vào nước tiếp nhận đầu tư để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ nhằm thu lợi nhuận hoặc đạt được các hiệu quả xã hội. Hợp tác đầu tư quốc tê giữa các nước là xu hướng có tính quy luật trong điều kiện tăng cường quốc tế hóa đời sống kinh tế hiện nay
Các hình thức đầu tư quốc tế:
Đầu tư gián tiếp:
Đây là hình thức đầu tư quốc tế mà người bỏ vốn và người sử dụng vốn là hai chủ thể khác nhau.Đầu tư quốc tế được thực hiện theo các dạng sau đây:
+ Viện trợ quốc tế không hoàn lại: Các chính phủ, các tổ chức tài chính, kinh tế xã hội của các nước thong qua các chương trình viện trợ không hoàn lại để trợ giúp các nước chậm phát triển. Chẳng hạn như chương trình xóa đói giảm nghèo, chươ...
34 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1455 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Vốn đầu tư quốc tế và vai trò của FDI đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 1: Đầu tư quốc tế và vai trò của FDI đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Lý luận về đầu tư quốc tế:
Khái niệm đầu tư quốc tế:
Đầu tư quốc tế là một quá trình kinh tế trong đó các nhà đầu tư nước ngoài ( tổ chức hoặc cá nhân) đưa vốn hoặc bất kỳ hình thức giá trị nào vào nước tiếp nhận đầu tư để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ nhằm thu lợi nhuận hoặc đạt được các hiệu quả xã hội. Hợp tác đầu tư quốc tê giữa các nước là xu hướng có tính quy luật trong điều kiện tăng cường quốc tế hóa đời sống kinh tế hiện nay
Các hình thức đầu tư quốc tế:
Đầu tư gián tiếp:
Đây là hình thức đầu tư quốc tế mà người bỏ vốn và người sử dụng vốn là hai chủ thể khác nhau.Đầu tư quốc tế được thực hiện theo các dạng sau đây:
+ Viện trợ quốc tế không hoàn lại: Các chính phủ, các tổ chức tài chính, kinh tế xã hội của các nước thong qua các chương trình viện trợ không hoàn lại để trợ giúp các nước chậm phát triển. Chẳng hạn như chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình nước sạch, chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc… của Việt Nam hiện nay, chương trình lương thực thế giới.
+ Viện trợ quốc tế có hoàn lại: Các chính phủ, các tổ chức tài chính cho các nước đang phát triển vay để phát triển kinh tế, xã hội với lãi suất thấp.
+ Các doanh nghiệp tư nhân của các nước phát triển cho vay (thông qua bán chịu hang hóa với giá cao hơn giá theo quan hệ mậu dịch thông thường), là việc các cá nhân người nước ngoài bỏ tiền mua trái phiếu của chính phủ, các nước nhận đầu tư để hưởng tiền lãi.
Trong các hình thức đầu tư gián tiếp trên đây thì viện trợ không hoàn lại hoặc viện trợ có hoàn lại với lãi suất thấp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nước nhận đầu tư. Các nước nhận đầu tư có thể nhận được những khoản vốn lớn đủ cho phép giải quyết dứt điểm từng vấn đề phát triển kinh tế xã hội của nước mình một cách nhanh chóng (Hàn Quốc, Thái Lan và một số nước khác là những ví dụ điển hình)
Tuy nhiên hình thức đầu tư này thường gắn với sức ép về chính trị, buộc các nước nhận đầu tư phải chấp nhận một sự rang buộc với nước chủ đầu tư. Nước nhận đầu tư phải trả giá về mặt chính trị, chí ít cũng là sự lên tiếng ủng hộ nước chủ đầu tư khi cần thiết.
Đầu tư trực tiếp (FDI):
Đây là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn đầu tư và người sủ dụng vốn là một chủ thể. Có nghĩa là các doanh nghiệp, các cá nhân người nước ngoài (các chủ đầu tư) trực tiếp tham gia vào quá trình quản lý, sử dụng vốn đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư nhằm thu hồi vốn đã bỏ ra.
Trong thực tiễn đầu tư trực tiếp được thực hiện dưới các dạng sau đây:
+ Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh: Đây là một loại hình đầu tư trong đó các bên tham gia hợp đồng ký kết thỏa thuận để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước nhận đầu tư, trên cơ sở quy định rõ đối tượng, nội dung kinh doanh, nghĩa vụ, trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho các bên tham gia.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh do đại diện có thẩm quyền của các bên hợp danh ký. Thời gian có hiệu lực của hợp đồng do các bên thỏa thuận và được cơ quan có thẩm quyền của nước nhận đầu tư chuẩn y.
+ Doanh nghiệp liên doanh: Do các bên nước ngoài với nước chủ nhà cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ vốn góp. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật nước nhận đầu tư. Mỗi bên liên doanh chiu trách nhiệm đối với bên kia, với doanh nghiệp liên doanh trong phạm vi phần vốn của mình trong vốn pháp định. Tỷ lện góp vốn của bên nước ngoài hoặc các bên nước ngoài do các bên liên doanh thỏa thuận.
+ Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: Là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc cá nhân người nước ngoài) do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo luật pháp nước chủ nhà.
Một vài dạng đặc biệt của hình thức đầu tư 100% vốn đầu tư nước ngoài là: Hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyen giao (BOT), hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh (BTO), hợp đồng xây dựng – chuyển giao (BT). Đây là các dạng đầu tư được áp dụng đối với các công trình xây dựng cơ sỏ hạ tầng.
Khu vực tập trung FDI
Khu chế xuất là khu vực lãnh thổ có ranh giới địa lý xác định do chính phủ nước nhân đầu tư cho phép thành lập, trong đó có thể có một hoặc nhiều xí nghiệp sản xuất hang hóa chủ yếu phục vụ xuất khẩu hoặc thay thế nhập khẩu. Trong khu chế xuất, áp dụng chế độ tự do thuế quan, tự do mậu dịch. Để khu chế xuất hoạt động có hiệu quả, nước sở tại cần phải đảm bảo một số điều kiện nhất định về địa điểm đặt khu chế xuất, công tác quản lý, thủ tục hành chính, về dịch vụ cung cấp cho khu chế xuất, về môi trường hấp dẫn đầu tư.
Nguyên nhân của đầu tư quốc tế:
Theo những biến động về tình hình di chuyển vốn quốc tế về vốn, đề tài đã rút ra được những nguyên nhân chủ yếu sau:
Sự phát triển của thương mại quốc tế từ lẩu đã đạt tới mức đòi hỏi phải có sự phát triển của đầu tư quốc tế, phải dựa vào đầu tư quốc tế mới có hiệu quả và tiếp tục phát triển trong tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường thế giới.
Sự phát triển của các phương tiện giao thông, thông tin, liên lạc… đã giúp cho các chủ đầu tư mở rộng không gian đầu tư.
Thể chế chính trị, kinh tế - xã hội của các quốc gia đã có nhiều thay đổi phù hợp với xu thế quốc tế hóa lực lượng sản xuất.
Tình hình an ninh quốc tế ngày càng tốt hơn, đặc biệt là thời kỳ hậu chiến tranh lạnh, cùng với toàn cầu hóa là xu hướng khu vực hóa kinh tế thế giới.
Vai trò của đầu tư trực tiếp FDI đối với nước nhận đầu tư và nước đi đầu tư:
Vai trò đối với nước nhận đầu tư
Tác động tích cực:
Tăng trưởng kinh tế: FDI tác động tích cực đến các yếu tố quan trọng quyết định đến sự tăng trưởng: bổ sung vốn trong nước và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tiếp nhận chuyển giao công nghệ hiện đại, kỹ xảo chuyên môn và phát triể khả năng công nghệ nội địa, phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm, thúc đẩy xuất nhập khẩu và tiếp cận với thị trường thế giới, tạo liên kết giữa các ngành công nghiệp.
FDI là một trong những nguồn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt về vốn, ngoại tệ của các nước nhận đầu tư đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Hầu hết các nước đang phát triển đều rơi vào "vòng luẩn quẩn" đó là: thu nhập thấp dẫn đến tiết kiệm thấp, vì vậy đầu tư thấp rồi hậu quả lại là thu nhập thấp. Tình trang luẩn quẩn này chính là "điểm nút" khó khăn nhất mà các nước này phải vượt qua để hội nhập vào quỹ đạo tăng trưởng kinh tế hiện đại. Nhiều nước lâm vào tình trạng trì trệ của sự nghèo đói bởi lẽ không lựa chọn và tạo được một điểm đột phá chính xác một mắt xích của "vòng luẩn quẩn" này. Trở ngại lớn nhất để thực hiện điều đó đối với các nước đang phát triển đó là vốn đầu tư và kỹ thuật. Vốn đầu tư là cơ sở để tạo công ăn việc làm trong nước, đổi mới công nghệ, kỹ thuật, năng suất lao động… Từ đó tạo tiền đề để tăng thu nhập, tăng tích lũy cho sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên để tạo vốn cho nền kinh tế nếu chỉ trông mong vào tích lũy nội bộ thì hậu quả khó tránh khỏi sẽ là tụt hậu trong sự phát triển chung của xã hội. Do đó, vốn đầu tư nước ngoài là "cú hích" góp phần đột phá cái vòng luẩn quẩn đói nghèo của các nước đang phát triển. Đặc biệt FDI là một nguồn quan trọng để khắc phục tình trạng thiếu hụt vốn mà không gây nợ cho nước nhận đầu tư. Hơn nữa luồng vốn có lợi thế hơn vốn vay ở chỗ: thời hạn trả nợ vốn vay thường cố định và đôi khi quá ngắn đối với một dự án đầu tư, còn thời hạn FDI thì thường linh hoạt hơn. Như vậy FDI không những là một nguồn quan trọng không chỉ để bổ sung nguồn vốn nói chung mà cả sự thiếu hụt về ngoại tên nói riêng bởi FDI góp phần nhằm tăng khả năng cạnh tranh và mở rộng xuất khẩu của nước nhận đầu tư, thu một phần lợi nhuận từ các công ty nước ngoài, thu ngoại tệ từ các hoạt động dịch vụ phục vụ cho FDI.
