Tài liệu Việc thu thuế trong làng xã qua tư liệu hương ước cải lương tỉnh Thái Nguyên: Tập 183, số 07, 2018
Tập 183, Số 07, 2018
Tạp chí Khoa học và Công nghệ
CHUYấN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ
Mục lục Trang
Hoàng Thị Phương Nga - Mụ hỡnh du lịch văn học “Làng Vũ Đại ngày ấy” 3
Phạm Thị Thu Hoài, Trần Thị Thanh - Tiếng lúng trong truyện về đề tài giỏo dục của Văn Thành Lờ 9
Ngụ Thị Thanh Nga, Phạm Thị Hồng Võn - Vài nột về cỏc phương thức thể hiện tỡnh vợ chồng trong văn
học trung đại Việt Nam 15
Nguyễn Thị Thắm, Nguyễn Minh Sơn - í thức đối thoại của Nguyễn Ngọc Tư với văn học truyền thống thụng
qua những nhõn vật nữ trong tập truyện Khụng ai qua sụng 21
Đặng Thị Thựy, Nguyễn Diệu Thương - Lụ gớch của cỏc hiện tượng “phi lụ gớch” trong ca dao, tục ngữ
người Việt 27
Đinh Thị Giang - Những nhõn tố ảnh hưởng đến lối sống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay 33
Nguyễn Diệu Thương, Nguyễn Thị Lan Hương - Phương thức tạo hàm ý trong tiểu phẩm trào phỳng 39
Nguyễn Thu Quỳnh, Vỡ Thị Hiền - Từ ngữ chỉ đồ gia dụng trong tiếng Thỏi ở ...
10 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 438 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Việc thu thuế trong làng xã qua tư liệu hương ước cải lương tỉnh Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tập 183, số 07, 2018
Tập 183, Số 07, 2018
T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ
CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ
Môc lôc Trang
Hoàng Thị Phương Nga - Mô hình du lịch văn học “Làng Vũ Đại ngày ấy” 3
Phạm Thị Thu Hoài, Trần Thị Thanh - Tiếng lóng trong truyện về đề tài giáo dục của Văn Thành Lê 9
Ngô Thị Thanh Nga, Phạm Thị Hồng Vân - Vài nét về các phương thức thể hiện tình vợ chồng trong văn
học trung đại Việt Nam 15
Nguyễn Thị Thắm, Nguyễn Minh Sơn - Ý thức đối thoại của Nguyễn Ngọc Tư với văn học truyền thống thông
qua những nhân vật nữ trong tập truyện Không ai qua sông 21
Đặng Thị Thùy, Nguyễn Diệu Thương - Lô gích của các hiện tượng “phi lô gích” trong ca dao, tục ngữ
người Việt 27
Đinh Thị Giang - Những nhân tố ảnh hưởng đến lối sống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay 33
Nguyễn Diệu Thương, Nguyễn Thị Lan Hương - Phương thức tạo hàm ý trong tiểu phẩm trào phúng 39
Nguyễn Thu Quỳnh, Vì Thị Hiền - Từ ngữ chỉ đồ gia dụng trong tiếng Thái ở tỉnh Điện Biên 45
Nguyễn Thị Thu Oanh, Hoàng Thị Mỹ Hạnh - Vị thế, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng Sản Việt Nam giai
đoạn 1945 - 1975 và một số bài học kinh nghiệm 51
Đỗ Hằng Nga, Phạm Quốc Tuấn - Việc thu thuế trong làng xã qua tư liệu hương ước cải lương tỉnh Thái Nguyên 57
Lê Văn Hiếu - Hiệu quả hoạt động của mô hình “ban tuyên vận” xã, phường, thị trấn và “tổ tuyên vận” thôn, bản, tổ
dân phố ở tỉnh Lào Cai trong giai đoạn hiện nay 63
Thái Hữu Linh, Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Thanh Hà - Vai trò của hậu phương Bắc Thái trong cuộc
tổng tiến công Mậu Thân năm 1968 69
Phạm Anh Nguyên - Sức hấp dẫn trong Hài đàm của Phan Khôi 73
Nguyễn Thị Hường, Nguyễn Thị Mão, Nguyễn Tuấn Anh - Nâng cao hiệu quả tổ chức các hoạt động ngoại
khoá trong dạy học môn giáo dục công dân ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Thái
Nguyên hiện nay 79
Nguyễn Văn Dũng, Đào Ngọc Anh - Thực trạng thể chất của sinh viên không chuyên thể dục thể thao Trường
Đại hoc Sư phạm – Đại học Thái Nguyên 85
Trần Bảo Ngọc, Lê Ngọc Uyển, Bùi Thanh Thủy và cs - Thực trạng xếp loại tốt nghiệp sinh viên diện cử
tuyển ở trường Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên giai đoạn 2013-2017 91
Nguyễn Thúc Cảnh - Nghiên cứu xây dựng hệ thống bài tập có nội dung thực tế trong giảng dạy cơ học cho
học sinh trung học phổ thông 97
Hà Thị Kim Linh, Chu Thị Bích Huệ - Giáo dục kiến thức pháp luật cho phụ nữ vùng dân tộc thiểu số ở huyện
Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên 105
Nguyễn Thị Thanh Hồng, Nguyễn Thị Khánh Ly, Vũ Kiều Hạnh - Tăng cường sự tham gia của sinh viên
vào các hoạt động học tiếng Anh trong lớp học đông nhiều trình độ của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học
Y Dược – Đại học Thái Nguyên 111
