Vị thế, vai trò cầm quyền của đảng cộng sản Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 và một số bài học kinh nghiệm

Tài liệu Vị thế, vai trò cầm quyền của đảng cộng sản Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 và một số bài học kinh nghiệm: Tập 183, số 07, 2018 Tập 183, Số 07, 2018 Tạp chí Khoa học và Công nghệ CHUYấN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ Mục lục Trang Hoàng Thị Phương Nga - Mụ hỡnh du lịch văn học “Làng Vũ Đại ngày ấy” 3 Phạm Thị Thu Hoài, Trần Thị Thanh - Tiếng lúng trong truyện về đề tài giỏo dục của Văn Thành Lờ 9 Ngụ Thị Thanh Nga, Phạm Thị Hồng Võn - Vài nột về cỏc phương thức thể hiện tỡnh vợ chồng trong văn học trung đại Việt Nam 15 Nguyễn Thị Thắm, Nguyễn Minh Sơn - í thức đối thoại của Nguyễn Ngọc Tư với văn học truyền thống thụng qua những nhõn vật nữ trong tập truyện Khụng ai qua sụng 21 Đặng Thị Thựy, Nguyễn Diệu Thương - Lụ gớch của cỏc hiện tượng “phi lụ gớch” trong ca dao, tục ngữ người Việt 27 Đinh Thị Giang - Những nhõn tố ảnh hưởng đến lối sống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay 33 Nguyễn Diệu Thương, Nguyễn Thị Lan Hương - Phương thức tạo hàm ý trong tiểu phẩm trào phỳng 39 Nguyễn Thu Quỳnh, Vỡ Thị Hiền - Từ ngữ chỉ đồ gia dụng trong tiếng Thỏi ở ...

pdf10 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 530 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vị thế, vai trò cầm quyền của đảng cộng sản Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 và một số bài học kinh nghiệm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tập 183, số 07, 2018 Tập 183, Số 07, 2018 T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ Môc lôc Trang Hoàng Thị Phương Nga - Mô hình du lịch văn học “Làng Vũ Đại ngày ấy” 3 Phạm Thị Thu Hoài, Trần Thị Thanh - Tiếng lóng trong truyện về đề tài giáo dục của Văn Thành Lê 9 Ngô Thị Thanh Nga, Phạm Thị Hồng Vân - Vài nét về các phương thức thể hiện tình vợ chồng trong văn học trung đại Việt Nam 15 Nguyễn Thị Thắm, Nguyễn Minh Sơn - Ý thức đối thoại của Nguyễn Ngọc Tư với văn học truyền thống thông qua những nhân vật nữ trong tập truyện Không ai qua sông 21 Đặng Thị Thùy, Nguyễn Diệu Thương - Lô gích của các hiện tượng “phi lô gích” trong ca dao, tục ngữ người Việt 27 Đinh Thị Giang - Những nhân tố ảnh hưởng đến lối sống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay 33 Nguyễn Diệu Thương, Nguyễn Thị Lan Hương - Phương thức tạo hàm ý trong tiểu phẩm trào phúng 39 Nguyễn Thu Quỳnh, Vì Thị Hiền - Từ ngữ chỉ đồ gia dụng trong tiếng Thái ở tỉnh Điện Biên 45 Nguyễn Thị Thu Oanh, Hoàng Thị Mỹ Hạnh - Vị thế, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng Sản Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 và một số bài học kinh nghiệm 51 Đỗ Hằng Nga, Phạm Quốc Tuấn - Việc thu thuế trong làng xã qua tư liệu hương ước cải lương tỉnh Thái Nguyên 57 Lê Văn Hiếu - Hiệu quả hoạt động của mô hình “ban tuyên vận” xã, phường, thị trấn và “tổ tuyên vận” thôn, bản, tổ dân phố ở tỉnh Lào Cai trong giai đoạn hiện nay 63 Thái Hữu Linh, Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Thanh Hà - Vai trò của hậu phương Bắc Thái trong cuộc tổng tiến công Mậu Thân năm 1968 69 Phạm Anh Nguyên - Sức hấp dẫn trong Hài đàm của Phan Khôi 73 Nguyễn Thị Hường, Nguyễn Thị Mão, Nguyễn Tuấn Anh - Nâng cao hiệu quả tổ chức các hoạt động ngoại khoá trong dạy học môn giáo dục công dân ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Thái Nguyên hiện nay 79 Nguyễn Văn Dũng, Đào Ngọc Anh - Thực trạng thể chất của sinh viên không chuyên thể dục thể thao Trường Đại hoc Sư phạm – Đại học Thái Nguyên 85 Trần Bảo Ngọc, Lê Ngọc Uyển, Bùi Thanh Thủy và cs - Thực trạng xếp loại tốt nghiệp sinh viên diện cử tuyển ở trường Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên giai đoạn 2013-2017 91 Nguyễn