FDI giúp phát triển khả năng công nghệ của nước chủ nhà, điều này thể hiện qua hai khía cạnh là chuyễn giao công nghệ có sẵn có từ bên ngoài và phát triển khả năng công nghệ của các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng của nước chủ nhà. Đây là những mục tiêu quan trọng được nước chủ nhà mong đợi từ các nhà đầu tư nước ngoài. Chuyền giao công nghệ thông qua FDI thường được thực hiện chủ yếu bởi các tập đoàn xuyên quốc gia (transnational corporations – TNCs) và chuyển giao giữa các chi nhánh của các TNCs. Những năm gần đây, các hình thức này thường đan xen nhau với các đặc điểm rất đa dạng, Phần lớn công nghệ được chuyển giao giữa các chi nhánh của TNCs sang nước đang phát triển ở hình thức 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh có phần lớn vốn nước ngoài, dưới các hạng mục chủ yếu như những tiến bộ công nghệ, sản phẩm công nghệ, công nghệ thiết kế và xây dựng, kỹ thuật kiểm tra chất lượng, công nghệ quản lý, công nghệ marketing. Nhìn chung các TNCs rất hạn chế chuyển giao những công nghệ mới có tính cạnh tranh cao cho các chi nhánh của chúng ở nước ngoài vì sợ lộ bí mật hoặc mất bản quyền công nghệ do việc bắt chước, cải biến hoặc nhái lại công nghệ của công ty nước chủ nhà. Bên cạnh việc chuyển giao công nghệ sẵn có, thông qua FDI các TNCs còn góp phần tích cực đối với tăng cường năng lực nghiên cứu và phát triển công nghệ của nước chủ nhà. Các hoạt động nghiên cứu và phát triển của các chi nhánh TNCs ở nước ngoài đó là cải biến công nghệ cho phù hợp với điều kiện sử dụng của địa phương. Dù vậy, các hoạt động cải tiến công nghệ của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã tạo ra nhiều mối quan hệ liên kết cung cấp dịch vụ công nghệ từ các cơ sỏ nghiên cứu, ứng dụng công nghệ trong nước. Nhờ đó đã gián tiếp tăng cường năng lực phát triển công nghệ địa phương. Mặt khác, trong quá trình sử dụng công nghệ nước ngoài, các nhà đầu tư và phát triển công nghệ trong nước học được cách thiết kế, chế tạo…công nghệ nguồn, sau đó cải biến cho phù hợp với điều kiện sử dụng của địa phương và biến chúng thành công nghệ của mình. Nhờ những tác động tích cực trên, khả năng công nghệ của nước chủ nhà được tăng cường, vì thế nâng cao năng suất các thành tố, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng.
Phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm: FDI ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội tạo ra công ăn việc làm thông qua việc cung cấp việc làm trong các hang có vốn đầu tư nước ngoài. FDI còn tạo cơ hội việc làm trong các tổ chức khác khi các nhà đầu tư nước ngoài mua hàng hóa dịch vụ từ các nhà sản xuất trong nước, hoặc thuê họ thông qua các hợp đồng gia công chế biến. Thông qua trợ giúp tài chính hoặc mở các lớp đào tạo nghề, FDI còn góp phần quan trọng đối với phát triển giáo dục của nước chủ nhà trong lĩnh vực giáo dục đại cương, dạy nghề, nâng cao năng lực quản lý. Tóm lại, FDI đem lại lợi ích về công ăn việc làm. Đây là một tác động kép: tạo thêm việc làm cũng có nghĩa là tăng thêm thu nhập cho người lao động, từ đó tạo điều kiện tăng tích lũy trong nước. Tuy nhiên trong sự đóng góp của FDI đối với việc làm trong các nước nhận đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào chính sách và khả năng kỹ thuật của nước đó.
FDI thúc đẩy xuất khẩu và tiếp cận thị trường thế giới
FDI giúp liên kết các ngành công nghiệp: được biều hiện chủ yếu qua tỷ trọng giá trị hàng hóa, dịch vụ trao đổi trực tiếp từ công ty nội địa trong tổng giá trị trao đổi của các công ty nước ngoài ở nước chủ nhà.
Ngoài ra FDI còn tác động đến cạnh tranh và độc quyền góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế có hiệu quả, giúp cơ cấu kinh tế nước chủ nhà chuyển dịch theo hướng hợp lý hơn đó là tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ và giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp khai thác trong GDP, thúc đẩy sự hòa nhập vào khu vực và quốc tế của nước chủ nhà.
Tác động tiêu cực:
Khi tiếp nhận FDI có nghĩa là nước chủ nhà đã mở cửa giao lưu với nền văn hóa các dân tộc trên thế giới, do đó ngoài việc tiếp thu những điều tốt đẹp không thể tránh khỏi việc du nhập những lối sống không tốt cho nền văn hóa dân tộc…
FDI có thể là mối đe dọa đến an ninh kinh tế của nước chủ nhà thông qua thao túng một số ngành sản xuất quan trọng, những hàng hóa thiết yếu hoặc đẩy mạnh đầu cơ, buôn lậu, rút chuyển vốn đi nơi khác… Hơn thế nữa, vì mục tiêu theo đuổi lợi nhuận cao, không loại trừ việc các tập đoàn xuyên quốc gia TNCs có thể can thiệp gián tiếp vào các vấn đề chính trị của nước chủ nhà.
Các nước đang phát triển có nguy cơ trở thành bãi rác công nghệ do chuyển giao công nghệ cũ, công nghệ không phù hợp với điều kiện của các nước đang phát triển, giá cả đắt hơn thực tế làm cho phía nước chủ nhà bị thiệt thòi trong quá trình chia lợi nhuận do định giá công nghệ quá cao so với giá trị thực tế của nó.
Sàn xuất và quảng cáo sàn phẩm ảnh hưởng xấu tới sức khỏe con người như: rượu bia, thuốc lá, thực phẩm sử dụng nhiều hóa chất.
Coi thường lao động, xúc phạm lao động trong một số trường hợp, khai thác cạn kiệt sức lao động của người làm thuê, làm tăng khoảng cách giàu nghèo giữa các cá nhân, giữa các vùng…
Vai trò của FDI đối với nước đi đầu tư:
Đối với các nước đi đầu tư, vai trò của FDI chủ yếu thể hiện ở những tác động tích cực, cụ thể ở một số khía cạnh như sau:
Khi thị trường trong nước đã bão hòa về một lọa sản phẩm nào đó thì việc đầu tư ra nước ngoài vẫn đem lại một khoản lợi nhuận cao về loại sản phẩm đó do nhu cầu về loại sản phẩm đó ở các nước đang phát triển vẫn là rất lớn.
Việc đầu tư ra nước ngoài ở các công ty có thể tránh được tình trạng cạnh tranh gay gắt diễn ra ở trong nước đi đầu tư.
Các công ty xuyên quốc gia đi đầu tư có thể tận dụng được những yếu tố mà ở trong nước họ không thể có được, ví dụ như: nguồn lao động rẻ, nguồn tài nguyên phong phú mà quốc gia họ không có, thị trường tiêu thụ rộng lớn hơn…
Tại thời điểm khi mà một loại công nghệ có thể đã lỗi thời ở quốc gia họ thì ở các quốc gia đang phát triển đó lại là những công nghệ mới, hiện đại, FDI giúp các nước đi đầu tư tiếp tục thu được ích lợi từ những công nghệ mà nếu sử dụng trong nước không có tác dụng gì nữa. Mặt khác, trong quá trình đầu tư ra nước ngoài thì các nhà đầu tư có thể tận dụng thêm được những công nghệ từ các nước nhận đầu tư hoặc có thể cải biến để những công nghệ mới trở nên có giá trị.
Đặc điểm và xu hướng của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới hiện nay:
Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Các chủ đầu tư nước ngoài phải góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định, tùy theo luật đầu tư nước ngoài (tại Việt Nam khi liên doanh số vốn góp của bên nước ngoài phải lớn hơn hoặc bằng 30% vốn pháp định).
Quyền quản lý xí nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn. Đối với doanh nghiệp liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh thì quyền quản lý doanh nghiệp và quản lý đối tượng hợp tác tùy thuộc và vốn góp của các bên khi tham gia, còn đối với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thì người nước ngoài (chủ đầu tư) toàn quyền quản lý doanh nghiệp.
Lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh và được phân chia theo tỷ lệ vốn góp.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài được thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hoặc từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc sát nhập các doanh nghiệp với nhau.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ gắn liền với di chuyển vốn mà còn gắn liền với chuyển giao công nghệ, chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm quản lý và tạo ra thị trường mới cho cà phía đầu tư và phía nhận đầu tư.
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài hiện nay gắn liền với các hoạt động kinh doanh quốc tế của các công ty đa quốc gia.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài ít chịu sự chi phối của Chính phủ và do các nhà đầu tư hoặc doanh nghiệp tư nhân thực hiện, đặc biệt ít bị phụ thuộc vào mối quan hệ giữa nước của chủ đầu tư và nước gián tiếp nhận đầu tư so với các hình thức di chuyển vốn khác như ODA.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo một nguồn vốn dài hạn cho nước chủ nhà. Do đó, nước chủ nhà sẽ được tiếp nhận một nguồn vốn lớn bổ sung cho vốn đầu tư trong nước mà không phải lo trả nợ.
Trong đầu tư trực tiếp nước ngoài quyền sở hữu và quyền sử dụng gắn liền với chủ đầu tư. Thành viên của hội đồng quản trị và việc điều hành, quản lý quá trình sản xuất kinh doanh được phân theo tỷ lệ vốn góp. Quyền lợi của chủ đầu tư được gắn liền với lợi ích do đầu tư mang lại.
Xu hướng của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới:
2.1.Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới chủ yếu vận động trong nội bộ các nước công nghiệp phát triển nhưng hiện nay tỷ trọng của dòng vốn này giảm dần: Các nước công nghiệp phát triển có trình độ công nghệ cao, cạnh tranh gay gắt nhưng sức mua lớn, môi trường kinh tế tăng trưởng và ổn định. Mặt khác, một nước không bao giờ sản xuất được tất các sản phẩm tốt với hiệu quả cao nhất, vì vậy dòng vốn vận động chủ yếu trong nội bộ các nước công nghiệp phát triển. Vào cuối thập kỷ 80 đầu thập kỷ 90, nền kinh tế các nước công nghiệp phát triển đi vào suy thoái, môi trường đầu tư kém lợi nhuận, trong khi do quá trình quốc tế đời sống kinh tế thế giới, các nước đang phát triể ban hành các chính sách tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Kết quả là, xu hướng đầu tư vào các nước phát triển giảm dần, đầu tư vào các nước đang phát triển tăng lên. Ngoải ra, do cuộc khủng hoảng cách mạng khoa học kỹ thuật đã làm cho nhu cầu thay thế và đổi mới công nghệ lạc hậu được đưa sang các nước đang phát triển và chậm phát triển để thực hiện hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, đây là một nhân tố làm tăng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nước đang phát triển và chậm phát triển.
2.2. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới chủ yếu vận động trong nội bộ các nước cùng khu vực: Xu hướng này xuất hiện là do quá trình hình thành các liên kết kinh tế - chính trị trong các khu vực như: khu vực ASEAN, khu vực tự do Bắc Hoa Kỳ (NAFTA), EU… Các liên minh, liên kết này có những chính sách phát triển kinh tế thống nhất và khuyến khích đầu tư cùng khối, cùng khu vực. Ngoài ra, các nước cùng khu vực có sự tương đồng về văn hóa cho nên dòng vốn chu chuyển giữa các quốc gia cùng khu vực chiếm tỷ trọng rất lớn.