Phạm Thị Huyền, Vũ Thị Thủy - Vận dụng phong cách nêu gương theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng
phong cách làm việc đối với cán bộ chủ chốt ở nước ta hiện nay 117
Đàm Quang Hưng - Thiết kế bài học khoa học lớp 4, lớp 5 theo hướng tìm tòi thực nghiệm 123
Hoàng Thị Thu Hoài - Những khó khăn trong việc dạy và học từ vựng tiếng Anh chuyên cho sinh viên chuyên
ngành điều dưỡng, trường Cao đẳng Y tế Thái Nguyên và một số giải pháp đề xuất 129
Journal of Science and Technology
183(07)
N¨m 2018
Nguyễn Lan Hương, Văn Thị Quỳnh Hoa - Những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng nói tiếng Anh của sinh
viên năm thứ nhất trường Đại học Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên 135
Vũ Kiều Hạnh - Những yếu tố quyết định đến mức độ đọc hiểu của sinh viên năm thứ hai tại trường Đại học
Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên 141
Nguyễn Thị Quế, Hoàng Thị Nhung - Hỏi đúng để tự học và học tập cộng tác thành công – hướng tới xây
dựng người học ngoại ngữ độc lập trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế 147
Ngô Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Hoài Thu - Ứng dụng các phương pháp giảng dạy tích cực nhằm nâng cao chất
lượng dạy – học tiếng Việt cho học viên quốc tế tại Học viện Kỹ thuật Quân sự 153
Dương Văn Tân - Đánh giá hiệu quả áp dụng trò chơi vận động trong phát triển thể lực chung cho sinh viên
trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp – Đại học Thái Nguyên 159
Bùi Thị Hương Giang - Nâng cao năng lực giao tiếp giao văn hóa trong dạy và học ngoại ngữ 165
Trần Hoàng Tinh, Nông La Duy, Phạm Văn Tuân - Xây dựng trung đội tự quản trong quản lý giáo dục tính
kỷ luật cho sinh viên tại trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh trong giai đoạn hiện nay 171
Trần Thị Yến, Khổng Thị Thanh Huyền - Sử dụng hình thức đọc chuyên sâu để nâng cao khả năng viết học
thuật cho sinh viên chuyên ngành tiếng Anh 177
Đỗ Thị Hồng Hạnh, Hoàng Mai Phương - Đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện Chợ Mới,
tỉnh Bắc Kạn 183
Trần Thùy Linh, Trần Lương Đức, Nguyễn Thị Thùy Trang - Cách tiếp cận của pháp luật cạnh tranh liên
minh châu Âu về hành vi lạm dụng mang tính trục lợi 189
Nguyễn Thị Thanh Hà, Phạm Việt Hương - Xây dựng bộ tiêu chí và chỉ số kinh tế phù hợp để đánh giá quản
lý rừng bền vững ở huyện Định Hóa 195
Đinh Thị Hoài - Truyền thông marketing sản phẩm và dịch vụ thông tin - thư viện tại Trung tâm Học liệu Đại
học Thái Nguyên 201
Nguyễn Thị Thanh Xuân - Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng sử dụng dịch vụ
khách sạn tại Thanh Hóa, Việt Nam 207
Dương Thị Tình - Đóng góp của xuất khẩu hàng hóa tới tăng trưởng kinh tế của tỉnh Yên Bái 213
Lê Minh Hải, Trần Viết Khanh - Phân tích tổ chức không gian lãnh thổ du lịch tỉnh Thái Nguyên 219
Hà Văn Vương - Vận dụng lý thuyết Ecgônômi trong tổ chức môi trường làm việc tại văn phòng chi nhánh may
Sông Công II - Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG 227
Mai Anh Linh, Nguyễn Thị Minh Anh - Đánh giá chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng: nghiên
cứu thực nghiệm tại siêu thị Lan Chi, Thái Nguyên 233
Đinh Hồng Linh, Nguyễn Thu Nga, Nguyễn Thu Hằng - Sử dụng hàm Loga siêu việt để đánh giá hiệu quả
kinh doanh của các ngân hàng Việt Nam 239
Đỗ Hằng Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 57 - 61
57
VIỆC THU THUẾ TRONG LÀNG XÃ
QUA TƯ LIỆU HƯƠNG ƯỚC CẢI LƯƠNG TỈNH THÁI NGUYÊN
Đỗ Hằng Nga*, Phạm Quốc Tuấn
1Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên, 2Nhà xuất bản ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Nghiên cứu này nhằm tái hiện hoạt động thu thuế thường kỳ của xã hội nông thôn trước năm 1945
thông qua nguồn tư liệu địa phương. Từ đó, rút ra một số đặc điểm của vấn đề nghiên cứu trong
giai đoạn lịch sử cụ thể. Nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở xử lý các dữ liệu từ hương ước ra
đời vào nửa đầu thế kỷ XX (hương ước cải lương). Việc tái hiện cho thấy nhiều nét đặc sắc trong
việc thu thuế của các làng xã truyền thống dưới sự cai trị của chính quyền thuộc địa, phản ánh mối
quan hệ giữa chính quyền và làng xã, cũng như bản chất của chính quyền cai trị thời cận đại.