Thúc Cảnh - Nghiên cứu xây dựng hệ thống bài tập có nội dung thực tế trong giảng dạy cơ học cho học sinh trung học phổ thông 97 Hà Thị Kim Linh, Chu Thị Bích Huệ - Giáo dục kiến thức pháp luật cho phụ nữ vùng dân tộc thiểu số ở huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên 105 Nguyễn Thị Thanh Hồng, Nguyễn Thị Khánh Ly, Vũ Kiều Hạnh - Tăng cường sự tham gia của sinh viên vào các hoạt động học tiếng Anh trong lớp học đông nhiều trình độ của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên 111 Phạm Thị Huyền, Vũ Thị Thủy - Vận dụng phong cách nêu gương theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng phong cách làm việc đối với cán bộ chủ chốt ở nước ta hiện nay 117 Đàm Quang Hưng - Thiết kế bài học khoa học lớp 4, lớp 5 theo hướng tìm tòi thực nghiệm 123 Hoàng Thị Thu Hoài - Những khó khăn trong việc dạy và học từ vựng tiếng Anh chuyên cho sinh viên chuyên ngành điều dưỡng, trường Cao đẳng Y tế Thái Nguyên và một số giải pháp đề xuất 129 Journal of Science and Technology 183(07) N¨m 2018 Nguyễn Lan Hương, Văn Thị Quỳnh Hoa - Những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng nói tiếng Anh của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên 135 Vũ Kiều Hạnh - Những yếu tố quyết định đến mức độ đọc hiểu của sinh viên năm thứ hai tại trường Đại học Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên 141 Nguyễn Thị Quế, Hoàng Thị Nhung - Hỏi đúng để tự học và học tập cộng tác thành công – hướng tới xây dựng người học ngoại ngữ độc lập trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế 147 Ngô Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Hoài Thu - Ứng dụng các phương pháp giảng dạy tích cực nhằm nâng cao chất lượng dạy – học tiếng Việt cho học viên quốc tế tại Học viện Kỹ thuật Quân sự 153 Dương Văn Tân - Đánh giá hiệu quả áp dụng trò chơi vận động trong phát triển thể lực chung cho sinh viên trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp – Đại học Thái Nguyên 159 Bùi Thị Hương Giang - Nâng cao năng lực giao tiếp giao văn hóa trong dạy và học ngoại ngữ 165 Trần Hoàng Tinh, Nông La Duy, Phạm Văn Tuân - Xây dựng trung đội tự quản trong quản lý giáo dục tính kỷ luật cho sinh viên tại trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh trong giai đoạn hiện nay 171 Trần Thị Yến, Khổng Thị Thanh Huyền - Sử dụng hình thức đọc chuyên sâu để nâng cao khả năng viết học thuật cho sinh viên chuyên ngành tiếng Anh 177 Đỗ Thị Hồng Hạnh, Hoàng Mai Phương - Đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn 183 Trần Thùy Linh, Trần Lương Đức, Nguyễn Thị Thùy Trang - Cách tiếp cận của pháp luật cạnh tranh liên minh châu Âu về hành vi lạm dụng mang tính trục lợi 189 Nguyễn Thị Thanh Hà, Phạm Việt Hương - Xây dựng bộ tiêu chí và chỉ số kinh tế phù hợp để đánh giá quản lý rừng bền vững ở huyện Định Hóa 195 Đinh Thị Hoài - Truyền thông marketing sản phẩm và dịch vụ thông tin - thư viện tại Trung tâm Học liệu Đại học Thái Nguyên 201 Nguyễn Thị Thanh Xuân - Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng sử dụng dịch vụ khách sạn tại Thanh Hóa, Việt Nam 207 Dương Thị Tình - Đóng góp của xuất khẩu hàng hóa tới tăng trưởng kinh tế của tỉnh Yên Bái 213 Lê Minh Hải, Trần Viết Khanh - Phân tích tổ chức không gian lãnh thổ du lịch tỉnh Thái Nguyên 219 Hà Văn Vương - Vận dụng lý thuyết Ecgônômi trong tổ chức môi trường làm việc tại văn phòng chi nhánh may Sông Công II - Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG 227 Mai Anh Linh, Nguyễn Thị Minh Anh - Đánh giá chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng: nghiên cứu thực nghiệm tại siêu thị Lan Chi, Thái Nguyên 233 Đinh Hồng Linh, Nguyễn Thu Nga, Nguyễn Thu Hằng - Sử dụng hàm Loga siêu việt để đánh giá hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng Việt Nam 239 Nguyễn Thị Thu