2.3. Có sự thay đổi lớn về tương quan lực lượng các chủ đầu tư trên thế giới: Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, các chủ đầu tư lớn tập trung ở các nước Anh, Hoa Kỳ, nhưng từ năm 1980 đến nay vai trò của các chủ đầu tư Anh, Hoa Kỳ giảm dần. Trong đó sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế và sự tăng giá của các đồng tiền, vai trò của các chủ đầu tư Nhật, Pháp, Đức… có xu hướng tăng lên (đặc biệt là các chủ đầu tư Nhật Bản)
2.4. Có sự thay đổi về cơ cấu và lĩnh vực đầu tư: Hiện này, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một số ngành có xu hướng tăng như: Công nghệ chế biến, công nghệ cao, dịch vụ, ngân hàng…Còn các ngành như: Thực phẩm, khai thác tài nguyên thiên nhiên, sử dụng nhiều lao động có xu hướng giảm dần. Các chủ đầu tư thường tập trung vào các dự án có quy mô nhỏ, tài nguyên chất lượng, có sự ưu đãi của chính phủ và tận dụng thị trường nước sở tại
2.5. Khu vực Đông Á và Đông Nam Á đang trở thành nơi hấp dẫn đầu tư trực tiếp nước ngoài: Khu vực Đông Á và Đông Nam Á có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao và ổn định. Các quốc gia trong khu vực ban hành chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài tạo ra môi trường đầu tư ổn đinh, thông thoáng. Ngoài ra, sự tăng giá của đồng Yên Nhật và chính sách đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản và một số quốc gia khác cũng góp phần không nhỏ trong việc làm tăng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực này.
Đồ thị : tốp 10 quốc gia thu hút nhiều FDI nhất Châu Á
Theo đồ thị thì trong 10 quốc gia thu hút FDI nhiều nhất Châu Á thì có tới 5 quốc gia thuộc khi vực Đông Nam Á trong đó có Việt Nam.
Kinh nghiệm của Trung Quốc:
Trung Quốc được coi là một quốc gia thành công trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cho quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Từ thập kỷ 80, Trung Quốc đã xuất hiện trong danh sách 10 nước đang phát triển đứng đầu thế giới về thu hút FDI. Đặc biệt, trong những năm gần đây với lượng FDI tiếp nhận trung bình mỗi năm khoảng gần 50 tỷ USD. Trung Quốc đã trở thành nước thu hút FDI nhiều nhất Châu Á và là một trong 5 nước thu hút được nhiều FDI nhất thế giới.
So sánh với Việt Nam Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng cơ bản về điểu kiện phát triển và lựa chọn mô hình kinh tế chuyển đổi. Hơn nữa, Việt Nam đã chậm hơn so với Trung Quốc gần 10 năm trong việc thu hút FDI. Vì vậy, việc xem xét học tập kinh nghiệm thu hút FDI phục vụ quá trình hiện đại hóa của Trung Quốc sẽ rất bổ ích đối với nước ta.
Kết quả mà Trung Quốc đạt được thể hiện đường lối đúng đắn của Chính phủ trong việc hoạt động thu hút và sử dụng vốn FDI. Có thể nói hơn 20 năm qua, Trung Quốc đã tuần tự hình thành cục diện mở cửa, đó là: Khu vực ưu đãi thuế quan, đặc khu kinh tế, khu khai phát ngành nghề kỹ thuật, khu khai phát ngành nghề kỹ thuật cao – mới, thành phố mở cửa ven biển, thành phố mở cửa ven sông, nội địa và biên giới.
Sau khi gia nhập WTO tháng 11/2001, Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra hàng loạt chính sách, cơ chế nhằm cải thiện môi trường đầu tư. Đó là
Thực hiện miễn thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng cho các thiết bị sản xuất nhập khẩu
Khuyến khích thành lập công ty buôn bán với nước ngoài, mở cửa thêm một số lĩnh vực mà trước đây người nước ngoài không được đầu tư như viễn thông, bảo hiểm.
Ngăn ngừa các khoản chi phí bất hợp lý, bảo đảm khoản thu hợp phap của doanh nghiệp.
Mở rộng quyền hạn cho từng địa phương, khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao.
Một trong những nguyên nhân khiến Trung Quốc thu hút FDI nhiều và liên tục là về công nghiệp phụ trợ trong nước của họ kết nối tốt với khu vực FDI, điều mà các nhà đầu tư rất cần vì họ có thể tiết kiệm được chi phí đầu tư.
Như vậy, với hàng loạt các chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài cùng với những tiềm năng vốn có của đất nước Trung Quốc đã được đánh giá là nước có môi trường đầu tư thuận lợi nhất Châu Á.
Vì vậy, nhằm thu hút được các dự án đầu tư mới từ Hoa Kỳ và giành được sự tin cậy từ những doanh nghiệp đã đầu tư vào Viêt Nam thì cần phải cải thiện môi trường đầu tư để không thua kém so với Trung Quốc và các nước trong khu vực.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA MỸ TẠI VIỆT NAM
I. Tác động của hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ đến đầu tư FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam
1. Nội dung chủ yếu về hoạt động đầu tư giữa Việt Nam và Hoa Kỳ theo tinh thần Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ:
Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA) có hiệu lực tháng 12.2001
Những nội dung chủ yếu về quan hệ đầu tư giữa Việt Nam và Hoa Kỳ được trình bày trong Chương 4 gồm 15 điều của Hiệp định. Ngoài ra, nội dung về quan hệ đầu tư còn được trình bày ở Phụ lục H và I; các thư trao đổi của đại diện 2 phía tham gia ký kết hiệp định thương mại về chế độ cấp giấy phép đầu tư; và ở Điều 1, Điều 4 Chương 7 của Hiệp định.
Nội dung về quan hệ đầu tư giữa Việt Nam và Hoa Kỳ thể hiện trong Hiệp định là hai Bên cam kết dành thuận lợi cho các nhà đầu tư được hoạt động kinh doanh đầu tư trên thị trường của nhau phù hợp với các thông lệ và quy định của quốc tế. Theo đó, Việt Nam phải bảo đảm môi trường đầu tư mang tính minh bạch: các luật lệ, chính sách, thủ tục hành chính… có liên quan đến hoạt động đầu tư phải được đăng công khai.
Cam kết chung
- Dành bảo hộ không bị sung công đối với đầu tư Mỹ ở Việt Nam
- Quyền giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư với nhà nước, quyền được chọn nhân sự điều hành cao cấp
- Cho phép tự do chuyển tiền trên cơ sở đãi ngộ quốc gia
Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs)
Việt Nam sẽ loại bỏ dần các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại không phù hợp với WTO (ví dụ yêu cầu về hàm lượng nội địa) trong 5 năm, và các TRIMs khác (yêu cầu xuất khẩu sản phẩm) trong khung thời gian tương tự.
Đãi ngộ quốc gia
- Việt Nam cam kết dành đãi ngộ quốc gia chung, có một số ngoại lệ.
Phân luồng đầu tư
- Sẽ dần dần loại bỏ hoàn toàn cho hầu hết các lĩnh vực trong thời hạn 2, 6, hoặc 9 năm (tuỳ thuộc vào ngành đầu tư, ví dụ đầu tư vào khu công nghiệp hoặc đầu tư vào lĩnh vực chế tạo), nhưng Việt Nam bảo lưu quyền phân luồng đầu tư trong một số ngành.
- Bỏ hạn chế góp vốn trong liên doanh.
- Sau 3 năm sẽ xoá bỏ yêu cầu Mỹ trong liên doanh phải đạt tối thiểu 30%, xoá bỏ yêu cầu bán phần góp vốn của Mỹ cho đối tác Việt Nam và thay bằng quyền được mua trước.
Hoạt đông của liên doanh.
- Sau 3 năm sẽ xoá bỏ yêu cầu một số thành viên Hội đồng Quản trị phải là người Việt Nam, và hạn chế số vấn đề cần phải đạt được sự đồng thuận trong Hội đồng Quản trị (tức là những vấn đề mà thành viên Việt Nam được quyền phủ quyết).
Phân biệt giá.
- Loại bỏ dần mọi phân biệt về giá đối với các nhà đầu tư hoặc cá nhân Mỹ (về điện nước, giao thông, thuê nhà cửa, v.v...) ngay hoặc sau 2-4 năm tuỳ theo loại giá.
Quan hệ đầu tư giữa hai Bên Hoa Kỳ và Việt Nam về cơ bản được thiết lập dựa trên 2 nguyên tắc: Đối xử quốc gia và đối xử Tối huệ quốc.
Ø Nguyên tắc Đối xử quốc gia trong hoạt động đầu tư được hiểu là các khoản đầu tư như: việc thành lập, mua lại, mở rộng, quản lý, điều hành, vận hành, bán hoặc định đoạt đầu tư bằng các cách khác, mỗi Bên dành cho Bên khi họ hoạt động đầu tư trên đất nước mình sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho các khoản đầu tư của công dân hoặc công ty của nước mình. Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp trong nước được hưởng những quyền lợi và nghĩa vụ nào trong hoạt động đầu tư thì các nhà đầu tư nước ngoài cũng có những nghĩa vụ và quyền lợi tương tự, hay nói cách khác, các nhà đầu tư Việt Nam được hưởng những ưu đãi và thuận lợi nào trong hoạt động đầu tư thì cũng phải dành cho công dân và các công ty Mỹ những ưu đãi và điều kiện tương tự (thực hiện bình đẳng giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước).
Ø Nguyên tắc Tối huệ quốc trong hoạt động đầu tư được hiểu là các khoản đầu tư như: việc thành lập, mua lại, mở rộng, quản lý, điều hành, vận hành, bán hoặc định đoạt đầu tư bằng các cách khác mỗi Bên dành cho Bên kia khi họ hoạt động đầu tư trên đất nước mình sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho các khoản đầu tư của công dân hoặc công ty của nước thứ ba trên lãnh thổ của mình. Điều đó có nghĩa là Việt Nam đã dành những ưu đãi thuận lợi nào cho công dân hoặc công ty của một nước thứ ba khi họ đầu tư vào Việt Nam, thì cũng phải dành những ưu đãi tương tự cho công dân và các công ty Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, ở Khoản 2 Điều 2 Chương 4 của Hiệp định cũng cho phép mỗi Bên có thể ban hành hoặc duy trì những ngoại lệ trong một số các lĩnh vực hoặc một số vấn đề nêu rõ trong Phụ lục H.
Các quy định áp dụng cho một số lĩnh vực cụ thể được tóm tắt như sau:
Quy định về bãi bỏ chế độ thẩm định cấp giấy phép đầu tư nước ngoài tại Việt Nam:
TRỪ một số ngoại lệ, Việt Nam cam kết chuyển từ chế độ cấp giấy phép đầu tư sang chế độ đăng ký hoạt động đầu tư đối với các dự án đầu tư của phía Hoa Kỳ vào Việt Nam, theo lộ trình tính từ ngày Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ có hiệu lực như sau:
Các dự án của Hoa Kỳ đầu tư vào Việt Nam
Thời hạn áp dụng kể từ HĐ có hiệu lực
1. Các dự án đầu tư vào khu công nghiệp và khu chế xuất; các dự án có vốn đầu tư đến 5 triệu USD
Sau 2 năm
2. Các dự án đầu tư vào sản xuất có vốn đầu tư đến 20 triệu USD
Sau 6 năm
3. Mọi dự án đầu tư nước ngoài TRỪ những dự án ngoại lệ nêu trong Phụ lục H
Sau 9 năm
2. Đánh giá tác động
Đánh giá tác động sau 5 năm thực hiện Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ đối với thương mại, đầu tư và cơ cấu kinh tế của Việt Nam, các chuyên gia của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) nhận định, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tăng mạnh, nhất là trong những lĩnh vực mà Việt Nam có thể mạnh xuất khẩu.
Chuyên gia Steve Perker của Dự án Hỗ trợ thúc đẩy thương mại (Star - Việt Nam) của USAID cho biết, tác động kinh tế trực tiếp nhất của BTA là việc trao Quy chế quan hệ thương mại bình thường (MFN) cho hàng Việt Nam. Thị trường Hoa Kỳ vừa được mở cửa là một lối thoát cho lợi thế cạnh tranh bị dồn nén của Việt Nam, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài và trong nước đầu tư vào các ngành nghề có nhiều khả năng xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Minh chứng cho làn sóng đầu tư này là ngay khi Hiệp định được kấ nháy ở cấp độ kỹ thuật vào năm 1999, lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đổ vào các lĩnh vực này đã tăng mạnh. Riêng trong giai đoạn 1999 - 2005, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ba lĩnh vực quần áo và hàng dệt may, giày dép, chế biến gỗ và đồ gỗ đã tăng bảy lần, từ 120 triệu USD trong năm 1999 lên tới 851 triệu USD trong năm 2005 và sau đó tăng gần gấp đôi lên 1,5 tỷ USD trong năm 2006. Tỷ lệ của các lĩnh vực này trong tổng vốn đầu tư được đăng kấ tăng từ chỉ 3% trong năm 2006 lên đỉnh điểm là 27% trong năm 2003, trước khi quay trở về mức 12% trong năm 2006, khi đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các lĩnh vực khác bắt đầu tăng trưởng mạnh hơn, cũng là khi tác động chung của Hiệp định và các hoạt động cải cách khác bắt đầu có tác dụng đối với toàn bộ nền kinh tế.
Chuyên gia của Star - Việt Nam cũng cho rằng, thời điểm của sự gia tăng đầu tư trực tiếp nước ngoài rất quan trọng. Do hậu quả của cuộc khủng hoảng tại châu á, sự gia tăng đầu tư trực tiếp nước ngoài liên quan đến BTA bắt đầu trở nên mạnh mẽ vào năm 1999, chiếm gần như toàn bộ sự tăng trưởng trong tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong các giai đoạn từ 1999 đến 2003 và đó là một nguồn kích thích cực kỳ quan trọng đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam nói chung. Trong giai đoạn từ 2000 đến 2005, đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ba lĩnh vực này chiếm 16% trong tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được đăng ký, so với mức 5% của năm 1999.
Sự tăng trưởng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần tác động mạnh mẽ đến cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu của hàng Việt Nam sang Hoa Kỳ đã tăng 8 lần trong giai đoạn 2001 - 2006, trong đó đáng chú ý là tỷ lệ tăng trưởng này là nhờ đa dạng hoá các nhóm hàng chế tác. Năm 2001, khi chưa có Hiệp định, 78% hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ là hàng sơ chế, chủ yếu là tôm và các sản phẩm dầu khí. Chỉ hai năm sau khi thực hiện Hiệp định, các mặt hàng xuất khẩu chế tác đã chiếm 72% tổng giá trị xuất khẩu sang Hoa Kỳ, sau đó chững lại ở mức 74 -75%. Sự gia tăng ban đầu chủ yếu là hàng may mặc, nhưng sau từng năm, các hàng chế tác ngoài may mặc cũng đã gia tăng mạnh mẽ.
Tuy nhiên, Việt Nam cũng đã phải trả giá không nhỏ cho sự gia tăng này. Do đầu tư nước ngoài vào hàng xuất khẩu tăng mạnh, nhu cầu nguyên liệu đầu vào cũng tăng theo trong khi nguồn cung trong nước không đáp ứng được đã khiến giá trị gia tăng trong nước từ hàng xuất khẩu của Việt Nam chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Đơn cử như hàng may mặc, chiếm 50% tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ, thì chỉ có từ 5 - 10% giá trị xuất khẩu là giá trị gia tăng trong nước. Phần còn lại là của các nguyên liệu đầu vào nhập khẩu, chủ yếu là từ các nhà cung cấp châu á, sử dụng cho các sản phẩm may mặc thành phẩm. Giá trị nhập khẩu nói chung của Việt Nam tăng mạnh hơn giá trị xuất khẩu nên đã tạo ra sự thâm hụt mậu dịch đáng kể, trong đó giá trị thâm hụt thương mại với các nước còn lại trên thế giới vượt trên cả giá trị thặng dư thương mại song phương với Hoa Kỳ. Thâm hụt mậu dịch nói chung của Việt Nam tăng từ 1,2 tỷ USD năm 2001 lên 5,1 tỷ USD năm 2006.
Mặc dù vậy, BTA thật sự đã có những tác động mạnh mẽ đến thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam. Theo điều tra của Star - Việt Nam, hầu hết các nhà đầu tư nước ngoài đều cho rằng, BTA có tác động quan trọng đối với các quyết định đầu tư của họ ở Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài của Hoa Kỳ, tất cả các DN có vốn đầu tư nước ngoài có xuất khẩu sang Hoa Kỳ và tất cả các DN có vốn đầu tư nước ngoài trong các ngành dịch vụ. Đồng thời, theo ông Steve Parker, BTA cũng có tác động gián tiếp nhờ việc cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy quá trình gia nhập WTO của Việt Nam và góp phần cải thiện sự kỳ vọng vào sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ và bền vững.
II. THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN FDI CỦA MỸ TẠI VIỆT NAM
1. Quy mô vốn đầu tư
Trong những năm gần đây, sự thay đổi trong môi trường đầu tư của Việt Nam đã thu hút không ít nhà đầu tư nước ngoài, Trong đó, có không ít nhà đầu tư của Hoa Kỳ, theo nhận định của các nhà kinh tế thì Việt Nam đang dần trở thành điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư Hoa Kỳ.
Theo tính toán của tổng cục thống kê thì trong số các nước đầu tư vào Việt Nam trong thời gian qua, thì dẫn đầu vẫn là Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Xingapore, còn Hoa kỳ vẫn còn chiếm một con số rất khiêm tốn. Nếu xét từ năm 1988 đến năm 2006 thì cả nước thu hút được 8.266 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong đó dẫn đầu là Đài Loan với 1.743 dự án, tiếp theo là Hàn Quốc với 1.438 dự án, Nhật Bản 838 dự án, Xingapore 543 dự án và Trung Quốc là 508 dự án, riêng của Hoa Kỳ chỉ có 374 dự án đầu tư vào Việt Nam. Đây là một con số còn rất khiêm tốn trong toàn cảnh bức tranh đầu tư trực tiếp nước ngoài của nước ta.
Biểu đồ 1: Tỷ lệ vốn đầu tư trực tiếp của các nước vào Việt Nam giai đoạn 1988-2006
Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), trong tháng 9-2007, có 231 dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký là 1.187 triệu USD, đưa tổng số dự án cấp trong 9 tháng đầu năm 2007 lên 1.045 dự án với tổng vốn đầu tư là 8,29 tỷ USD, tăng 33% về số dự án và 60,2% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2006; có 27 dự án tăng vốn với tổng vốn đầu tư đăng ký tăng thêm là 96 triệu USD, nâng tổng số dự án tăng vốn trong 9 tháng 2007 lên 274 dự án, với tổng vốn tăng thêm là 1.316 triệu USD, bằng 82% về số dự án và 73,6% về vốn bổ sung so với cùng kỳ năm 2006.
Như vậy, trong 9 tháng đầu năm 2007, Việt Nam đã thu hút 9,6 tỷ USD vốn FDI, tăng 38% so với cùng kỳ năm 2006. Với con số này, kế hoạch Việt Nam thu hút 13 tỷ USD vốn FDI trong năm 2007 là khả thi.
Cùng với những dấu hiệu khả quan đó, dòng vốn đầu tư của các nhà đầu tư Hoa Kỳ vào Việt Nam cung không ngừng tăng lên, cả về số lượng lẫn quy mô. Có thể thấy rằng dòng vốn đầu tư của Hoa Kỳ "đổ" vào Việt Nam trong giai đoạn này thông qua 3 hình thức: Thứ nhất là hình thức trực tiếp, thứ hai là hình thức gián tiếp bằng việc các doanh nghiệp Hoa kỳ mua cổ phần của các doanh nghiệp Việt Nam và trở thành những đối tác chiến lược; hình thức thứ 3 là cung cấp tín dụng cho xuất nhập khẩu, phục vụ các dự án đầu tư cho doanh nghiệp Việt Nam.
Từ đầu năm 2006, khu công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh của Việt Nam được lựa chọn là điểm đến của Intel sau khi tập đoàn này đã lựa chọn trên 150 quốc gia. Dự án 605 triệu USD này của Intel cũng đã góp phần đưa Thành phố Hồ Chí Minh vươn lên đứng đầu trong cả nước về thu hút đầu tư nước ngoài trong 6 tháng đầu năm 2006, chiếm hơn 30% tổng vốn đăng ký của cả nước. Và dự án này cũng là “sự đảm bảo vàng” cho các tập đoàn khác chú ý đến môi trường đầu tư của Việt Nam, không chỉ cho các nhà đầu tư Hoa Kỳ mà còn của các quốc gia khác.
Tiếp theo đó, chuyến thăm Hoa Kỳ của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và đoàn 150 doanh nghiệp vào đầu năm 2007 với những buổi làm việc dày đặc với cộng đồng doanh nghiệp Hoa Kỳ là một thông điệp khẳng định rằng các doanh nghiệp Việt Nam muốn tăng cường làm ăn với các doanh nghiệp Hoa Kỳ và nó đã góp phần thúc đẩy làn sóng đầu tư từ Hoa Kỳ vào Việt Nam trong thời gian tới. Qua chuyến đi này, các doanh nghiệp Hoa Kỳ đang rất quan tâm và đẩy mạnh đầu tư vào các dự án lớn, nhất là lĩnh vực cơ sở hạ tầng, xây dựng các cảng biển, các nhà máy điện... Theo dự báo, một số cảng biển của Việt Nam sẽ không thể đáp ứng được nhu cầu lưu chuyển hàng hoá trong thời gian tới, do vậy mà các doanh nghiệp Hoa Kỳ đang rất quan tâm đầu tư vào lĩnh vực này.