Từ khoá: thuế, làng xã, tư liệu, hương ước, trước năm 1945.
MỞ ĐẦU*
Trước năm 1945, làng xã là một đơn vị hành
chính, nhưng có tính độc lập tương đối với
chính quyền trung ương. Mối quan hệ Nhà
nước - làng xã hay vấn đề quản lý làng xã của
Nhà nước được thể hiện trên nhiều phương
diện: chính trị, kinh tế, văn hoá.Về kinh tế,
Nhà nước thông qua làng xã để nắm lấy
nguồn thu thuế của mình. Trong Người nông
dân châu thổ Bắc Kì, Gourou nhận định:
"Làng là một cộng đồng tự trị, tự giải quyết
những mâu thuẫn giữa các thành viên, tự thu
lấy thuế cho nhà nước" [1, tr.293]. Hương
ước - với tư cách là "bộ luật làng" quy định về
việc thu thuế trong làng xã.
NỘI DUNG
Các loại thuế trong làng xã
Trong làng xã có hai loại thuế cơ bản: thuế
đánh vào nhân khẩu (đinh) và thuế đánh vào
ruộng đất. Hương ước viết " bổ mỗi suất
đinh hay mỗi mẫu sào điền thổ phải đóng bao
nhiêu tiền" [2], hay "phàm việc thuế đinh
thừa sức các hạng đinh chịu thuế dân xã chiếu
theo thứ bậc, ai nhiều điền chịu hạng thuế nào,
người ít điền chịu bao nhiêu và những người
cùng đinh không có điền sản đều phải tuân
nghị định nhà nước mà chiểu bổ" [3].
Thuế đánh vào nhân khẩu gọi là thuế thân,
hay thuế đinh, thuế đầu người, sưu. Đây là sắc
thuế tiêu biểu trong các sắc thuế khoán, căn
cứ trên cư dân địa phương. Lúc này, những
* Tel: 0967968273, Email: ngadh@tnu.edu.vn
người đàn ông là dân chính cư trong làng xã
được chia thành 3 nhóm theo tuổi tác: ti ấu
(dưới 18 tuổi), chính đinh (từ 18 đến 60 tuổi)
và lão hạng (trên 60 tuổi). Thuế thân đánh
vào chính đinh, thuộc hạng không có vai vế
gì trong làng. Những người này được ghi tên
trong sổ bộ của làng. Hương ước làng Giã
Thù (tổng Tiên Thù, huyện Phổ Yên) nêu
rằng: “Lệ làng người nào đến mười tám tuổi,
đến ngày mồng Sáu tháng Giêng phải sửa ba
chục cau tường dân để vào hạng đinh chịu
thuế” [4]. Trong làng xã "tất cả các người
dân nam từ 18 đến 60 tuổi đều phải nộp 2,5
đồng tiền thuế thân" [1, tr.198]. Các ti ấu và
lão hạng không phải đóng thuế thân và cũng
được làng xã miễn cho các hình thức đóng
góp khác.
Thuế đánh vào ruộng đất, còn gọi là thuế
điền thổ. Nước ta là một nước nông nghiệp,
ruộng đất giữ vai trò quan trọng trong phát
triển kinh tế, từ xưa đến nay dù dưới chế độ
nào các vấn đề về ruộng đất nói chung cũng
như các loại thuế ruộng đất nói riêng đều rất
được chú trọng. Hương ước cho biết ruộng
đất sẽ được đo đạc để tính thuế. Hương ước
xã Mai Sơn (tổng La Đình, huyện Phú Bình)
viết “Thuế điền thổ, làng giao cho Lý trưởng
hành thu đệ nộp nhưng phải chiểu số diện
tích đã đạc mà thu cho đúng, ai có bao nhiêu
thì thu bấy nhiêu, y như bài bổ” [3]. Thực
tế, trong các làng xã, những chi tiết liên quan
đến thuế khoá ruộng vườn đã được ghi chép
sẵn trong điền bạ. Thuế điền thổ căn cứ vào
điền bạ để thu.
Đỗ Hằng Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 57 - 61
58
Ngoài hai loại thuế quan trọng nói trên, một
số hương ước có thêm quy định về các khoản
phụ thu. Hương ước xã Hùng Sơn (tổng Hùng
Sơn, huyện Đại Từ) quy định: " đặt thêm ra
các thứ thuế sau này, dù là người trong làng
hay là người ngụ cư cũng đều phải theo cả để
lấy tiền sung quỹ. Nhà ngói mỗi gian một năm
phải nộp 5 xu. Nhà gỗ mỗi gian một năm phải
nộp 3 xu Mỗi đầu trâu một năm phải nộp 2
hào. Mỗi đầu bò một năm phải nộp 15 xu.
Mỗi đầu ngựa một năm phải nộp 4 hào" [5].
Hay ở xã Thượng Nùng (tổng Thượng Nùng,
huyện Vũ Nhai) thì "các khoản tiền ngoại phụ
như thêm 15 xu vào sổ chi tiêu hàng tỉnh và
tiền tạp phí cho Lý trưởng thời vào vụ thuế
đinh cứ chia liền cho số đinh chịu, còn về
thuế điền thổ thời tiền ngoại phụ thêm 15 xu
nộp vào phòng canh nông, tiền thuế hoa màu
và các tiền tạp phụ khác" [6].
