Về mối quan hệ giữa xã và thôn, quản lý và tự quản

Tài liệu Về mối quan hệ giữa xã và thôn, quản lý và tự quản: Xã hội học số 3 (79), 2002 27 Về mối quan hệ giữa xã và thôn, quản lý và tự quản Hoàng Chí Bảo 1. Cần nhận thức đúng tiền đề lý luận và thực tiễn của đổi mới Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn. Để góp phần đổi mới và nâng cao chất l−ợng hoạt động của Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn theo tinh thần Nghị quyết Trung −ơng 5 (Khóa IX), cần phải làm sáng tỏ một số tiền đề lý luận và thực tiễn, coi đó là điểm xuất phát, là cơ sở để đánh giá hiện trạng, phân tích nguyên nhân và xác định các giải pháp đối với Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn n−ớc ta hiện nay. Chỉ có dựa trên những tiền đề đúng mới có thể tìm đ−ợc ph−ơng h−ớng và giải pháp đúng cho mỗi vấn đề đặt ra. Cách đây hơn 15 năm, tại Đại hội VI (12 – 1986), Đảng ta đã khởi x−ớng và quyết định một đ−ờng lối chiến l−ợc đối với sự phát triển của n−ớc ta, đó là đ−ờng lối Đổi mới. Đảng ta nhấn mạnh rằng, để đổi mới xã hội, tr−ớc hết phải đổi mới t− duy, đặc biệt là t− duy kinh tế để từng b−ớc hình th...

pdf10 trang | Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 733 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Về mối quan hệ giữa xã và thôn, quản lý và tự quản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xã hội học số 3 (79), 2002 27 Về mối quan hệ giữa xã và thôn, quản lý và tự quản Hoàng Chí Bảo 1. Cần nhận thức đúng tiền đề lý luận và thực tiễn của đổi mới Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn. Để góp phần đổi mới và nâng cao chất l−ợng hoạt động của Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn theo tinh thần Nghị quyết Trung −ơng 5 (Khóa IX), cần phải làm sáng tỏ một số tiền đề lý luận và thực tiễn, coi đó là điểm xuất phát, là cơ sở để đánh giá hiện trạng, phân tích nguyên nhân và xác định các giải pháp đối với Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn n−ớc ta hiện nay. Chỉ có dựa trên những tiền đề đúng mới có thể tìm đ−ợc ph−ơng h−ớng và giải pháp đúng cho mỗi vấn đề đặt ra. Cách đây hơn 15 năm, tại Đại hội VI (12 – 1986), Đảng ta đã khởi x−ớng và quyết định một đ−ờng lối chiến l−ợc đối với sự phát triển của n−ớc ta, đó là đ−ờng lối Đổi mới. Đảng ta nhấn mạnh rằng, để đổi mới xã hội, tr−ớc hết phải đổi mới t− duy, đặc biệt là t− duy kinh tế để từng b−ớc hình thành nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội. Đó chính là tiền đề lý luận - nhận thức của đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị cũng nh− đổi mới xã hội gắn liền với cuộc vận động dân chủ hóa toàn diện các lĩnh vực của đời sống. Đảng ta cũng đồng thời nhấn mạnh và khẳng định một nguyên tắc có tính chất quan điểm và ý nghĩa ph−ơng pháp luận quan trọng là: nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật. Đó là thái độ khoa học nghiêm túc, là thái độ tôn trọng sự thật, tôn trọng hiện thực khách quan. Đó cũng là thể hiện tính trung thực, trách nhiệm và bản lĩnh chính trị của một Đảng cách mạng cầm quyền tr−ớc cuộc sống của