Và trong mấy tháng đầu năm 2007, cũng đã có một số dự án lớn đáng chú ý của các nhà đầu tư Hoa Kỳ vào Việt Nam. Trong đó, Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam vừa đề nghị Thủ tướng chấp thuận cho Tập đoàn Alcoa Của Hoa Kỳ đầu tư dự án liên doanh khai thác quặng bôxít và xây dựng nhà máy tuyển Alumin công suất 1,3 triệu tấn/năm tại tỉnh Đắk Nông.
Tập đoàn Alcoa đã thể hiện quyết tâm tham gia dự án trên bằng việc chấp nhận tất cả các điều kiện do Tập đoàn công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam đưa ra, đồng thời cam kết xây dựng một tuyến đường sắt từ Tây Nguyên ra biển để vận chuyển nguyên phụ liệu và tăng cường vận tải cho khu vực. Không những thế, tập đoàn còn cho biết sẵn sàng cùng Vinacomin tăng vốn đầu tư cho dự án từ 1,5 tỷ USD lên 3 tỷ USD.
Tiếp theo đó, sau 2 năm nghiên cứu, tìm hiểu thị trường, Tập đoàn Tài chính EurOrient của Hoa Kỳ đã quyết định chọn Việt Nam để đầu tư trong những năm tới. EurOrient là một Tập đoàn tài chính phát triển toàn cầu có tài sản trị giá 33 tỉ USD đã có mặt tại 40 quốc gia trên thế giới. Hàng chục dự án được Tập đoàn này thực hiện tại các nước đang phát triển với tổng giá trị lên đến 15 tỉ USD. Trước mắt, 4 lĩnh vực EurOrient sẽ tập trung đầu tư tại Việt Nam là: Điện lực, hạ tầng giao thông, khoa học công nghệ và tài chính. Dự kiến trong 5 năm đầu, mỗi năm EurOrient sẽ đầu tư từ 3 đến 4 dự án với vốn đầu tư khoảng 1 tỉ USD.
Như vậy, chúng ta có thể thấy được dòng vốn đầu tư của các nhà đầu tư Hoa Kỳ đang dần chú ý đến Việt Nam. Tuy nhiên cũng có thể nhận thấy được rằng nguồn vốn này là còn khá khiêm tốn. Vì vậy, để nâng cao dòng vốn này của các nhà đầu tư Hoa Kỳ, chúng ta cần phải tận dụng các lợi thế sẵn có, cần phải "gia tốc" hơn nữa và tranh thủ thời gian hơn nữa. Do các doanh nghiệp Việt Nam đang phải cạnh tranh mạnh mẽ với các doanh nghiệp khác trong khu vực về lợi thế. Ví dụ khi Intel đầu tư vào Việt Nam, họ đã đưa lên bàn cân so sánh giữa Việt Nam với các nước khác trong khu vực như: Trung Quốc, Ấn Độ... Do vậy theo tôi việc giải quyết nhanh chóng các thủ tục hành chính để tính đến lợi ích dài hạn của nền kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng.
Thực tế hiện nay các doanh nghiệp Hoa Kỳ rất quan tâm tới việc đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng, giao thông, điện lực... Vì vậy chúng ta phải giải quyết sớm các yếu kém trong lĩnh vực này. Một ví dụ điển hình là khi giới thiệu với các doanh nghiệp Hoa Kỳ về các địa điểm đầu tư tại Việt Nam, các doanh nghiệp Hoa Kỳ tỏ ra rất e ngại về vấn đề giao thông, họ nói rằng họ chấp nhận những điều kiện đầu tư vào các địa điểm đó nhưng vấn đề giao thông, đi lại tại các khu vực đó quá nhỏ, không đáp ứng được việc lưu chuyển hàng hoá. Do vậy có thể khẳng định rằng hạn chế về cơ sở hạ tầng đặc biệt là giao thông vận tải đang là điều mà chúng ta cần quan tâm cần giải quyết để không chủ tạo sự tin tưởng của các nhà đầu tư Hoa Kỳ mà còn các nhà đầu tư ở các quốc gia khác.
Cùng với những chuyển biến tích cực trong quan hệ ngoại giao và kinh tế giữa Việt Nam-Hoa Kỳ trong thời gian qua, chính phủ Việt Nam cũng đã không ngừng cải thiện môi trường đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy, trong những năm tới đây nước ta sẽ ngày càng thu hút được nhiều hơn vốn đầu tư của các nhà đầu tư Hoa Kỳ nói riêng, và của các quốc gia khác trên thế giới nói chung. Tạo nguồn lực để nước ta thực hiện công cuộc Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa đất nước, đưa đất nước cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020
So với các nhà đầu tư khác, các nhà đầu tư Mỹ đang trên đà tăng vốn thực hiện các dự án rất lớn. Với đà gia tốc này, hi vọng trong tương lai, Mỹ sẽ là nhà đầu tư số 1 tại Việt nam.
Vốn thực hiện của sáu nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam
(năm 2000-2004)
(triệu USD)
Qua biểu đồ trên ta thấy: Hầu hết các nước đang tăng thêm vốn thực hiện tại Việt. Cùng Với Hàn Quốc, Hà Lan.. thì gia tốc tăng vốn của Mỹ là khá cao, các chuyên gia nhận định đây là do ảnh hưởng của Hiệp định song phương Việt - Mỹ ký tháng 12 năm 2001.
2. Vốn đầu tư phân theo ngành
Qua khảo sát, Cục Đầu tư nước ngoài cho biết, đầu tư của Mỹ tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng với tổng số vốn 1,077 tỷ USD. Trong đó, riêng lĩnh vực công nghiệp nặng thu hút nhiều dự án nhất trong lĩnh vực công nghiệp.
Dầu khí là ngành có quy mô đầu tư lớn nhất khoảng 20,6 triệu USD/dự án với sự hiện diện của nhiều tập đoàn lớn như Unocal và Conoco... Đứng tiếp theo là lĩnh vực dịch vụ có 69 dự án và tổng vốn đầu tư 791 triệu USD; còn lại là các dự án trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp.
Các nhà đầu tư Mỹ chủ yếu lựa chọn hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài. Các dự án theo hình thức này chiếm khoảng 78,2% và 69% về vốn đăng ký. Bên cạnh đó còn có các hình thức liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh được thực hiện nhiều trong các dự án thăm dò và khai thác dầu khí...
Đặc biệt, Mỹ đã có một dự án được cổ phần hóa là Công ty Công nghiệp Cổ phần Tungkwang có vốn đầu tư 35 triệu USD chuyên sản xuất thanh nhôm. Các nhà đầu tư Mỹ đã có mặt tại 33/64 tỉnh thành cả nước nhưng tập trung một số đại phương có điều kiện thuận lợi như: Tp.HCM, Đồng Nai, Hà Nội, Bình Dương.
Trong đó, Tp. HCM thu hút được nhiều dự án nhất với số vốn đạt 455 triệu USD, Bà Rịa- Vũng Tàu đứng thứ hai với 332 triệu USD và Đồng Nai với 284 triệu USD.
Chính vì vậy, một loạt các thoả thuận đã được ký kết giữa doanh nghiệp hai nước lên tới gần 11 tỉ USD, đa số tập trung vào các lĩnh vực: cơ sở hạ tầng, cảng biển, nhà máy điện, khu công nghiệp, khu đô thị... ngoài ra còn đầu tư vào các dự án phát triển thị trường tài chính và các thể chế tài chính khác, công nghệ cao, viễn thông, công nghệ thông tin, các hợp đồng xuất nhập khẩu, giáo dục và đào tạo. Đặc biệt có dự án liên doanh thành lập trường đại học kỹ thuật tại Việt Nam. Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, Hoa Kỳ là cường quốc số 1, do vậy mà các doanh nghiệp Việt Nam cũng đang tiếp cận chặt chẽ với các đối tác Hoa Kỳ, tôi cho rằng đây là một lĩnh vực có rất nhiều triển vọng hợp tác.
Có thể nói rằng cùng với quy mô, chất lượng các dự án được ký kết trong dịp này cũng cao hơn so với những lần trước. Phần lớn những dự án này đều là những lĩnh vực mà Hoa Kỳ có trình độ cao.
Bảng 2. dưới đây thể hiện rõ hơn vốn đầu tư nước ngoài phân theo ngành tính từ thời điểm 1988 đến hết năm 2004
Đầu tư của HK gồm cả nước thứ 3
Không bao gôm nước thứ 3
STT
Lĩnh vực đầu tư
Số dự án
Vốn ĐKBĐ
Vốn TH
Số dự án
vốn đăng ký
Vốn thực hiện
I
Công nghiệp và xây dựng
176
1.751
2.208
149
822
519
1
Công nghiệp nặng
92
648
385
80
487
234
2
Công nghệ thực phẩm
19
557
693
16
67
9
3
Dầu mỏ
8
219
1.430
6
124
232
4
Xây dựng
15
196
146
11
82
26
5
Công nghiệp nhẹ
42
131
120
36
63
19
II
Nông-lâm-ngư-nghiệp
26
198
87
24
153
62
1
Nông-lâm nghiệp
24
187
82
22
142
58
2
thuỷ sản
2
12
4
2
12
4
III
Dịch vụ
65
653
339
42
316
149
1
Khách sạn du lịch
13
267
72
5
73
3
2.
Văn hóa- y tế-giáo dục
12
136
35
11
86
34
3.
Tài chính-ngân hàng
10
11
103
4
65
37
4
Bưu chính viễn thông
12
67
60
10
44
46
5
Căn hộ cho thuê
2
37
41
1
16
8
6
dịch vụ khác
15
33
25
10
27
19
7
Phát triển khu công nghiệp-khu chế xuất
1
5
3
1
5
3
Tổng số
267
2.602
2.634
215
1.291
730
Chênh lệch I-II
52
1.310
1.904
Qua bảng trên ta có nhận xét:
Các nhà đầu tư Mỹ tập trung nhiều vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng (176/276) dự án với số vốn thực hiện là 2208 triệu USD. Còn các ngành khác chỉ chiếm 100/276 dự án.
Trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, thì có tới tận 92 dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp nặng.
Tiếp theo là lĩnh vực dịch vụ với 65 dự án và 339 triệu USD vốn thực hiện. Như chúng ta đã biết, dịch vụ là ngành có thế mạnh của Mỹ, tuy nhiên con số khiêm tốn kể trên thể hiện Việt Nam chưa có nhiều sức thu hút các nhà đầu tư Mỹ trong lĩnh vực này. Nếu không tính đầu tư qua nước thứ 3 thì con số thống kê còn khiêm tốn hơn. Số dự án ít hơn là 52, số vốn thực hiện cũng rút ngắn đi 1.904 triệu USD.