Việc khảo sát nội dung các hương ước cho
thấy thuế gián thu (như thuế muối, thuế rượu,
thuế thuốc phiện, ) ít được đề cập đến trong
hương ước cải lương tỉnh Thái Nguyên. Một
số hương ước có mục "Bài trừ gian lận" thì
quy định việc cấm "muối lậu", "rượu lậu",
"thuốc phiện lậu", "dầu lậu", để đảm bảo
chế độ độc quyền mua bán của chính quyền
thực dân [7]. "Ai bắt được kẻ nào nấu rượu
lậu hay buôn thuốc phiện lậu thời được hoả
hồng là 1 đồng. Số tiền hoả hồng trích từ
công quỹ ra mà chi" [8].
Lực lượng thu thuế trong làng xã
Bộ máy quan viên làng xã được coi là "cánh
tay nối dài" của Nhà nước ở các đơn vị tụ cư
cơ sở. Vì vậy, việc thu thuế trong làng xã
cũng do bộ phận này đảm nhiệm.
Để các quan viên tiến hành thu thuế thuận lợi,
trong hương ước làng xã, trước các điều
khoản quy định về thuế và thu thuế, đều có
điều khoản quy định về tổ chức, trách nhiệm,
quyền hạn của quan viên. Theo đó, bộ máy
quản lý làng xã gồm 2 bộ phận chủ yếu là bộ
phận mang tính chất tự trị (Hội đồng Kỳ mục)
và bộ phận mang tính chất hành chính (Hội
đồng Lý dịch). Trong hai bộ phận này, Kỳ
mục chỉ nắm đường hướng, Lý dịch vừa nắm
tổng quát, vừa tham gia tổ chức và điều khiển
từng công việc cụ thể trong làng, có phần
nghiêng nhiều hơn về mặt thứ hai (mặt thừa
hành nhiệm vụ).
Trong hương ước cải lương, nghĩa vụ - trách
nhiệm của Lý dịch thông thường không được
quy định cụ thể thành những điều khoản
riêng. Vai trò của Hội đồng Lý dịch chủ yếu
được lồng ghép trong những quy ước về tư
pháp, tuần phòng, dị hương quá khách, tài
chính, Bộ máy Lý dịch bao gồm nhiều
thành viên có vai trò khác nhau: Lý trưởng
(chịu trách nhiệm chung); Phó lý (giúp việc
Lý trưởng, đôi khi đặc trách về bảo vệ trị an);
Chưởng bạ (nắm tình hình ruộng đất, làm
nhiệm vụ chuyển dịch từ người này sang
người khác); Hộ lại (lo việc hộ tịch, hộ khẩu,
sinh tử, giá thú, nắm tình hình biến động về
dân số ở địa phương); Trương tuần (điều
khiển tuần phiên ở làng xã); Lý dịch là
trung gian liên lạc giữa làng xã và chính
quyền cấp trên, được dân làng xã cử ra và
chính quyền cấp trên chuẩn y. Nếu coi mỗi
làng xã là hình ảnh của một Nhà nước thu nhỏ
thì Hội đồng Lý dịch nắm cả quyền lập - hành
- tư pháp (soạn thảo, ban hành hương ước -
quản lý và giải quyết mọi công việc - hòa giải
và xét xử các việc thường lệ trong làng).
Quyền hạn của Lý dịch bao trùm làng xã. Do
đó, Lý dịch là bộ phận nắm việc thu thuế.
Đứng đầu Hội đồng Lý dịch là Lý trưởng. Lý
trưởng có con dấu. Mỗi văn bản hành chính
trong nội bộ làng xã hay quan hệ với các làng
xã khác, với cơ quan cấp trên phải có dấu lý
trưởng mới có giá trị. "Lý trưởng rất bận rộn
với việc làng: thu thuế, chạy chọt với quan
trên, lo các công trình công cộng, nói tóm lại
là việc gì cũng đến tay" [1, tr.297]. Đối với
việc thuế trong làng, Lý trưởng là quan viên
giữ vai trò chủ yếu. Lý trưởng chịu trách
nhiệm phổ biến, thu hoặc điều hành việc thu
các loại thuế. “Lý trưởng phải coi riêng về
việc thu nộp các thứ thuế, mà tiền thuế thời
đồng xã phải liên đới trách nhiệm, phải thi
hành các luật lệ và nghị định của chính phủ,
phải thừa soạn các giấy quan trên sức, phải
thị thực các chứng thư, tổng lục hay chấp
hành các giấy má của quan tư pháp, tầm nã
các trọng khinh tội, khám biên các tội vi
Đỗ Hằng Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 57 - 61
59
cảnh, coi việc tuần phòng trong xã và những
việc xảy ra có quan hệ đến sự yên ổn thời
phải đi báo quan sở tại cả. Trông coi các
đường bộ và đường thủy, kiến trúc các việc
lợi ích chung thuộc phần hàng xã như là đê
điều, cầu cống, các dây điện thoại và dây
điện báo” [7]. Như thế, trong làng có việc gì
ra đến quan, thì lý trưởng đi thay mặt dân.