Oanh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 51 - 55 51 VỊ THẾ, VAI TRÒ CẦM QUYỀN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1945 - 1975 VÀ MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM Nguyễn Thị Thu Oanh1*, Hoàng Thị Mỹ Hạnh2 1Khoa Ngoại ngữ - ĐH Thái Nguyên 2Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Từ năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và đã trở thành lực lượng chính trị độc lập lãnh đạo đất nước về mọi mặt. Tuy nhiên, từ sau năm 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam mới thực sự trở thành Đảng cầm quyền lãnh đạo nhà nước. Từ năm 1945 đến năm 1975 là chặng đường lịch sử đầy thách thức, khó khăn cho toàn Đảng và toàn dân tộc. Những thắng lợi oanh liệt của 30 năm kháng chiến - làm thay đổi cả vận mệnh dân tộc, thay đổi cả thân phận của người dân - đã khẳng định vị thế của Đảng và để lại nhiều bài học có giá trị về lý luận và thực tiễn. Từ khóa: Lịch sử, hội nhập, ngoại giao, Đảng Cộng sản Việt Nam, lịch sử Việt Nam. MỞ ĐẦU * Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, là sản phẩm của Chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đây là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của đội tiên phong là giai cấp công nhân do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đứng đầu. Những thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó nhân tố hàng đầu mang tính quyết định là sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam. VỊ THẾ, VAI TRÒ CẦM QUYỀN CỦA ĐẢNG (1945 - 1975) VÀ MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM Thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mĩ (1945 - 1954) Cách mạng tháng Tám thành công, trong tình hình mới của đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập tới vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam là phải lãnh đạo nhân dân củng cố chính quyền, xây dựng chế độ mới và bảo vệ nền độc lập dân tộc, trở thành Đảng cầm quyền và lãnh đạo đất nước về mọi mặt. Trong điều kiện có chính quyền, bản chất chính trị của Đảng không thay đổi, nhưng nội dung, * Tel: 0915567838, Email: nguyenthuoanh.sfl@tnu.edu.vn phương thức hoạt động, phương thức lãnh đạo của Đảng có sự thay đổi cho thích hợp với yêu cầu và nhiệm vụ thời kỳ mới. Người nhấn mạnh: Đảng “vừa là người tổ chức, quản lý, vừa là người đầy tớ hết lòng phục vụ nhân dân, như vậy toàn dân mới sẵn sàng hy sinh để bảo vệ Nhà nước của mình”[1]. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính quyền cách mạng còn non trẻ, đất nước đứng trước vô vàn những khó khăn, thử thách. Một yêu cầu cấp thiết đặt ra là Đảng phải đề ra được đường lối, phương thức lãnh đạo phù hợp với hoàn cảnh lúc bấy giờ. Nhận thức rõ vấn đề này, ngày 3-9-1945, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu diệt “giặc đói”, “giặc dốt”, “giặc ngoại xâm” là nhiệm vụ cấp bách của chính quyền mới. Với các biện pháp như tăng gia sản xuất, gây “Quỹ độc lập”, “Tuần lễ vàng”, “Hũ gạo cứu đói”, thành lập Nha bình dân học vụ, tăng cường củng cố quốc phòng, chỉ trong một thời gian ngắn, về cơ bản, cách mạng Việt Nam đã khắc phục được những khó khăn trước mắt. Nhằm tăng cường hơn nữa sức mạnh của chính quyền cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm: “... Tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu” để bầu ra Quốc hội. Quốc hội đó là cơ quan có quyền lực tối cao của nhân dân sẽ cử ra một “Chính phủ thật sự của toàn dân và ấn định cho nước Việt Nam một Hiến pháp dân chủ” [2]. Trên tinh Nguyễn Thị Thu Oanh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 51 - 55 52 thần đó, ngày 6-1-1946, cuộc Tổng tuyển cử lần đầu tiên được diễn ra trên phạm vi cả nước. Tiếp sau đó, các địa phương cũng tiến hành bầu cử hội đồng nhân dân các cấp. Đây là những sự kiện chính trị có ý nghĩa rất lớn đối với cách mạng