3. Đầu tư của Hoa kỳ theo hình thức đầu tư
Bảng 2. Đầu tư Mỹ vào Việt Nam theo hình thức đầu tư
Đầu tư hoa kỳ thông qua nước thứ 3
(không qua nước thứ 3)
STT
Hình thức đầu tư
Số dự án
Vốn ĐKBĐ
Vốn TH
số dự án
vốn ĐKBĐ
Vốn TH
1
100% vốn nước ngoài
192
1.636
1.104
159
853
267
2
Liên doanh
59
732
662
42
300
229
3
hợp đồng hợp tác kinh doanh
16
234
867
14
139
235
Tổng
267
2.602
2.634
215
1.291
730
Chênh lệch
52
1.310
1.904
Nguồn: Bộ kế hoạch đầu tư
Nếu tính cả dự án đầu tư của Mỹ thông qua nước thứ 3, trong tổng số 267 dự án đầu tư vào Việt Nam thì có tới 192 dự án theo hình thức 100% vốn nứớc ngoài chiếm 71,91% số dự án. Số vốn thực hiện lên tới 1.104 triệu USD chiếm 41,91% tổng số vốn thực hiện.
Tiếp đến là dự án theo hình thức liên doanh với 59 dự án với số vốn thực hiện là 662 triệu USD chiếm 25,13%.
Cuối cùng là 16 dự án theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh số vốn đăng ký và thực hiện lớn hơn hình thức liên doanh, là 867 triệu USD chiếm 32,92% tổng vốn thực hiện. Nguyên nhân là do các dự án này có số lượng ít nhưng giá trị thực hiện lại cao, đó thường là các dự án xây dựng cơ bản có số vốn lớn
III. Những cơ hội và thách thức của Việt Nam trong việc thu hút đầu tư trực tiếp cùa Hoa Kỳ khi gia nhập tổ chức WTO:
Sau rất nhiều vòng đàm phán và thỏa thuận, ngày 7 tháng 11 năm 2006 Việt Nam đã chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Việt Nam đã trông đợi ngày này từ lâu, nó đã thể hiện một bước tiến lớn của Việt Nam trong quá trình toàn cầu hóa và thích ứng với xu thế của thời đại của nền kinh tế thế giới hiện nay. Tuy nhiên việc gia nhập WTO không chỉ mang đến toàn những cơ hội mà nó còn ẩn chứa rất nhiều thách thức. Nhất là đối với đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam điều này càng thể hiện rõ, cơ hội luôn đi kèm với thách thức.
Những cơ hội mở ra cho Việt Nam:
Khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, Việt Nam phải thực hiện rất nhiều cam kết. Ngoại trừ các cam kết liên quan đến vấn để thương mại còn có những cam kết quan trong về đầu tư. Đó là cam kết về tao thuận lợi cho hoạt động đầu tư liên quan đến thương mại: Việt Nam đã cam kết tuân thủ hoàn toàn HIệp định TRIMs của WTO. Cam kết xóa bỏ các rào cản về đầu tư, với mục tiêu tổng thể để tăng cường tính hấp dẫn, thông thoáng và minh bạch của môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nhìn chung mức độ cam kết sẽ cao hơn nhiều so với cam kết của Việt Nam trong Hiệp định thương mai Việt Nam – Hoa Kỳ.
Ngoài các cam kết chính kể trên, Việt Nam cũng phải đưa ra các cam kết xây dựng chương trình hành động, chương trình xây dựng pháp luật, bảo về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mai, thủ tục hải quan, tiêu chuẩn kỹ thuật và hợp chuẩn…
Trong thời gian tới khi đã là thành viên của WTO, Việt Nam sẽ phải tuân thủ hoàn toàn Hiệp định TRIMs của WTO, theo đó Việt Nam bắt buộc phải cải cách các chính sách liên quan đến đầu tư theo hương giảm thiểu các rào cản trái với quy định của WTO, bãi bổ sự phân biệt đối xử theo MFN và NT. Việc phải tuân thủ nguyên tắc minh bạch hóa và tính dự báo các quy định, chính sách thể chế thương mại, các nhà đầu tư sẽ yên tâm hơn khi tiến hành đầu tư. Hơn nữa có thị trường tiêu thụ rộng lớn thì các nhà đầu tư mới yên tâm đầu tư vào Việt Nm
Bên cạnh đó Việt Nam cũng nhận được nhiếu sự hỗ trợ về tài chính, tín dụng và viện trợ không hoàn lại của các tổ chức và các Chính phủ nước ngoài. Việc thực hiện những cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ chắc chắn sẽ kéo theo một làn sóng đầu tư nước ngoài vào nhiều ngành kinh tế như phân phối, bảo hiểm, ngân hàng, viễn thông…
Như vậy, với những lợi ích trên thì các nhà đầu tư nói chung mà nhà đầu tư Hoa Kỳ nói riêng sẽ yên tâm khi đầu tư vào Việt Nam. Điểu đó cũng đồng nghĩa với việc Việt Nam sẽ có khả năng thu hút được nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Hoa Kỳ trong thời gian tới.Lượng vốn đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam tính đến tháng 9/2007 đạt khoảng 5,1 tỷ USD (cả qua nước thứ 3) và đạt hơn 2,6 tỷ USD theo cách thông thường, xếp thứ 7 trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
Hiện có hơn 1000 doanh nghiệp Mỹ đang hoạt động tại Việt Nam. Giá trị đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện liên quan đến Hoa Kỳ phân bổ chủ yếu ở các ngành sử dụng nhiều kỹ năng/vốn. Khoảng một nửa là ở lĩnh vực dầu khí, khoảng 1/3 tập trung ở các ngành chế tạo, còn lại là ở các ngành dịch vụ, phát triển bất động sản và nông nghiệp.
Bên cạnh đầu tư trực tiếp, các nhà đầu tư nước ngoài đã và đang tăng nhanh hoạt động đầu tư gián tiếp vào Việt Nam, trong đó khoảng từ 1/3 đến 1/2 tổng số vốn đầu tư gián tiếp rót vào Việt Nam tính đến giữa năm 2006 là từ Hoa Kỳ.
Trong các quỹ đầu tư liên quan đến nguồn vốn từ Hoa Kỳ đang hoạt động tại Việt Nam, có thể kể đến việc các nhà đầu tư Mỹ chiếm khoảng 45% vốn trong quỹ Indochina Capital; vốn góp từ phía Mỹ là 30% trong Công ty Việt Nam Partners; hoặc trường hợp của Dragon Capital có tới 30% là vốn từ các nhà đầu tư Mỹ. Quỹ đầu tư mạo hiểm của IDG cũng có toàn bộ vốn góp của Mỹ.
Những thách thức Việt Nam phải đối mặt:
Ngoài những cơ hội trên không phải là không có thách thức bởi quốc gia nào khi tiến hành đàm phán để được chấp nhận cho một quốc gia khác tham gia WTO đểu mong muốn quốc gia mình có đươc lợi ich, Trong khi đó, quá trình đàm phán gia nhập WTO giữa Việt Nam với Hoa Kỳ diễn ra căng thẳng nhất về những cam kết khó thực hiện. Do đó, Việt Nam luôn phải đối mặt với những thách thức trong vấn để thu hút đầu tư của Hoa Kỳ khi đã là thành viên của WTO.
Các doanh nghiệp Hoa Kỳ rất mạnh do đó cảng thu hút đươc nhiều nhà đầu tư Hoa Kỳ vào Việt Nam cũng đồng nghĩa với các doanh nghiệp trong nước phải đứng trước khả năng cạnh tranh lớn. Những doanh nghiệp không vững vàng sẽ không thể trụ nổi. Gia nhập WTO Việt Nam đã phải cam kết rất nhiều về xóa bỏ những rào cản, những phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài do đó việc cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ trong thời gian tới.
Mục tiêu và đinh hướng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nói chung và thu hút vốn đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ nói riêng:
Mục tiêu và định hướng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nói chung:
Mục tiêu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nói chung:
Mục tiêu thu hút và sử dụng có hiệu quả FDI cho phát triển kinh tế Việt Nam trong thời gian tới phải phù hợp với mục tiêu đặt ra trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm (2001-2010). Mục tiêu của chiến lược này là phải đưa Việt Nam thoát khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao.
Trên cơ sở của Chiến lược 10 năm, có thể xác định mục tiêu huy động và sử dụng vốn FDI đối với phát triển kinh tế 10 năm tới như sau:
Thứ nhất, mục tieu thu hút nguồn vốn FDI: vốn FDI phải được thu hút từ những công ty, tập đoàn đa quốc gia trên thế giới (TNCs) tại các nước công nghiệp phát triển như: Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Nhật Bản, Đức… nhằm tận dụng năng lực tài chính, công nghệ nguồn và thị phần lớn các tập đoàn đến từ các quốc gia này.
Thứ hai, mục tiêu sử dụng vốn FDI: phải tập trung thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đi đôi với việc giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Cụ thể trong thời gian tới, cô găng phần đấu tăng tỷ lệ đóng góp của khu vực FDI đối với GDP, đẩy mạnh xuất khẩu của khu vực này, sử dụng và khuyến khích FDI vào quá trình chuyển giao công nghệ, hướng đầu tư nước ngoài vao xây dựng kết cấu hạ tầng, hướng đầu tư nước ngoài vào các ngành sử dụng lao động để giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, hướng doanh nghiệp FDI trở thành khu vực đi đầu trong vấn đề bảo vệ môi trường.
Định hướng thu hút đầu tư trục tiếp nói chung:
Định hướng tác động của vốn FDI đối với phát triển kinh tế Việt Nam phải phù hợp với yêu cầu và quan điểm về phát triển kinh tế do đại hội Đảng lần thư IX đặt ra. Quan điểm của Đảng đối với phát triển kinh tế là "phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với việc thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường". Dựa trên quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế có thể định hướng tác động của FDI đối với phát triển kinh tế như sau:
Thứ nhất, đối với tăng trưởng kinh tế: định hướng thu hút và sử dụng vốn FDI vào ngành công nghiệp năng, xây dựng kết cấu cơ sở hạ tầng, lĩnh vực đẩy mạnh xuất khẩu, chế tạo sản phẩm có giá trị cao và hàm lương hoa học công nghệ cao nhằm đẩy mạnh xuất khẩu và tạo bước đột biến về tăng trưởng kinh tế đối với Việt Nam.