Quan trên có lệnh gì truyền về làng, cũng
trách cứ ở lý trưởng. Kỳ Mục có quyết định
việc gì, thì lý trưởng phải thi hành. Nhưng
công việc hệ trọng nhất của lý trưởng là việc
sưu thuế.
Bên cạnh Lý trưởng, Chưởng bạ cũng liên
quan chặt chẽ đến việc thuế trong làng. Vì
Chưởng bạ nắm tình hình ruộng đất, giúp cho
lý trưởng việc tính thuế điền địa hàng năm.
Hương ước quy định trách nhiệm của Chưởng
bạ “Chưởng bạ phải giữ sổ địa bạ đồ bản
hàng xã theo các thể lệ hiện hành, thi hành
mệnh lệnh của sở địa chính theo thể lệ các
nghị định ngày 23 tháng 2 năm 1929 và ngày
7 tháng 8 năm 1931” [7].
Cách thức thu thuế trong làng xã
Việc khảo cứu một số hương ước cải lương
tỉnh Thái Nguyên cho phép khái quát một quy
trình thu thuế trong các làng xã trước năm
1945 như sau:
Lý trưởng tiếp nhận "chủ trương" về thuế
của cấp trên
Việc Lý trưởng tiếp nhận "chủ trương" về
thuế của cấp trên được thể hiện thông qua
việc "lĩnh bài chỉ" - "Mỗi năm hai vụ sưu
thuế, khi Lý trưởng lĩnh bài chỉ " [9]. Điều
này một lần nữa minh chứng cho nhận định
Hội đồng Lý dịch (mà đứng đầu là Lý trưởng)
là đại diện của bộ máy nhà nước trung ương ở
làng. Vì vậy, mọi công việc, trong đó có việc
thu thuế, Lý dịch đều phải thực hiện theo ý
muốn của quan trên.
Thống nhất trong bộ máy quan viên làng xã
Như đã nói ở trên, quan viên làng xã gồm 2
nhóm chính, khác biệt về thành phần, chức
năng và tính chất. Hội đồng Lý dịch và Kỳ
mục cùng tồn tại, cùng tham gia giải quyết
các việc chính trị hay tổ chức các hoạt động
mang nặng tính tục lệ ở địa phương. Hai
nhóm Lý dịch và Kỳ mục cùng đồng thời tồn
tại khiến cho chính quyền làng xã là kiểu
“chính quyền kép”. Vì vậy, mọi công việc
làng xã đều phải có sự thống nhất giữa hai bộ
phận Kỳ Mục và Lý dịch. Việc sưu thuế cũng
không nằm ngoài quy tắc đó. Các hương ước
cải lương đã định rõ: "Phàm có việc quan gì
cần phải bàn định, làng có Tiên thứ chỉ và kỳ
cựu với lý dịch, hội bàn xong rồi giao cho Lý
trưởng thi hành" [10]. Tiên thứ chỉ nhắc
đến ở đây chính là những người có vai trò
quan trọng hàng đầu trong Hội đồng Kỳ mục.
Sự hội họp quan viên sẽ đi đến thống nhất về
chủ trương, đường hướng việc thu thuế, thống
nhất cách thức thu thuế, việc ăn uống và tính
toán số thuế cho các hạng đinh - điền phải
đóng. Sau khi đã thống nhất với Kỳ Mục,
cũng là những người vai vế nhất làng, việc
thu thuế trong dân trở nên thuận lợi hơn.
Tính toán số thuế và công khai cho dân biết
Việc tính toán số thuế liên quan trực tiếp đến
Chưởng bạ, Hộ lại,... những người quản lý,
coi sóc việc đất đai, ruộng vườn, văn bản,
giấy tờ trong làng xã. Theo mức thuế quy
định và số khẩu, số điền, thuế được tính toán
cụ thể "việc thuế đinh thừa sức các hạng đinh
chịu thuế dân xã chiếu theo thứ bậc, ai nhiều
điền chịu hạng thuế nào, người ít điền chịu
bao nhiêu và những người cùng đinh không
có điền sản đều phải tuân nghị định nhà nước
mà chiểu bổ" [3]. Sau khi tính toán xong, thuế
được công khai cho dân biết. Việc tính toán
có thể làm ở nhà Lý trưởng hoặc đình làng,
còn việc thông báo cho dân thì hầu như làng
nào cũng chọn cách sao yết tại đình làng. Vì
về mặt chính trị, đình là trụ sở hành chính của
làng xã, hầu hết công việc của chính quyền cơ
sở giải quyết tại đình làng.
Tổ chức thu thuế
Tổ chức thu thuế là khâu cuối cùng trong tiến
trình thu thuế ở làng xã. Việc thu thuế thường
được tổ chức ở đình làng. Mọi hạng dân chịu
thuế đến đình để nộp. "Người Lý trưởng thu
tiền của ai thì phải biên lai nhận cho người
ấy" [11]. "Khi nào thu đủ thì Lý trưởng đem
nộp quan sở tại" [2]. Hương ước quy định rõ
về các trường hợp không nộp được thuế "Nếu
Đỗ Hằng Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 57 - 61
60
có tên nào thiếu sưu thuế thì bắt thân thuộc
hay thân thuộc nếu nghèo túng thì Lý trưởng
phải ứng nộp rồi sẽ thu sau. Những đinh bỏ
làng đi mất tích và những người chết trước vụ
sưu mà không có sản nghiệp lưu lại thì đồng
dân phải san bổ nộp thay" [12].