nhân dân và t−ơng lai phát triển của dân tộc. Nhờ sự thấm nhuần quan điểm thực tiễn, sự xác định đúng những tiền đề lý luận và thực tiễn đó mà Đảng ta đã đánh giá đúng tình hình đất n−ớc khi b−ớc vào đổi mới lúc bấy giờ và những chủ tr−ơng, chính sách, giải pháp đổi mới đúng đắn, sáng tạo mà Đảng đ−a ra đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, đ−ợc cuộc sống chấp nhận và nhân dân hết lòng ủng hộ. Thành tựu kinh nghiệm của hơn 15 năm đổi mới vừa qua đã cung cấp nhiều bài học quan trọng đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn cuộc sống để chúng ta tiếp tục đổi mới, tiếp tục nghiên cứu và giải quyết những vấn đề đó, h−ớng tới mục tiêu phát triển và phát triển bền vững ở n−ớc ta. Theo tinh thần đó, việc đổi mới và nâng cao chất l−ợng hoạt động của Hệ Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Về mối quan hệ giữa xã và thôn, quản lý và tự quản 28 thống chính trị ở cơ sở nông thôn đòi hỏi phải làm rõ những tiền đề lý luận và thực tiễn của nó. Liên quan trực tiếp tới vấn đề này, có hàng loạt câu hỏi đặt ra, mà nổi bật là những câu hỏi sau đây: Thứ nhất, đổi mới Hệ thống chính trị ở n−ớc ta đ−ợc đặt ra ngay từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới. Vì sao đến nay chúng ta mới đề cập tới và chú trọng giải quyết vấn đề đổi mới Hệ thống chính trị ở cơ sở, đặc biệt ở nông thôn? Nói cách khác cái gì đang hối thúc mạnh mẽ sự cần thiết phải đổi mới Hệ thống chính trị ở nông thôn? Đâu là mục đích mà cuộc vận động đổi mới này h−ớng tới? Thứ hai, cùng với đổi mới, ở n−ớc ta đã diễn ra cuộc vận động dân chủ hóa toàn diện các lĩnh vực của đời sống. Sau hơn một thập kỷ thực hiện cuộc vận động này, ở n−ớc ta nổi lên một vấn đề bức xúc là dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là dân chủ ở nông thôn, dân chủ của nông dân. Từ đó mà xuất hiện quy chế dân chủ ở làng xã. Trên thực tế, quy chế này chỉ ra đời sau sự kiện nông dân ở các làng xã của tỉnh Thái Bình đã khiếu kiện đông ng−ời, kéo dài, v−ợt cấp để phản ứng những hiện t−ợng tiêu cực xảy ra ở cơ sở, tạo thành những điểm nóng chính trị - xã hội vào những năm 94 - 97 và 97 - 2000. Vậy, giữa việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở với đổi mới Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn có mối liên hệ nh− thế nào? Vì sao không đổi mới căn bản hiện trạng Hệ thống chính trị ở cơ sở nh− hiện nay thì không thể thực hiện đ−ợc quy chế dân chủ ở cơ sở mà Đảng và Chính phủ đã ban hành? Thứ ba, từ nhiều năm nay, d−ới tác động và ảnh h−ởng tích cực của cơ chế khoán trong nông nghiệp và đối với các hộ nông dân, ở nông thôn n−ớc ta có hiện t−ợng tái lập lại làng tiểu nông, xác lập lại vai trò của kinh tế hộ gia đình và vị thế của ng−ời nông dân, hộ nông dân . Đi liền với hiện t−ợng kinh tế - xã hội này là một hiện t−ợng văn hóa độc đáo. Đó là sự tái lập lại h−ơng −ớc, gọi là h−ơng −ớc mới hay quy −ớc làng văn hóa, nhiều tổ chức xã hội tự nguyện của dân, do dân lập ra đã đi vào hoạt động nh− những tổ chức phi chính thống. Những nhân tố này có tác dụng nh− thế nào và đến mức nào đối với việc