Việt Nam. Một cuộc bầu cử thật sự tự do, thật sự dân chủ, được coi là mốc son lịch sử của khối đại đoàn kết toàn dân quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc và xây dựng chế độ mới - Chế độ dân chủ cộng hòa. Trong hoàn cảnh đất nước đang gặp nhiều khó khăn, vấn đề tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong quần chúng nhân dân cũng có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Tháng 5-1946, Đảng chủ trương thành lập Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (Mặt trận Liên Việt). Cùng với mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên Việt góp phần tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện thắng lợi các mục tiêu do cách mạng đặt ra. Ngày 23-9-1945, thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai. Hành động xâm lược của thực dân Pháp đặt “dân tộc Việt Nam trước hai con đường: một là khoanh tay, cúi đầu trở thành nô lệ, hai là đấu tranh đến cùng để giành lấy tự do và độc lập” [3]. Trước những hành động xâm lược ngang nhiên của kẻ thù, Đảng đã kịp thời phát động toàn quốc kháng chiến và lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến để bảo vệ đất nước, bảo vệ những thành quả cách mạng đã đạt được. Từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951, Đại hội II của Đảng đã thảo luận và thông qua “Báo cáo chính trị” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Báo cáo “Bàn về cách mạng Việt Nam” của đồng chí Trường Chinh và Bản Tuyên ngôn, Chính cương và Điều lệ của Đảng Lao động Việt Nam. Chính cương Đảng Lao động Việt Nam là một bản cương lĩnh cách mạng dân tộc dân chủ, có giá trị lí luận và tính thực tiễn chính trị sâu sắc. Chính cương thể hiện tư duy biện chứng trong tư tưởng và phương pháp, trong lí luận cách mạng và kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin, triết lí lịch sử phương Đông, tư tưởng nhân văn truyền thống Việt Nam được vận dụng vào điều kiện cách mạng của dân tộc. Hai bản báo cáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Trường Chinh đã đề ra đường lối, phương hướng cụ thể nhằm đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đi đến thắng lợi cuối cùng. Báo cáo khẳng định đường lối kháng chiến của Đảng là đoàn kết toàn dân, kháng chiến lâu dài, giành độc lập, dân chủ là hoàn toàn đúng đắn. Đại hội cũng quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam. Điều này thể hiện sự nhạy bén về chính trị của Đảng, góp phần củng cố và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam. Để đáp ứng yêu cầu mới trong công tác xây dựng Đảng, đòi hỏi phải hoàn thiện bộ máy lãnh đạo của Đảng từ Trung ương đến địa phương. Tháng 3-1951, Đảng ra Nghị quyết Trung ương lần thứ nhất quy định lề lối làm việc và đề bạt các chức vụ quan trọng trong bộ máy của Trung ương. Sự chỉ đạo kịp thời, đúng đắn của Đảng đã góp phần làm nên thắng lợi lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, bảo vệ những thành quả mà Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã giành được. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp đã chứng minh rằng: “ Một dân tộc dù nhỏ yếu, nhưng một khi đã đoàn kết đứng lên kiên quyết đấu tranh dưới sự lãnh đạo của chính đảng Mác - Lênin để giành độc lập và dân chủ, thì có đầy đủ lực lượng để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Thắng lợi đó cũng chứng tỏ rằng chỉ có sự lãnh đạo đúng đắn của giai cấp công nhân mà Đảng ta là đại biểu, chỉ có đường lối cách mạng khoa học của Chủ nghĩa Mác - Lênin mới có thể tạo điều kiện cho nhân dân ta đánh bại quân thù và giành tự do độc lập”[4]. Thời kì kháng chiến chống Mĩ, cứu nước (1954 - 1975) Với việc kí kết và thực hiện Hiệp định Giơnevơ, nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội; vừa củng cố, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, ổn định đời sống nhân dân, vừa