Một điểm đáng chú ý là làng xã truyền thống
có tục ăn uống lúc hội họp đông người hay
khi làng có việc. Lễ tiết trong năm, ăn khao,
ăn khoán, là những sinh hoạt phổ biến sau
luỹ tre làng. Có khi ăn uống chỉ trong nội bộ
quan viên, có khi ăn uống cả làng. Lệ hương
ẩm hay phân ngôi thứ theo chiếu ngồi ăn cũng
từ đó mà ra. Vụ sưu thuế là việc hệ trọng của
làng đương nhiên không nằm ngoài quy luật
đó. Khi tổ chức thu thuế là làng bày ra sự ăn
uống. Các hương ước quy định cụ thể về vấn
đề này. "Khi ăn họp bổ thuế, Lý trưởng
phải ứng cho dân ăn họp một bữa" [3],"ăn
uống hết bao nhiêu cũng bổ về theo đinh
điền" [13]. Phần lớn các làng xã đều có tục ăn
uống như thế. Cá biệt mới có nơi không ăn
uống khi bổ thuế[11], [14].
Một số nhận xét
Thứ nhất, việc thu thuế thể hiện tính tự trị
trong lĩnh vực kinh tế của làng xã trước
năm 1945.
Mỗi làng xã truyền thống đều có một sự độc
lập nhất định, còn gọi là tính tự trị. Ở phạm vi
rộng, tự trị của làng xã là so với Nhà nước
trung ương. Để khẳng định tính tự trị của làng
xã, Gourou viết "Nhà nước không có việc với
công dân mà với xã, một khi xã đã hoàn
thành các nghĩa vụ đối với chính quyền thì nó
có thể tự cai trị một cách tự do”[1, tr.293].
Tính tự trị của làng xã thể hiện trên nhiều
mặt: chính trị, kinh tế và văn hoá. Cùng với
vai trò phân chia ruộng đất công, việc thu
thuế đã thể hiện tính tự trị trong lĩnh vực kinh
tế của làng. Mỗi năm, chính quyền cấp trên
phân bổ tổng số thuế mà dân làng phải đóng.
Căn cứ vào đó, Lý trưởng trình báo, triệu tập
Hội đồng kỳ mục họp bàn phân bổ việc thu
thuế. Như vậy, chính quyền Trung ương chỉ
giao tổng số thuế mà làng xã phải nộp, còn
việc phân bổ thế nào do quan viên mỗi làng
xã hội họp và quyết định. Từ đó mới dẫn đến
việc "các vị chức sắc luôn sẵn sàng tăng thuế
một số phần trăm nào đấy mà phần lớn chui
vào túi họ" [1, tr.298].
Thứ hai, cách thức thu thuế góp phần phản
ánh bản chất bóc lột của chính quyền cai trị.
Dù ở trường hợp nào, chính quyền cũng đảm
bảo đủ số thuế thu về. Hương ước viết:
"Trong làng từ 18 tuổi trở lên phải đóng sưu,
nếu ai không đóng được mà trốn đi, để Lý
trưởng phải tha thải, nếu có anh em ruột thịt
thì cứ bắt những người ấy phải đóng thay cho,
nếu không đóng thì Lý trưởng tường với dân
cất ngôi trừ ngoại, không ăn ngồi với người ấy
và giả thẻ Nhà nước" [15]. Như thế, trường
hợp người nộp thuế không thể nộp thuế thì
chính quyền tìm cách bổ cho ""thân nhân"
[15], "Lý trưởng ứng nộp", hay "dân san bổ
nộp thay" [9]. Thêm vào đó, những người
không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế bị
tách biệt khỏi cộng đồng, không còn được xem
là một thành viên của làng "cất ngôi trừ ngoại,
không ăn ngồi với người ấy" [15]. Đây là một
hình thức răn đe đặc trưng của làng xã truyền
thống: "không ăn ngồi với người ấy" - tức là
loại bỏ ra khỏi đời sống cộng đồng. Làng xã
Việt Nam vốn trọng danh "một miếng giữa
làng" bằng cả "sàng xó bếp", nên bị "cất ngôi
trừ ngoại" là nỗi tủi hổ lớn không chỉ của cá
nhân, mà của cả gia đình, dòng họ. Nặng hơn
nữa, người không nộp thuế còn có thể bị bắt
giam. "Ai không chịu nộp sưu thuế sẽ bị bắt
giải trình quan xét" [16].
Thứ ba, thời nào cũng vậy, thuế là nghĩa vụ
người dân phải thực hiện với Nhà nước.