thực hiện dân chủ ở nông thôn đồng thời thúc đẩy sự đổi mới Hệ thống chính trị ở nông thôn? Thứ t−, cũng từ nhiều năm nay, vai trò của thôn (làng) ngày càng trở nên quan trọng, nhất là từ khi có phong trào dân trực tiếp bầu tr−ởng thôn để thực hiện các công việc tự quản cộng đồng. Thôn (làng) là một đơn vị cấu thành của xã nh−ng chỉ có xã mới là một cấp của hệ thống quản lý hành chính nhà n−ớc, (cấp cơ sở), trong khi thôn là một đơn vị tự quản cộng đồng. Vậy quan hệ giữa xã và thôn, giữa quản lý và tự quản,giữa pháp luật (luật n−ớc ) và h−ơng −ớc (luật làng) cần đ−ợc nhận thức và xử lý nh− thế nào cho đúng ? Những mối quan hệ này phải chăng đã chi phối trực tiếp đối với việc thực hiện quy chế dân chủ và đổi mới Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn ? Thứ năm, trong tình hình hiện nay, cùng với sự phát triển của đất n−ớc ở thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đời sống xã hội nông thôn cũng đang diễn ra những biến đổi sâu sắc với một nhịp độ nhanh chóng. Nông thôn n−ớc ta đang chịu tác động đồng thời của các nhân tố: kinh tế hàng hóa và công nghiệp hóa Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn Hoàng Chí Bảo 29 nông thôn, dân chủ hóa và đô thị hóa. Với những tác động đó, ở nông thôn đang diễn ra phân hóa giàu- nghèo và xóa đói giảm nghèo, đang thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế để chuyển kinh tế thuần nông thành kinh tế hàng hóa, vừa phát triển kinh tế hộ, vừa xây dựng kinh tế hợp tác, kinh tế trang trại và hợp tác xã kiểu mới. Dạy nghề cho nông dân đang là một yêu cầu bức xúc để tạo nguồn nhân lực chất l−ợng cao. Thay cho hình ảnh ng−ời nông dân cổ truyền và làng xã cổ truyền là hình ảnh ng−ời nông dân hiện đại có học vấn, học thức, có nghề chuyên môn đ−ợc đào tạo và một nông thôn mới, hiện đại xã hội chủ nghĩa. Phù hợp với yêu cầu phát triển ấy, việc đổi mới và xây dựng Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn cần phải đ−ợc giải quyết nh− thế nào? Vấn đề xây dựng Đảng bộ, chi bộ ở nông thôn trong sạch vững mạnh, coi đó là khâu then chốt, cải cách và nâng cao hiệu quả của chính quyền cấp xã, coi đó là điểm đột phá cùng với tăng c−ờng vai trò, tác dụng của Mặt trận, của các đoàn thể trong Hệ thống chính trị, coi đó là điều kiện không thể thiếu...cần đ−ợc cụ thể hóa thành những nhiệm vụ và biện pháp thực hiện ra sao để đem lại hiệu quả thực sự, góp phần ổn định và phát triển nông thôn, củng cố lòng tin của quần chúng nông dân đối với Đảng, với chế độ. Đó là 5 vấn đề, 5 câu hỏi lớn đặt ra, cho phép chúng ta hình dung một cách tổng quát tình hình và bối cảnh khi tiến hành đổi mới và nâng cao chất l−ợng Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn. Có thể nói, giải quyết bất cứ một vấn đề, một nhiệm vụ nào nói trên, trên mỗi việc làm, mỗi b−ớc đi chúng ta đều đụng chạm trực tiếp đến một thực tế phức tạp, đó là quan hệ giữa xã và thôn, giữa quản lý và tự quản ở nông thôn. Đây quả thật là tiền đề lý luận và thực tiễn phải giải quyết để đổi mới Hệ thống chính trị ở nông thôn. Mặt khác, chính trong tiến trình đổi mới Hệ thống chính trị ở nông thôn mà nhiều vấn đề thuộc những mối quan hệ này sẽ bộc lộ rõ ra. Thực tiễn cuộc sống và kinh nghiệm sẽ mách bảo cho chúng ta nhiều điều thiết thực, bổ ích để giải quyết. Cũng nh− vậy, kết quả và thành tựu đổi mới Hệ thống chính trị ở nông thôn sẽ góp phần làm sáng tỏ, định hình bản chất những mối quan hệ đó. Mọi giải pháp và chính sách đối với tổ chức bộ máy, đối với đội ngũ cán bộ cơ sở ở nông thôn nhìn từ ph−ơng diện lãnh đạo và quản lý, xét đến cùng, đều bị chi phối bởi những mối quan hệ nêu trên. 2. Xã và thôn, quản lý và tự quản ở nông thôn. ở n−ớc ta, từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khi chính thể dân chủ cộng hòa ra đời, cơ cấu tổ chức xã hội ở nông thôn khác về căn bản so với lịch sử tr−ớc đây của nông thôn cổ truyền thời phong kiến và d−ới chế độ thực dân. Đó là cơ cấu xã - thôn. Xã là một khái niệm hành chính cơ sở, ổn định và cố định ở nông thôn. Nói tới xã là nói tới một cấp quản lý nhà n−ớc. Đó là cấp cơ sở trong hệ thống 4 cấp của quản lý hành chính nhà n−ớc hiện hành: trung −ơng - tỉnh, thành phố - quận, huyện và xã (gọi chung cho cả ph−ờng và thị trấn). Bốn cấp quản lý này đ−ợc tổ chức theo một hệ thống dọc. Từ trên xuống sẽ là trung −ơng - địa ph−ơng và cơ sở. Nếu nhìn từ d−ới lên sẽ là cơ sở - địa ph−ơng và toàn quốc. Đó là tác động hai chiều làm nổi bật vai trò đặc biệt quan trọng của cơ sở. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Về mối quan hệ giữa xã và thôn, quản lý và tự quản 30 Cơ sở nhìn theo chiều từ trên xuống, xét về quy mô và cấp độ tổ chức thì là cấp thấp nhất, cấp cuối cùng. Cũng có thể coi cấp cơ sở, cấp xã là cấp nhỏ nhất. Nếu trung −ơng và toàn quốc đ−ợc xem là chỉnh thể, hệ thống của cái vĩ mô thì cơ sở xã th−ờng đ−ợc xem là một bộ phận hợp thành của hệ thống quản lý nhà n−ớc, đứng đầu là nhà n−ớc trung −ơng. Cơ sở th−ờng đ−ợc hình dung là một cái vi mô, là một tế bào, là một phần tử hợp thành của cái vĩ mô - cả n−ớc và toàn quốc nh− một cơ thể sống. Xét theo quan hệ quyền lực, quyền hạn, chức trách của tổ chức nhà n−ớc, cấp cơ sở xã là thấp nhất, nhỏ nhất. Hệ thống chính trị ở cấp xã cũng nh− chính quyền cấp xã đ−ơng nhiên chịu sự chỉ đạo, kiểm soát của các cấp trên, từ huyện, tỉnh tới trung −ơng. Cái nhỏ nhất, thấp nhất đó, hiển nhiên còn đ−ợc minh chứng bởi quy mô diện tích, địa giới hành chính và số l−ợng dân c− mà xã quản lý. Vấn đề là ở chỗ, cái thấp nhất và nhỏ nhất của cấp xã không vì thế mà đồng nhất nó với cái kém quan trọng nhất, cái thuộc về trình độ thấp nhất so với các cấp khác trên nó. Sự đồng nhất, giản l−ợc này dù không bao giờ thành văn nh−ng trên thực tế vẫn th−ờng xảy ra trong tâm lý, ý thức, trong nhận thức của không ít cán bộ các cấp, các ngành, kể cả cán bộ cấp trên lẫn cán bộ ở ngay cơ sở xã. Nó biểu hiện ở tâm lý chủ quan, coi th−ờng lẫn tâm lý tự ti, mặc cảm. Sự yếu kém,trì trệ kéo dài của cấp xã do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân vừa kể trên. Cái nhỏ nhất không bao giờ là cái ít quan trọng nhất. Lãnh đạo, quản lý ở cấp thấp nhất cũng không bao giờ đ−ợc xem