chi viện cho chiến trường miền Nam. Nền kinh tế miền Bắc vẫn là nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Bởi vậy, từ năm 1954 đến năm 1957, Nguyễn Thị Thu Oanh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 51 - 55 53 Đảng đã chỉ đạo việc khôi phục nền kinh tế, trọng tâm là công cuộc cải cách ruộng đất. Tháng 9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã đề ra nhiệm vụ chiến lược cách mạng cả nước và từng miền: Miền Bắc thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa (có vai trò quyết định nhất); Miền Nam thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (có vai trò quyết định trực tiếp). Cách mạng hai miền có quan hệ gắn bó mật thiết nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện hòa bình, thống nhất nước nhà. Để tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hóa, hợp tác hóa, xây dựng kế hoạch 5 năm 1961 – 1965, Đảng đã vận động nhân dân thực hiện thắng lợi các mục tiêu nhiệm vụ mà Đảng đã đề ra, nhằm khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh. Đảng còn phát động các phong trào thi đua yêu nước và đã lôi cuốn đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia như “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”, “Công nhân tay búa, tay súng”, “Nông dân tay cày, tay súng”. Sau một thời gian ngắn, kinh tế miền Bắc nhanh chóng phục hồi, đóng vai trò là hậu phương vững chắc cho tiền tuyến lớn miền Nam. Năm 1964, đế quốc Mỹ ném bom bắn phá miền Bắc, mặc dù công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc bị gián đoạn, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc vẫn thu được những thành tựu quan trọng. Đối với cách mạng miền Nam, sau khi thực dân Pháp rút quân về nước, đế quốc Mỹ đã dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, từng bước thực hiện âm mưu biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới. Hội nghị lần thứ 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1-1959) đã ra quyết định về đường lối cơ bản của cách mạng miền Nam là khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay nhân dân; thành lập mặt trận dân chủ rộng rãi ở miền Nam phù hợp với chiến lược của cách mạng miền Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng; củng cố và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở miền Nam, đặc biệt là ở địa phương. Với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, quân dân ta đã vượt lên mọi gian khổ, hy sinh, bền bỉ và anh dũng chiến đấu, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Đảng đã đẩy mạnh đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh ngoại giao, đi đến ký kết Hiệp định Pari (27-1-1973), buộc Mỹ phải rút hết quân, mở ra khả năng giành thắng lợi quyết định. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 với Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã đập tan toàn bộ chính quyền địch, buộc chúng phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thực tiễn đã chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam “là một Đảng dày dặn kinh nghiệm cách mạng, một đảng có năng lực nắm vững chủ nghĩa Mác – Lênin, ngọn cờ tư tưởng của thời đại ngày nay và vận dụng một cách nhuần nhuyễn vào hoàn cảnh nước mình”[5]. Không phải vì nắm trong tay một số lớn phương tiện chiến tranh, hay vì sử dụng một số vũ khí hiện đại, lại có thể tiến hành chiến tranh một cách khoa học, mà là vì nhận thức và hành động của Đảng về cuộc chiến tranh này là khoa học, vì đường lối mà Đảng đề ra trong cuộc kháng chiến vĩ đại này không những mang tính cách mạng triệt để, mà phương pháp cách mạng của Đảng vận dụng trong cuộc chiến đấu đạt tới trình độ nghệ thuật cao [6]. Một số bài học kinh nghiệm Từ năm 1945 đến năm 1975, trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, với vai trò là một đảng cầm quyền, lãnh đạo đất nước Đảng đã thể