Nhưng ở thời cận đại, dưới sự cai trị của chính
quyền thuộc địa, người dân làng xã phải sống
trong nỗi ám ảnh của sưu cao thuế nặng, nhất
là thuế thân. "Thuế thân là cái ách cho tất cả
những người phải đóng thuế" [1, tr. 200], là
loại thuế có sức nặng rất lớn, đè lên vai
người nông dân Việt Nam trước tháng 8 năm
1945. "Nếu người nông dân Bắc kỳ là một
người đóng thuế đứng đắn (không chậm trễ
trong việc đóng thuế là danh giá và có nhiều
uy tín trong làng) thì họ lại là một con nợ
tồi" [1, tr.445]. Những khoản thuế nặng nề là
một trong những nguyên nhân khiến cho đời
Đỗ Hằng Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 57 - 61
61
sống của người dân nông thôn thêm phần cơ
cực. Cũng từ đó, nảy sinh ra nhiều vấn đề
phức tạp khác của xã hội làng xã. Cách mạng
tháng Tám năm 1945 thành công và sự ra đời
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã
đem lại diện mạo mới cho đời sống làng xã
với việc định lại các ngạch thuế, xoá bỏ các
thứ thuế bất công và vô lý "trái ngược với tinh
thần chính thể cộng hoà dân chủ".
KẾT LUẬN
Hương ước nói chung và hương ước cải lương
tỉnh Thái Nguyên nói riêng phản ánh nhiều
mặt của đời sống làng xã truyền thống. Một
trong những mặt quan trọng là việc làng xã
đảm bảo các nghĩa vụ với chính quyền trung
ương. Những điều khoản quy định về bộ máy
quản lý làng xã, về thuế và thu thuế trong
hương ước là cơ sở của việc thu - nộp thuế ở
nông thôn Việt Nam trước năm 1945. Tính
chất của các loại thuế, lực lượng thu thuế và
cách thức thu thuế được phản ánh trong hương
ước đã cho thấy tính chất thuộc địa nửa phong
kiến của xã hội Việt Nam thời cận đại.
Lời cảm ơn
Bài báo là sản phẩm của Đề tài khoa học và
công nghệ cấp Bộ mã số B2017-TNA-53 do
tác giả là chủ nhiệm đề tài.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Pierre Gourou (2015), Người nông dân châu thổ
Bắc kỳ, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Hương ước xã Úc Sơn, tổng La Đình, huyện
Phú Bình (lập năm 1942)
3. Hương ước xã Mai Sơn, tổng La Đình, huyện
Phú Bình (lập năm 1942)
4. Hương ước làng Giã Thù, tổng Tiên Thù, huyện
Phổ Yên (lập năm 1942)
5. Hương ước xã Hùng Sơn, tổng Hùng Sơn,
huyện Đại Từ (lập năm 1938)
6. Hương ước xã Thượng Nùng, tổng Thượng
Nùng, huyện Vũ Nhai (lập năm 1942)
7. Hương ước xã Diệm Dương, tổng Thượng
Đình, huyện Phú Bình (lập năm 1942)
8. Hương ước xã Sa Cạt, tổng Túc Duyên, huyện
Đồng Hỷ (lập năm 1932)
9. Hương ước làng La Đình, tổng La Đình, huyện
Phú Bình (lập năm 1942)
10. Hương ước xã Định Man, tổng Định Biên
Trung, châu Định Hoá (lập năm 1932)
11. Hương ước xã Chung Hạc, tổng Hoàng Đàm,
huyện Phổ Yên (lập năm 1936)
12. Hương ước xã Trung Khảm, tổng Định Biên
Trung, châu Định Hoá (lập năm 1932)
13. Hương ước xã Thần Sa, tổng Thượng Nùng,
huyện Vũ Nhai (lập năm 1942)
14. Hương ước xã Phấn Mễ, tổng Động Đạt,
huyện Phú Lương (lập năm 1942)
15. Hương ước xã Sơn Cốt, tổng Hoàng Đàm,
huyện Phổ Yên (lập năm 1942)
16. Hương ước làng Đông Cao, tổng Tiểu Lễ,
huyện Phổ Yên (lập năm 1942).
SUMMARY
COLLECTION OF TAXES IN THE VILLAGES THROUGH MATERIAL
OF REFORMIST VILLAGE CONVENTION IN THAI NGUYEN PROVINCE
Do Hang Nga1
*, Pham Quoc Tuan2
`1TNU – University of Sciences, 2TNU Publishing House
This study illustrates the regular taxation of rural society in the period before 1945 through local
sources. Therefore, some characteristics of the research issue in the specific historical period are
took out. This research was based on processing of reformist village convention which was
established in the first half of the 20th century. Reproduction of taxation shows many
characteristics of Vietnamese traditional villages during the period of ruling of French colonialists.
Hence, both the relationship between the government and the village and the nature of ruling
government in Vietnamese modern history are reconstituted.
Keywords: tax, village, documentation, conventions, the period before 1945.