là chất l−ợng thấp nhất, nghĩa là yêu cầu với cán bộ cơ sở xã thế nào cũng đ−ợc. Một cách không tự giác, do yếu kém về nhận thức mà chúng ta vô tình đã mắc phải sai lầm này từ lúc nào không biết mà cho tới nay ch−a phải đã thanh toán hết. Rõ ràng là, tính chất, tầm quan trọng của mỗi cấp độ quản lý không phải do định l−ợng, mà là do định tính, do chức năng, nhiệm vụ của nó quy định. Hơn nữa, cái gọi là “bộ phận”, “vi mô” của cấp xã phải đ−ợc quan niệm một cách biện chứng chứ không phải siêu hình. Xã vừa là một bộ phận cấu thành của chỉnh thể quản lý nhà n−ớc và xã hội, vừa là một chỉnh thể của bản thân nó. Xã là một chỉnh thể trong hoạt động vận hành, tổ chức và điều chỉnh nh− tự nó đã là một cơ thể sống, dù nó vẫn là một tế bào hợp thành toàn bộ cơ thể sống của nhà n−ớc, một cấu kiện tạo nên tòa nhà xã hội. Xã, trong một chừng mực nào đó mà xét, nó là vi mô của nhà n−ớc và xã hội nh−ng cũng đồng thời là một cái vĩ mô của đời sống của nó mà nó tồn tại một cách cụ thể sinh động với một môi tr−ờng, một không gian xác định, một tập hợp vô số nhiều các quan hệ xã hội nhiều chiều, ngang - dọc, trên -d−ới đan xen nhau vô cùng phức tạp. Xã là một địa bàn kinh tế - xã hội - chính trị - văn hóa, nơi có cả một cộng đồng dân c− hàng nghìn, hàng vạn con ng−ời sinh sống. “Cái xã hội” và “Cái nhà n−ớc" thu nhỏ ấy, trong hình thái của xã đã làm cho xã là vi mô nh−ng mang tầm của vĩ mô, khi nó hàng ngày, hàng giờ phải lo chuyện an sinh và an ninh, đồng Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn Hoàng Chí Bảo 31 thuận và hòa hợp để phát triển cho hàng nghìn, hàng vạn con ng−ời. Xã là một tế bào, làm nên sự sống của chính cơ thể nó và đem lại sự sống cho cả cơ thể lớn hơn là xã hội. Lẽ nào sinh lực, nội lực, tiềm lực của xã lại không quan trọng? Đó là xét tầm quan trọng của xã mới chỉ thuần từ góc độ và quan hệ quản lý, nhìn từ trên xuống. Còn nếu xét từ d−ới lên, xã chính là cơ sở, là nền tảng của nhà n−ớc và xã hội. Xã với t− cách là cơ sở, đó là nơi diễn ra hoạt động sống của dân, ở đây tr−ớc hết là nông dân và các hộ nông dân. Xã là nơi tổ chức cuộc sống cho nhân dân, là nơi bắt đầu của hoạt động sản xuất - kinh doanh, tr−ớc hết là cung cấp l−ơng thực, thực phẩm nuôi sống toàn xã hội, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, sản phẩm hàng hóa cho thị tr−ờng. Nói tới cơ sở là nói tới dân và cuộc sống của dân. Cơ sở chính là cơ sở xã hội, của chế độ, của cách mạng, của Đảng và Nhà n−ớc. Sự ổn định bắt đầu từ ổn định ở cơ sở. Đó là tiền đề của phát triển. Sự mất ổn định cũng bắt đầu từ mất ổn định của cơ sở. Đó là dấu hiệu đầu tiên của tình huống mất ổn định trên quy mô xã hội, điều đáng lo ngại nhất của chế độ, của sự nghiệp chung. Th−ờng thì, sự không bình yên của thể chế, xã tắc bắt đầu từ chỗ lòng dân không yên. Quy luật quản lý của muôn đời là, có dân thì có tất cả mà mất dân thì mất tất cả. Thuận lòng dân, tức là “nhân hòa” phải nhìn thấy rõ nhất, trực tiếp nhất từ cơ sở qua thái độ và hành vi phản ứng của dân chúng. Cho đến nay, n−ớc ta vẫn là một n−ớc nông nghiệp. ở nông thôn, tức là