hiện luôn trung thành với Tổ quốc, với nhân dân, kiên định lập trường cách mạng và quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Đảng đã đánh giá đúng kẻ thù với quan điểm cách mạng và khoa học; có đường lối, phương pháp cách mạng độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo, không ngừng được bổ sung, hoàn chỉnh. Đảng có sự đoàn kết, thống nhất cao về nhận thức, ý chí và hành động trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Trong quá trình lãnh đạo kháng chiến, đã có nhiều quyết định xuất sắc về chiến lược. Đó là những yếu tố quan trọng làm nên thắng lợi của hai cuộc kháng chiến. Nguyễn Thị Thu Oanh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 51 - 55 54 Từ thực tiễn đấu tranh giai đoạn 1945 - 1975, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm lớn về lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, cứu nước, đó là: Kiên định, quyết tâm, quyết đánh, quyết thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược; Đường lối kháng chiến độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo, quyết chiến, quyết thắng; Lấy nhỏ đánh lớn, phát huy sức mạnh của phương thức tiến hành chiến tranh cách mạng và nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân; Động viên, tổ chức lực lượng toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt; Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, xây dựng căn cứ địa cách mạng, hậu phương kháng chiến vững chắc; Đoàn kết liên minh với nhân dân Lào, Cămpuchia, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của quốc tế; Xây dựng Đảng ngang tầm sứ mạng lãnh đạo kháng chiến, đồng thời bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người. Như vậy, trong giai đoạn 1945 - 1975, nét nổi bật nhất trong những thắng lợi, xuyên suốt các bài học kinh nghiệm là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, không ngừng giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Đây là vấn đề sống còn của cuộc chiến tranh cứu nước trước đây và cũng là vấn đề quyết định thành công của định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay [7]. KẾT LUẬN Sau thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa Xuân năm 1975, đất nước Việt Nam thống nhất, Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, sau chiến tranh, đất nước còn gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, Đảng ta đã chủ động khởi xướng và lãnh đạo thành công công cuộc đổi mới đất nước (1986). Những thành tựu to lớn trong hơn 30 năm đổi mới trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh, ngoại giao... càng khẳng định vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ một đất nước bị tàn phá nặng nề bởi những cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, bị các thế lực thù địch ra sức chống phá... Việt Nam đã nhanh chóng khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội; đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện; chính trị ổn định. Từ đó, lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng được nâng cao. Trong điều kiện đảng cầm quyền, việc đề ra phương thức lãnh đạo đúng đắn đối với Nhà nước có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, góp phần tăng cường và nâng cao vị thế của Đảng. Tình hình thế giới luôn có những biến đổi to lớn về kinh tế, xã hội, đất nước ta lại đang trong quá trình hội nhập quốc tế, bởi vậy, yêu cầu đặt ra là Đảng phải không ngừng đổi mới và nâng cao vai trò của mình trong lãnh đạo Nhà nước, vừa đảm bảo cho sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, vừa đảm bảo kiên định lý tưởng và mục tiêu chủ nghĩa xã hội, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (1988), tập 1, Nxb Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội, tr.146. 2. Hồ Chí Minh, Toàn tập (2011), tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.16, tr. 239. 