Ngày nhận bài: 03/5/2018; Ngày phản biện: 06/6/2018; Ngày duyệt đăng: 29/6/2018
*Tel: 0967968273, Email: ngadh@tnu.edu.vn
oµ soT T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ
SOCIAL SCIENCE – HUMANITIES – ECONOMICS
Content Page
Hoang Thi Phuong Nga - Literature tourism model “the old Vu Dai village” 3
Pham Thi Thu Hoai, Tran Thi Thanh - Slang in Van Thanh Le's stories about education problems 9
Ngo Thi Thanh Nga, Pham Thi Hong Van - A brief description of the modes of expressing conjugal
sentiments in the Vietnam medieval literature 15
Nguyen Thi Tham, Nguyen Minh Son - The opposite view of Nguyen Ngoc Tu to Vietnamese traditional
literature via the main female characters in Khong ai qua song 21
Dang Thi Thuy, Nguyen Dieu Thuong - The logic of “non logic” phenomenon in Vietnamese folk verses, proverbs 27
Dinh Thi Giang - Factors affecting current lifestyle of Vietnamese people in the northern delta 33
Nguyen Dieu Thuong, Nguyen Thi Lan Huong - Mechanisms creating implication in satirical jokes 39
Nguyen Thu Quynh, Vi Thi Hien - Household vocabulary of Thai language in Dien Bien province 45
Nguyen Thi Thu Oanh, Hoang Thi My Hanh - Position, role of the communist party of Vietnam in the period
1954 – 1975 and some lessons learned 51
Do Hang Nga, Pham Quoc Tuan - Collection of taxes in the villages through material of reformist village
convention in Thai Nguyen province 57
Le Van Hieu - The efficiency of the model "propaganda department" in communes, wards, township and
"commander" in villages, cities at the current period in Lao Cai province 63
Thai Huu Linh, Nguyen Thi Thu Hien, Nguyen Thi Thanh Ha - The role of the rear Bac Thai in the 1968
general offensive 69
Pham Anh Nguyen - The attraction in “Hai dam” of Phan Khoi 73
Nguyen Thi Huong, Nguyen Thi Mao, Nguyen Tuan Anh - Enhancing the efficiency of extracurrucular
activities in teaching civic education at high schools in thai nguyen city these days 79
Nguyen Van Dung, Dao Ngoc Anh - Physical status of non-sports students at Thai Nguyen University of Education 85
Tran Bao Ngoc, Le Ngoc Uyen, Bui Thanh Thuy et al - The reality of degree classification in non-
examination students at University of Medicine and Pharmacy – Thai Nguyen University in the period from
2013 to 2017 91
Nguyen Thuc Canh - The need for buiding an exercise system with practical content to teach mechanics
to high school 97
Ha Thi Kim Linh, Chu Thi Bich Hue - Educate legal knowledge for ethnic minority women in Vo Nhai
district, Thai Nguyen province 105
Nguyen Thi Thanh Hong, Nguyen Thi Khanh Ly, Vu Kieu Hanh - Improve students’ participation in
English learning activities in large mixed ability classes of the freshman students at Thai Nguyen University of
Medicine and Pharmacy 111
Pham Thi Huyen, Vu Thi Thuy - Manipulate exemplary style according to the President Ho Chi Minh’s
thought in building work style for key caders at present period 117
Dam Quang Hung - Science lesson planning for grade 4, 5 according to experimental research 123
Hoang Thi Thu Hoai - Difficulties in teaching and learning ESP vocabulary for nursing students at Thai
Nguyen Medical College and some solutions 129
Nguyen Lan Huong, Van Thi Quynh Hoa - Determinants affecting English speaking performance of the first-
year students at Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry 135
Journal of Science and Technology
183(07)
N¨m 2018
Vu Kieu Hanh - Determinants to the reading comprehension performance level of the second- year students at
Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry 141
Nguyen Thi Que, Hoang Thi Nhung - Asking the right question for successful self-studying and cooperative
learning - towards independent language learners in the context of ASEAN community and global integration 147
Ngo Thi Thu Ha, Nguyen Thi Hoai Thu - Apply interactive teaching methods to improve the quality of
teaching and learning Vietnamese to international students at Military Technical Academy 153
Duong Van Tan - An assessment of the effectiveness in application of games in general physical development
for students at Thai Nguyen University of Technology 159
Bui Thi Huong Giang - Improving intercultural communicative competence in foreign language teaching
and learning 165
Tran Hoang Tinh, Nong La Duy, Pham Van Tuan - Building self-managed platoon in disciplinary education
for students at the center for defense and security education in the current phase 171
Tran Thi Yen, Khong Thi Thanh Huyen - Improving academic writing performance for english majors
through intensive reading 177
Do Thi Hong Hanh, Hoang Mai Phuong - Vocational training for rural workers in Cho Moi district, Bac
Kan province 183
Tran Thuy Linh, Tran Luong Duc, Nguyen Thi Thuy Trang - European union competition law approach on
exploitative abuses 189
Nguyen Thi Thanh Ha, Pham Viet Huong - Setting up an appropriate set of economic criteria and indicators
for evaluating sustainable forest management in Dinh Hoa district 195
Dinh Thi Hoai - Marketing promotion for information - library product and service at the Learning Resource
Center of Thai Nguyen University 201
Nguyen Thi Thanh Xuan - Factors affecting customer satisfaction in hotels at Thanh Hoa province, Vietnam 207
Duong Thi Tinh - Contributions of goods export to the economic growth of Yen Bai province 213
Le Minh Hai, Tran Viet Khanh - Tourism space organization of Thai Nguyen province 219
Ha Van Vuong - Apply the ergonomics theory in working environment organization at the office of Song Cong
grarment branch II – TNG Investment and Trading Joint Stock Company 227
Mai Anh Linh, Nguyen Thi Minh Anh - Assessing service quality and customer satisfaction: an empirical
study at Lan Chi supermarket, Thai Nguyen city 233
Dinh Hong Linh, Nguyen Thu Nga, Nguyen Thu Hang - Applying logarithmic function to evaluate the
business efficiency of Vietnam banks 239
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 345_373_1_pb_82_2127097.pdf