ở trên d−ới 10.000 xã, ph−ờng, trong đó số xã là tuyệt đối, có tới trên 60 triệu nông dân với 10 triệu hộ gia đình nông dân, chiếm tới 70% sức lao động và 80% dân số cả n−ớc. Đảng có trên 2 triệu đảng viên thì 50% số đảng viên và 20% số tổ chức cơ sở Đảng là ở nông thôn. Đội ngũ cán bộ cơ sở ở nông thôn - những ng−ời mà hiện nay ch−a h−ởng l−ơng, chỉ có chế độ phụ cấp và sinh hoạt phí, nếu tính cả số cán bộ ở thôn, có tới trên 2 triệu ng−ời, một năm nhà n−ớc phải chi từ ngân sách trung −ơng và địa ph−ơng là 2.400 tỷ đồng cho các khoản phụ cấp này. Vậy mà, tình hình các điểm nóng chính trị - xã hội ở nông thôn vẫn tiếp tục diễn ra, hoặc bột phát hoặc còn đang tiềm tàng, sau sự kiện Thái Bình và Tây Nguyên. Hiện trạng đó cho thấy Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn phải đ−ợc củng cố, tăng c−ờng nh− thế nào. Cơ sở xã, ph−ờng, thị trấn còn là nơi chứng thực đ−ờng lối, chính sách, luật pháp của Đảng và Nhà n−ớc đi vào cuộc sống và đ−ợc triển khai nh− thế nào? Dù đúng đắn, hoàn hảo đến đâu, đ−ờng lối, chính sách, luật pháp mới chỉ là khả năng. Muốn cho khả năng trở thành hiện thực, tạo thành kết quả tích cực, thúc đẩy cuộc sống phát triển, đem lại cơm ăn, áo mặc, nhà ở cho dân, tự do, dân chủ, công bằng để dân thụ h−ởng thì đ−ờng lối, chính sách, luật pháp phải đi vào cuộc sống, phải đ−ợc vật chất hóa thông qua tổ chức, thể chế, hoạt động của dân. Cấp xã và cơ sở nói chung, do đó là cấp hành động, cấp hoạt động, tổ chức thực hiện đ−ờng lối chính sách, nghị quyết của Đảng và Nhà n−ớc. Cán bộ cơ sở phải là những ng−ời có năng lực giỏi, rất giỏi trong việc tập hợp dân, vận động dân, tạo nên phong trào hành động của dân, h−ớng vào phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội tại cơ sở. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Về mối quan hệ giữa xã và thôn, quản lý và tự quản 32 Vậy là cơ sở, trong đó có vị trí nổi bật của xã, là nơi diễn ra sinh động việc tuyên truyền, quảng bá các thông tin mới nhất của Đảng và Nhà n−ớc đối với dân chúng, để “ý Đảng” hợp với “lòng dân”, biến thành tâm nguyện, ý chí và hành động của dân, thành việc của dân, trách nhiệm lo toan chung của dân chúng. Cơ sở, xét theo chiều cạnh con ng−ời, trong quan hệ với dân và cuộc sống của dân, chính là nơi Đảng, Nhà n−ớc, và chế độ ta tìm thấy ngọn nguồn của mọi sức mạnh và năng lực sáng tạo, là địa chỉ quan trọng nhất, là tầng sâu nhất mà mọi chỉ thị, nghị quyết, chủ tr−ơng, đ−ờng lối, chính sách phải tìm đến. Đảng là một Đảng chiến đấu, Chính phủ là một chính phủ hành động, Nhà n−ớc là nhà n−ớc của dân, do dân vì dân. Đoàn thể là tổ chức và môi tr−ờng hoạt động của dân, thể hiện nguyện vọng, lợi ích của dân. Muốn đ−ợc nh− vậy, tất cả phải h−ớng về cơ sở, đến với dân, thực hiện tốt nhất sự ủy quyền của dân, làm cho cơ sở thực sự vững mạnh, thực hiện dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân quyết định. Muốn vậy, cán bộ phải tận tâm, tận lực g−ơng mẫu, phục vụ nhân dân “thật thà nhúng tay vào việc”, “nói đi đôi với làm”, “biết vận động dân cho đúng và cho khéo”, “không để sót một ng−ời