3. Hồ Chí Minh: Tuyển tập (2011), tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.406. 4. Văn kiện Đại hội III (1960), tập I, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Hà Nội, tr.23. 5. Lê Duẩn (1980), Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr. 242. 6. Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam – Viện Sử học (1985), Sức mạnh chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.46. 7. Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1996), Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước – Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.297. Nguyễn Thị Thu Oanh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 51 - 55 55 SUMMARY POSITION, ROLE OF THE COMMUNIST PARTY OF VIETNAM IN THE PERIOD 1954 – 1975 AND SOME LESSONS LEARNED Nguyen Thi Thu Oanh1*, Hoang Thi My Hanh2 1TNU - School of Foreign Languages 2TNU - University of Education Since 1930, the Communist Party of Vietnam has emerged and has become an independent political force leading the country in all aspects. However, after 1945, the Communist Party of Vietnam actually became the ruling party. From 1945 to 1975, it was a difficult and challenging historical path for the whole Party and the whole nation. The glorious victories of the 30 years of resistance changed both the destiny of the nation and the changing status of the people, affirming the Party's position and leaving many valuable lessons in theory and practice. Keywords: History, integration, foreign affairs, the Communist Party of Vietnam, Vietnamese history. Ngày nhận bài: 06/3/2018; Ngày phản biện: 23/5/2018; Ngày duyệt đăng: 29/6/2018 * Tel: 0915567838, Email: nguyenthuoanh.sfl@tnu.edu.vn oµ soT T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ SOCIAL SCIENCE – HUMANITIES – ECONOMICS Content Page Hoang Thi Phuong Nga - Literature tourism model “the old Vu Dai village” 3 Pham Thi Thu Hoai, Tran Thi Thanh - Slang in Van Thanh Le's stories about education problems 9 Ngo Thi Thanh Nga, Pham Thi Hong Van - A brief description of the modes of expressing conjugal sentiments in the Vietnam medieval literature 15 Nguyen Thi Tham, Nguyen Minh Son - The opposite view of Nguyen Ngoc Tu to Vietnamese traditional literature via the main female characters in Khong ai qua song 21 Dang Thi Thuy, Nguyen Dieu Thuong - The logic of “non logic” phenomenon in Vietnamese folk verses, proverbs 27 Dinh Thi Giang - Factors affecting current lifestyle of Vietnamese people in the northern delta 33 Nguyen Dieu Thuong, Nguyen Thi Lan Huong - Mechanisms creating implication in satirical jokes 39 Nguyen Thu Quynh, Vi Thi Hien - Household vocabulary of Thai language in Dien Bien province 45 Nguyen Thi Thu Oanh, Hoang Thi My Hanh - Position, role of the communist party of Vietnam in the period 1954 – 1975 and some lessons learned 51 Do Hang Nga, Pham Quoc Tuan - Collection of taxes in the villages through material of reformist village convention in Thai Nguyen province 57 Le Van Hieu - The efficiency of the model "propaganda department" in communes, wards, township and "commander" in villages, cities at the current period in Lao Cai province 63 Thai Huu Linh, Nguyen Thi Thu Hien, Nguyen Thi Thanh Ha - The role of the rear Bac Thai in the 1968 general offensive 69 Pham Anh Nguyen - The attraction in “Hai dam” of Phan Khoi 73 Nguyen Thi Huong, Nguyen Thi Mao, Nguyen Tuan Anh - Enhancing the efficiency of extracurrucular activities in teaching civic education at high schools in thai nguyen city these days 79 Nguyen Van Dung, Dao Ngoc Anh - Physical status of non-sports students at Thai Nguyen University of Education 85 Tran Bao Ngoc, Le Ngoc Uyen, Bui Thanh Thuy et al - The reality of degree classification in non- examination students at University of Medicine