Thứ hai, đối với việc thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường: định hướng thu hút và sử dụng vốn FDI đối với những ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ có sử dụng nhiều lao động nhằm giải quyết việc làm cho người lao động và giảm tỷ lệ thất nghiệp, khuyến khích các dự án có vốn FDI đầu tư vào các địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn và địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn với mục đích rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các vùng, khuyến khích thu hút và sử dụng vốn FDI vào việc chuyển giao công nghệ sạch và những ngành duy trì và bảo vệ môi trường
Mục tiêu và định hướng thu hút đầu tư trực tiếp từ Hoa Kỳ vào Việt Nam nói riêng:
Mục tiêu và định hướng thu hút đầu tư trực tiếp từ Hoa Kỳ vào Việt Nam nhìn chung cùng phải đáp ứng mục tiêu định hướng thu hút đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Ngoải ra còn có một số mục tiêu và đinh hướng cụ thể như sau:
Thứ nhất, đó là mặc dù Việt Nam đã gia nhâp WTO với những cam kết đảm bảo xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư Hoa Kỳ cũng như những rào cản khác, song vần phải giới hạn ở những mức độ phù hợp để tạo môi trường cạn tranh lành mạnh cho nhà đầu tư trong và ngoài nước. Song song với nó là phải đảm bảo việc quản lý các dự án FDI sao cho chặt chẽ để thực thi tốt các cam kết đối với thế giới.
Thứ hai, đó là việc thu hút đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ cũng phải tập trung giải quyết việc làm, giảm thiểu sự mất cân đối trong đầu tư giứa các vùng ngành song cũng vẫn phải đảm bảo ổn định chính trị, tiến bộ công bằng xã hội và môi trường. Đặc biệt phải chú trọng bảo vệ quyền lợi cho người lao động trong các doanh nghiệp FDI của Hoa Kỳ.
Thứ ba, đó là phải cố gắng nâng cao hơn nữa vai trò của phía đối tác Việt Nam trong các doanh nghiệp liên doanh với Hoa Kỳ, không chỉ dừng lại ở việc quyền sử dụng đất mà còn ở vấn đề quản lý, nhân lực… để phía Việt Nam có thể có được lợi ích nhiều hơn, không bị các doanh nghiệp Hoa Kỳ lấn áp.
Giải Pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam:
Tăng cường các hoạt động xúc tiến đầu tư với Hoa Kỳ:
Chính sách xúc tiến đầu tư là mọt trong những chính sách đối ngoại quan trọng nhất nhằm quảng bá hình ảnh,môi trường đầu tư của Việt Nam ra các nước trên thế giới. Đây cũng là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sự thành công về thu hút nguồn vốn FDI của các nước trên thế giới nói chung và của Hoa Kỳ nói riêng. Mỗi quốc gia khác nhau đều có những hoạt động xúc tiến đầu tư khác nhau. Trách nhiệm tiến hành hoạt động xúc tiến đầu tư là thuộc về các cơ quan nhà nước và Chính phủ thông qua các hình thức: vận động đầu tư nước ngoài kết hợp với các chuyến viếng thăm của những người đứng đầu Nhà nước và Chính phủ, tổ chức các buổi hội thảo trong và ngoài nước giới thiệu các chính sách về đầu tư nước ngoài, tuyên truyền phổ biến các chính sách ưu đãi thông qua các hình thức ấn phẩm. Cụ thể nhóm giải pháp về xúc tiến đầu tư gồm những nội dung sau:
Thứ nhất, hoạt động xúc tiến đầu tư của các nhà lãnh đạo cấp cao. Đây là hoạt động mang tính chất chính trị, có vai trò khằng định với HOa Kỳ la Việt Nam sẵn sang hợp tác với nhà đầu tư Hoa Kỳ. Chúng ta cần kết hợp hoạt động xúc tiến đầu tư nước ngoài với các chuyến viếng thăm của các nhà lãnh đạo nhà nước và chính phủ tại các diễn đàn kinh tế quan trọng như: ASEAN, APEC, WTO, ASEM…
Thứ hai, xúc tiến thông qua tổ chức hội thảo và quàng bá môi trường đầu tư tại Việt Nam, Tăng cường tổ chức các hội thảo về xúc tiến đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, đặc biệt chú trọng vào viecj tổ chức các hội nghị xúc tiến đầu tư tại các nước công nghiệp phát triển (cụ thể là với Hoa Kỳ). Việc tổ chức các hội nghị xúc tiến đầu tư phải trên cơ sở phối hợp với các nhà tài trợ nước ngoài. Tại các hội nghị này cần phải quảng bá về môi trường đầu tư tại Việt Na, giới thiệu về những chính sách ưu đãi đầu tư và thông tin mới về sự thay đổi của các chính sách này trong thời gian gần đây.
Thứ ba, đổi mới quan điểm xúc tiến đầu tư nước ngoài tại các ngành, các cấp và các địa phương, trong đó quán triệt quan điểm của Đảng, nhà nước về xúc tiến đầu tư trong tổng thể chung cuac cả nước để tránh tạo nên sự mất cân đối giữa các ngành, vùng và miền.
Thứ tu, tuyên truyền xúc tiến đầu tư ở Hoa Kỳ thông qua việc phát hành các ấn phẩm dưới các hình thức như: tạp chí, đĩa CD, trang web về đầu tư nước ngoài bằng nhiều thứ tiếng…
Thứ năm, tiến hành thành lập một bộ phận về xúc tiến đầu tư nước ngoài tại Bộ Kế Hoạch và Đầu tư. Bộ phận này chịu trách nhiệm thực hiện công việc liên quan đến xúc tiến đầu tư trong nước và tại Hoa Kỳ, lập kế hoạch tổng thể về xúc tiến đầu tư trong cả nước. Tại Hoa Kỳ, bộ phận này có thể cử đại diện làm việc tại các cơ quan đại diện ngoại giao để tiến hành các hoạt động xúc tiến đầu tư.
Hoàn thiện môi trường đầu tư ở Việt Nam:
Hoàn thiện môi trường đầu tư là hoàn thiện cả về mặt chính sách đầu tư và cơ sở hạ tầng cũng như nâng cao trình độ tay nghề lao động nhằm đáp ứng yêu cầu thu hút vốn FDI trong giai đoạn mới. Theo nghiên cứu mới nhất thì các nhà đầu tư Hoa Kỳ rất lưu tâm đến vấn đề cải thiện môi trường đầu tư được đưa ra để phỏng vấn các nhà đầu tư Hoa Kỳ cũng như các nhà đầu tư của các quốc gia khác đều được họ cho điểm ngang nhau về mức độ cần thiết để có thể thu hút được đầu tư trực tiếp ( Theo báo cáo của Cục đầu tư nước ngoài)
Cụ thể đó là các biện pháp sau đây:
Thứ nhất, hoàn thiện về chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đề hoàn thiện chính sách đầu tư nước ngoài, Việt Nam cần phải có kế hoạch rà soát thường xuyên chính sách đầu tư nước ngoài nhằm phát hiện những vấn đề gây cản trở đến hoạt động đầu tư nước ngoài, bao gồm từ quá trình thành lập, hoạt động sản xuất kinh doanh cho đến khi giải thể doanh nghiệp, để từ đó có những thay đổi cho phù hợp. Trong giai đoạn hiện nay, chính sách đầu tư nước ngoài tại Việt Nam còn có một số hạn chế chủ yếu sau cần tiếp tục được hoàn thiện:
Nhóm chính sách tiếp cận thị trường:
Trong nhóm chính sách này cần chủ yếu tập trung hoàn thiện một số chính sách sau:
+ Về thủ tục đăng ký và thành lập doanh nghiệp FDI. Hiện nay, thủ tục đăng ký và thành lập doanh nghiệp FDI còn gây trở ngại đối với nhà đầu tư nước ngoài. Khi thành lập doanh nghiệp FDI tại Việt Nam, nhà đầu tư đã phải qua rất nhiều cửa, làm rất nhiều thủ tục và chờ đợi rất lâu để có được giấy phép thành lập doanh nghiệp. Do vậy, trong thời gian tới cần phải có chính sách "một cửa" đối với thủ tục thành lập các doanh nghiệp FDI. Chính sách "một cửa" ở đây được hiểu là nhà đầu tư nước ngoài chỉ cần nộp hồ sơ xin phép thành lập tại một cơ quan nhà nước có thẩm quyền và cơ quan này sẽ chịu trách nhiệm giải quyết trong thời gian sớm nhất. Để thực hiện biện pháp này cần phải thành lập một cơ quan đầu mối giải quyết thủ tục thành lập doanh nghiệp FDI. Ở các cơ quan trung ương, cơ quan đầu mối này sẽ bao gồm địa diện của các bộ, ngành có liên quan đến thủ tục cấp giấy phép đầu tư và ở cấp chính quyền địa phương, cơ quan đầu mối sẽ bao gồm đại diện của các sở, ban, ngành có liên quan đến việc cấp phép đầu tư. Ngoài ra, cần tiến tới xóa bỏ hình thức thẩm định cấp giấy phép đầu tư và dần dần thay thế bằng hình thức đăng ký cấp giấy phép đầu tư (yêu cầu của BTA)
+ Về phân cấp quản lý và cấp giấy phép đầu tư, tiếp tục phân cấp mạnh về quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài cho Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố và các ban quản lý Khu công nghiệp theo nguyên tắc tập trung, thống nhất về quy hoạch cơ cấu, chính sách và cơ chế quản lý, tăng cường hướng dẫn, kiểm tra và giám sát của các bộ, ngành trung ương. Đối với cấp giấy phép đầu tư, phân cấp mạnh cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố và Ban quản lý Khu công nghiệp trong việc cấp giấy phếp đầu tư qua một đầu mối như đã trình bày ở trên mà không phụ thuộc vào quy mô hoạt động của doanh nghiệp trừ trường hợp những dự án nhạy cảm ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng, văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục.
+ Về thời gian cấp phép thành lập doanh nghiệp FDI, tiếp tục nghiên cứu cơ chế rut ngắn thời gian cấp giấy phép đầu tư cho các doanh nghiệp FDI để đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư nước ngoài, nhất là trong quá trình phối hợp giữa các bộ, ngành trong việc cấp giấy phép đầu tư.
+Về thủ tục xuất nhập cảnh đối với các nhà đầu tư nước ngoài, cần có các biện pháp tạo điều kiện tự do đi lại cho các nhà đầu tư nước ngoài hơn nữa, tiến tới xóa bỏ thị thực (Visa) lưu trú ngắn hạn cho một số nhà đầu tư nước ngoài đến từ các nước công nghiệp phát triển mà Việt Nam có kế hoạch thu hút vốn, công nghệ nguồn như: Hoa Kỳ, Nhật Bản… Miễn thị thực lưu trú ngắn hạn cho các nhà đầu tư nước ngoài được coi như là một thông điệp chào đón các nhà đầu tư. Hiện nay, Việt Nam đã xóa bỏ thị thực lưu trú ngắn hạn cho các nhà đầu tư ASEAN, Nhật Bản và đang trong quá trình tham gia Chương trình thẻ đi lại doanh nhân trong APEC.