nào”, “phải thực sự óc nghĩ, mắt nhìn, tai nghe, miệng nói, chân đi, tay làm”để cho “dân tin t−ởng, dân yêu mến, dân giúp đỡ, dân ủng hộ, dân bảo vệ ”(Hồ Chí Minh). Cơ sở quan trọng nh− vậy. Xã là một cơ sở nh− vậy, là nơi “chính quyền ở trong lòng dân”, nhờ đó mà chế độ, mà Hệ thống chính trị mới có sức mạnh và hiệu quả thực sự. Tuy nhiên, cũng từ đó mà lại phải đề phòng và khắc phục một nhận thức không đúng có thể xảy ra. Coi th−ờng xã, cơ sở xã, cán bộ xã đã là không đúng nh−ng ở một cực khác, tuyệt đối hóa tầm quan trọng của cơ sở, giao cho xã đủ mọi việc, biến xã nh− một cái túi đựng, một cái phễu, giót vào đó đủ mọi thứ th−ợng vàng hạ cám, đùn đẩy xuống xã những trách nhiệm vốn không phải của xã mà xã không thể nào cáng đáng nổi... cũng là điều không thể chấp nhận đ−ợc. Điều đó không phải đề cao xã mà lại là một biến thể khác của việc coi th−ờng, hạ thấp nó, không làm cho xã mạnh lên mà chỉ làm cho xã yếu đi. Cách làm ấy của cấp trên lại vô tình mở đ−ờng cho xã, khuyến khích xã noi theo để xã tiếp tục đùn đẩy trách nhiệm của xã xuống thôn, xóm, bản, ấp. Xã tự biện luận rằng, “thôn là cánh tay nối dài của xã”. Hậu quả là, nó tiếp tục kéo dài tình trạng lộn xộn, lẫn lộn chức năng, nhiệm vụ, lảng tránh, đùn đẩy trách nhiệm, hoạt động ách tắc, trì trệ, không lấp đ−ợc mà còn mở rộng thêm những lỗ hổng trong quản lý, cuối cùng, dân phải gánh chịu mọi hậu quả, mọi thua thiệt, do lãng phí, tham ô, quan liêu, tham nhũng, tình trạng nói nhiều, làm ít, nói và làm không ăn khớp với nhau, dân chủ biến thành “quan chủ”, dân ủy quyền thành ra dân không có quyền gì để kiểm tra, kiểm soát, dân đ−ợc bàn nh−ng không làm theo đúng ý dân, dân làm nhiều mà h−ởng không đủ, không ít tr−ờng hợp dân không đ−ợc h−ởng. Nếu cơ sở xã là nh− vậy thì thôn trong quan hệ với xã là thế nào? Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn Hoàng Chí Bảo 33 Thôn còn gọi là làng, một cách phổ biến, thôn, làng là những phân thể của xã, trừ một số rất ít ngoại lệ còn di tồn mô hình “nhất thôn (làng) nhất xã”. Xã, do đó là một tập hợp của các thôn. Nếu xã là một không gian lớn, định hình, nó cố định với vị thế của một cấp quản lý hành chính, thì thôn là một khái niệm rất năng động, nó cũng là một thực thể, một bản thể nh−ng sinh động hơn nhiều, ít tính chất quan liêu, hành chính hóa hơn nhiều so với xã, với các cấp trên. Thôn, làng gắn bó máu thịt với từng ng−ời dân ở nông thôn, kể cả ng−ời dân ở đô thị, trong tận chiều sâu tâm lý, tiềm thức của mỗi ng−ời. Thôn biểu đạt một ý nghĩa kép. Với sắc thái quản lý, nói đúng hơn là khi thôn nhận sự ủy nhiệm quản lý của xã thì gọi là thôn. Thôn, theo đó mang ý nghĩa của lối định danh hành chính. Song mặt khác và đây là chủ yếu, thôn là một cộng đồng dân c− vừa theo địa vực, vừa có cả tính huyết thống. Thôn là tự quản cộng đồng, đây là thuộc tính điển hình về chức năng, vai trò của thôn. Thôn có đời sống riêng của nó, của sự gắn kết cộng đồng tự nhiên và bền vững trong lịch sử. Đó là một cộng đồng xã hội mà cũng là một cộng đồng văn hóa. Dù gọi là thôn nh−ng cái hồn sống động của nó lại