and Pharmacy – Thai Nguyen University in the period from 2013 to 2017 91 Nguyen Thuc Canh - The need for buiding an exercise system with practical content to teach mechanics to high school 97 Ha Thi Kim Linh, Chu Thi Bich Hue - Educate legal knowledge for ethnic minority women in Vo Nhai district, Thai Nguyen province 105 Nguyen Thi Thanh Hong, Nguyen Thi Khanh Ly, Vu Kieu Hanh - Improve students’ participation in English learning activities in large mixed ability classes of the freshman students at Thai Nguyen University of Medicine and Pharmacy 111 Pham Thi Huyen, Vu Thi Thuy - Manipulate exemplary style according to the President Ho Chi Minh’s thought in building work style for key caders at present period 117 Dam Quang Hung - Science lesson planning for grade 4, 5 according to experimental research 123 Hoang Thi Thu Hoai - Difficulties in teaching and learning ESP vocabulary for nursing students at Thai Nguyen Medical College and some solutions 129 Nguyen Lan Huong, Van Thi Quynh Hoa - Determinants affecting English speaking performance of the first- year students at Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry 135 Journal of Science and Technology 183(07) N¨m 2018 Vu Kieu Hanh - Determinants to the reading comprehension performance level of the second- year students at Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry 141 Nguyen Thi Que, Hoang Thi Nhung - Asking the right question for successful self-studying and cooperative learning - towards independent language learners in the context of ASEAN community and global integration 147 Ngo Thi Thu Ha, Nguyen Thi Hoai Thu - Apply interactive teaching methods to improve the quality of teaching and learning Vietnamese to international students at Military Technical Academy 153 Duong Van Tan - An assessment of the effectiveness in application of games in general physical development for students at Thai Nguyen University of Technology 159 Bui Thi Huong Giang - Improving intercultural communicative competence in foreign language teaching and learning 165 Tran Hoang Tinh, Nong La Duy, Pham Van Tuan - Building self-managed platoon in disciplinary education for students at the center for defense and security education in the current phase 171 Tran Thi Yen, Khong Thi Thanh Huyen - Improving academic writing performance for english majors through intensive reading 177 Do Thi Hong Hanh, Hoang Mai Phuong - Vocational training for rural workers in Cho Moi district, Bac Kan province 183 Tran Thuy Linh, Tran Luong Duc, Nguyen Thi Thuy Trang - European union competition law approach on exploitative abuses 189 Nguyen Thi Thanh Ha, Pham Viet Huong - Setting up an appropriate set of economic criteria and indicators for evaluating sustainable forest management in Dinh Hoa district 195 Dinh Thi Hoai - Marketing promotion for information - library product and service at the Learning Resource Center of Thai Nguyen University 201 Nguyen Thi Thanh Xuan - Factors affecting customer satisfaction in hotels at Thanh Hoa province, Vietnam 207 Duong Thi Tinh - Contributions of goods export to the economic growth of Yen Bai province 213 Le Minh Hai, Tran Viet Khanh - Tourism space organization of Thai Nguyen province 219 Ha Van Vuong - Apply the ergonomics theory in working environment organization at the office of Song Cong grarment branch II – TNG Investment and Trading Joint Stock Company 227 Mai Anh Linh, Nguyen Thi Minh Anh - Assessing service quality and customer satisfaction: an empirical study at Lan Chi supermarket, Thai Nguyen city 233 Dinh Hong Linh, Nguyen Thu Nga, Nguyen Thu Hang - Applying logarithmic function to evaluate the business efficiency of Vietnam banks 239

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf344_372_1_pb_1242_2127096.pdf
Tài liệu liên quan