Nhóm chính sách về hoạt động kinh doanh, tập trung hoàn thiện một số chính sách sau:
+ Về chính sách giảm chi phí cho các doanh nghiệp FDI, tiếp tục nghiên cứu để đưa ra các biện pháp giảm chi phí hoạt động so với các nước khác trong khu vực như: tiền lương, giá đất, giá thuê văn phòng, cước viễn thông…
+ Bãi bỏ chế độ hai giá, trong thời gian tới cần phải rà soát, công bố công khai lộ trình xóa bỏ sự phân biệt về giá, phí của một số hàng hóa và dịch vụ giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI
+ Chính sách về thuế, tiếp tục rà soát chính sách thuế để đảm bảo những ưu đãi nhất định đối với nhà đầu tư
+ Chính sách tuyển dụng lao động, tiếp tục rà soát và hoàn thiện chính sách tuyển dụng lao động trong các doanh nghiệp FDI.
+ Chính sách đất đai, tiếp tục rà soát và xem xét lại giá cho thuê đất, miễn giảm thuê đất trong một số năm đầu để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, giải quyết dứt điểm vấn đề đền bù, giải phóng mặt bằng gây ách tắc đối với việc triển khai dự án. Giá cả đền bù, giải phóng mặt bằng phải hợp lý, không phân biệt đối xử với dự án FDI và trong nước để tránh đẩy giá thuê đất thực tế lên cao. Cần sớm chấm dứt cơ chế các doanh nghiệp Việt Nam góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, chuyển sang thực hiện chế độ Nhà nước cho thuê đất…
+ Chính sách chuyển giao công nghệ, tiếp tục rà soát và hoàn thiện chính sách chuyển giao công nghệ để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài trong quá trình chuyển giao công nghệ vào Việt Nam
+ Chính sách tài chính, tín dụng và ngoại hối, tiếp tục nghiên cứu giảm dần tỷ lệ kết hối ngoại tệ và tiến tới xóa bỏ việc kết hối bắt buộc, tưng bước thực hiện mục tiêu tự do hóa chuyển đổi ngoại tệ đối với các giao dịch vãng lai. Có chính sách bổ sung đảm bảo việc bán ngoại tệ cho các doanh nghiệp FDI đã thực hiện nghĩa vụ kết hối để đáp ứng nhu cầu hợp lý của doanh nghiệp. Nhiên cứu ban hành mức lãi suât trần hợp lý đối với khoản vay nước ngoài của các doanh nghiệp. Xây dựng, hoàn thiện các quy định về bảo đảm vay vốn, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh để doanh nghiệp FDI có thể vay vốn của các ngân hàng trong, ngoài nước và các tổ chức quốc tế, từng bước nới lỏng hạn chế áp dụng đối với ngân hàng nước ngoài nhận tiền gửi bằng tiền đồng Việt Nam. Các doanh nghiệp FDI được tiếp cận thị trường vốn, được vay tín dụng, kể cả trung và dài hạn tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam tùy thuộc vào hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ của dự án và có thể bảo đảm bằng tài sản của các công ty mẹ ở nước ngoài. Phát triển mạnh thị trường vốn để các doanh nghiệp Việt Nam có thể góp vốn đầu tư bằng các nguồn huy động dài hạn như: trái phiếu, cổ phiếu. Tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp FDI có đủ điều kiện được niêm yết tại trung tâm giao dich chứng khoán. Tổ chức vận hành an toàn, hiệu quả thị trường chứng khoán, bảo hiểm, từng bước mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động, kể cả thu hút vốn FDI. Từng bước mở rộng thị trường bất động sản cho người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia đầu tư.
+ Thực thi tốt các quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, tiếp tục thực thi tốt quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam. Bởi vì, hiện nay các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền sở hữu trí tuệ về cơ bản phù hợp ới các tiêu chuẩn, cam kết quốc tế của Việt Nam trong BTA và trong WTO.
+ Lĩnh vực và hình thức đầu tư, cần có chính sách xử lý linh hoạt các hình thức đầu tư để tăng cường mức độ tham gia của nhà đầu tư nước ngoài. Cần mở rộng danh mục các dự án cho phép nhà đầu tư nước ngoài được chủ động lựa chọn lĩnh vực kinh doanh và hình thức đầu tư xuất phát từ hiệu quả sản xuất kinh doanh ngoại trừ những lĩnh vực do yêu cầu an ninh quốc phòng, giữ gìn bản sắc dân tộc về văn hóa, thuần phong, mỹ tục và những lĩnh vực quốc tế dân sinh quan trọng, xử lý linh hoạt việc cho phép chuyển đổi doanh nghiệp liên doanh trong một số trường hợp sang doanh nghiệp 100% vốn trong nước hoặc 100% vốn nước ngoài.
Nhóm nhân tố kết thúc hoạt động kinh doanh, tập trung hoàn thiện một số chính sách sau:
+ Về giải thể và phá sản doanh nghiệp, tiếp tục nghiên cứu để bảo đảm thủ tục giả thể và phá sản nhanh chóng đối với các doanh nghiệp FDI, không gây cản trở về thủ tục hành chính đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong vấn đề giải thể và phá sản.
+ Về khiếu kiện và giải quyết tranh chấp, tiếp tục nghiên cứu chính sách để nhà đầu tư nước ngoài có thể khiếu kiện ra tòa án hoặc một số cơ quan tài khoán khác những quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà không phụ thuộc vào cấp giải quyết khiếu nại của cơ quan đó.
Thứ hai, minh bạch hóa chính sách đầu tư và bảo đảm tính dự đoán của nhà đầu tư nước ngoài, tiếp tục nghiên cứu để quy định rõ ràng, minh bạch các thủ tục hành chính, công khai các quy trình, thời hạn, trách nhiệm xử lý, giảm đầu mối, giảm thủ tục không cần thiết nhằm tạo nến sự chuyển biến cẳn bản về cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài, duy trì thường xuyên các cuộc gặp gỡ, đối thoại với cộng đồng các nhà đầu tư nước ngoài đồng thời tại các cuộc gặp này thông báo và cập nhật thường xuyên những thay đổi về mặt chính sách đầu tư nước ngoài. Cần đưa ra các biện pháp để công bố tất cả các văn bản quy phạm pháp luật ra công chúng, kể cả các công văn hành chính có tính chất áp dụng chung để nhà đầu tư được biết và thực hiện. Đây cũng là một trong các yêu cầu của BTA và WTO, tạo điều kiện để nhà đầu tư có thể tham gia đóng góp ý kiến đối với các dự thảo luật hoặc dưới luật, nhằm bảo đảm tính dễ dự báo trong tương lai về môi trường đầu tư cũng như hạn chế được những tác động tiêu cực đối với hoạt động kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ ba, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài, cần nghiên cứu và tiến tới ban hành một luật đầu tư chung để thống nhất điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài và hoạt động đầu tư trong nước trên một mặt bằng chung, ban hành một luật doanh nghiệp chung để áp dụng thống nhất về trình tự, thủ tục thành lập, hoạt động, quản lý doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, nhằm đảm bảo nguyên tắc không phân biệt đối xử. Ngoài ra, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật thông qua việc ban hành mới hoặc sửa đổi những văn bản quy phạm pháp luật thông qua việc ban hành mới hoặc sửa đổi những văn bản quy phạm pháp luật trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài.
Thứ tư, hoàn thiện về cơ sở vật chất, tiếp tục đầu tư và hoàn thiên cơ sở hạ tầng để phục vụ cho hoạt động đầu tư nước ngoài, đầu tư xây dựng một số công trình trọng điểm phục vụ cho giao thông, liên lạc, xây dựng căn hộ, vui chơi, giải trí… Nhà nước cần tạo điều kiện và có chính sách hỗ trợ đối với các doanh nghiệp FDI tham gia vào đầu tư cơ sở hạ tầng cho các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao.
Thứ năm, nâng cao chất lượng đào tạo và chú trọng vào đào tạo nguồn nhân lực, tiếp tục nghiên cứu chính sách để nâng cao chất lượng đào tạo. đáp ứng và thay thế lao động nước ngoài cũng như bảo đảm giá nhân công thấp hơn so với các nước trong khu vực, tạo điều kiện và có chính sách hỗ trợ để các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào hoạt động hợp tác giáo dục đào tạo nhằm trang bị những kiến thức, trình độ khoa học kỹ thuật cho người lao động.
Thứ sáu, tiếp tục giữ vững môi trường kinh tế - xã hội ổn định nhằm tạo môi trường an ninh, an toàn cho các hoạt động đầu tư nước ngoài thông qua việc tăng cường công tác quốc phòng và an ninh. Đây là việc làm cần thiết nhằm tránh rơi vào tình trạng khủng hoảng như một số nước trong khu vực làm mất lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài.
MỤC LỤC
Chương 1: Đầu tư quốc tế và vai trò của FDI đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. 1
I. Lý luận về đầu tư quốc tế: 1
1. Khái niệm đầu tư quốc tế: 1
2. Các hình thức đầu tư quốc tế: 1
2.1 Đầu tư gián tiếp: 1
2.2 Đầu tư trực tiếp (FDI): 2
2.3 Khu vực tập trung FDI 3
3. Nguyên nhân của đầu tư quốc tế: 4
II. Vai trò của đầu tư trực tiếp FDI đối với nước nhận đầu tư và nước đi đầu tư: 4
1. Vai trò đối với nước nhận đầu tư 4
1.1. Tác động tích cực: 4
1.2. Tác động tiêu cực: 7
2. Vai trò của FDI đối với nước đi đầu tư: 8
III. Đặc điểm và xu hướng của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới hiện nay: 9
1. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài: 9
2. Xu hướng của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới: 10
IV. Kinh nghiệm của Trung Quốc: 12
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA MỸ TẠI VIỆT NAM 14
I. Tác động của hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ đến đầu tư FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam 14
1. Nội dung chủ yếu về hoạt động đầu tư giữa Việt Nam và Hoa Kỳ theo tinh thần Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ: 14
2. Đánh giá tác động 17
II. THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN FDI CỦA MỸ TẠI VIỆT NAM 19
1. Quy mô vốn đầu tư 19
2. Vốn đầu tư phân theo ngành 24
3. Đầu tư của Hoa kỳ theo hình thức đầu tư 27
III. Những cơ hội và thách thức của Việt Nam trong việc thu hút đầu tư trực tiếp cùa Hoa Kỳ khi gia nhập tổ chức WTO: 28
1. Những cơ hội mở ra cho Việt Nam: 29
2. Những thách thức Việt Nam phải đối mặt: 30
Chương 3: Một số giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ trong thời gian tới. 32
I. Mục tiêu và đinh hướng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nói chung và thu hút vốn đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ nói riêng: 32
1. Mục tiêu và định hướng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nói chung: 32
1.1 Mục tiêu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nói chung: 32
1.2 Định hướng thu hút đầu tư trục tiếp nói chung: 33
2. Mục tiêu và định hướng thu hút đầu tư trực tiếp từ Hoa Kỳ vào Việt Nam nói riêng: 33
II. Giải Pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam: 34
1. Tăng cường các hoạt động xúc tiến đầu tư với Hoa Kỳ: 34
2. Hoàn thiện môi trường đầu tư ở Việt Nam: 36
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Ch432417ng 1.doc