là làng, gắn với văn hóa làng và đang phấn đầu trở thành làng văn hóa. Sức sống mãnh liệt nh− một hằng số trong đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng làng làm cho thôn biểu cảm bởi làng, nhập với làng làm một, thành thôn làng và làng cũng bám vào xã, tỏa cái sắc thái văn hóa làng sinh động, cá thể ấy vào cái xã đã có phần bị sơ cứng do hành chính và quan liêu. Nhờ thế, xã còn th−ờng đ−ợc nhắc đến với cái tên làng xã. Xã và thôn đều có chung vị trí, vai trò của cơ sở nh−ng xã và thôn là những dạng cơ sở có chức năng, vị thế khác nhau. Xã là cấp cơ sở của quản lý hành chính nhà n−ớc. Chính quyền xã là hình ảnh đại diện của nhà n−ớc, của chính phủ ở cơ sở nông thôn, tức là ở xã. Chức năng, quyền hạn quản lý đó thể hiện trên phạm vi xã, do đó quyền quản lý của xã xuống tận thôn xóm, ở tất cả mọi ngõ, mọi nhà, mọi hộ gia đình. Xã có quyền chỉ thị cho thôn, chỉ đạo thôn, ủy quyền cho thôn theo chức trách, thẩm quyền nh−ng có giới hạn. Trong khi đó, thôn là một cộng đồng tự quản, không có chức trách, thẩm quyền quản lý, không phải là một cấp hành chính, không có t− cách pháp nhân, không có con dấu. Bộ máy của xã hình thành nên theo luật tổ chức chính quyền, theo hiến pháp và các đạo luật khác của nhà n−ớc có liên quan. Bộ máy đó do dân bầu nh−ng theo ph−ơng thức dân chủ đại diện. Các thành viên Hội đồng nhân dân xã, những đại biểu của dân thay mặt dân bầu ra chủ tịch và các chức danh trong ủy ban nhân dân nh− là một cơ quan chấp hành của Hội đồng. Trong khi đó, ở thôn, toàn dân, thực chất là toàn thể các chủ hộ dân trực tiếp bầu ra tr−ởng thôn. Đây là ng−ời đại diện cho tinh thần tự quản của dân, cùng với dân trong thôn tự quản lý công việc của mình. Đó là dân chủ trực tiếp. Thôn tự quản đồng thời cũng phải thực hiện một số nghĩa vụ quản lý do xã ủy quyền. Xã quản lý bằng pháp luật, chính sách, chế độ, cơ chế, có bộ máy hoàn chỉnh, có quyền, và là một cấp ngân sách (ngân sách xã). Trong khi đó, tr−ởng thôn cùng với Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Về mối quan hệ giữa xã và thôn, quản lý và tự quản 34 dân thôn tự quản bằng h−ơng −ớc nh− một thỏa −ớc tập thể, không đ−ợc trái luật, phải tuân thủ luật nh−ng vẫn có một “không gian quyền lực” của mình qua h−ơng −ớc, do dân thôn cùng tự nguyện cho phép, tự nguyện thực hiện. Xã và các cấp trên xã cho phép thôn dùng h−ơng −ớc để tự quản, đồng thời cũng thông qua h−ơng −ớc mà quản lý thôn. Quản lý không dừng lại ở xã mà xuống tới thôn cũng nh− tự quản không chỉ diễn ra ở thôn, trong phạm vi thôn mà còn có ở xã nữa, trên những việc, những hoạt động cụ thể. Quản lý ở xã mang tính pháp lý chính thống, có cả c−ỡng chế, c−ỡng bức theo pháp luật, lý trí, trong khi tự quản ở thôn lại dùng thuyết phục, phân công, hợp tác tự nguyện giao l−u, khế −ớc, tự nguyện theo “tập quán pháp”, theo “thỏa −ớc”. Quản lý và tự quản trong xã - thôn và trong thôn - xã không đối lập, loại trừ nhau, không chia cắt nhau mà dựa vào nhau, hỗ trợ, thúc đẩy, chi phối lẫn nhau. Thôn tự quản theo sợi dây liên hệ giữa các chủ thể nhân cách: cá nhân - chủ hộ - tr−ởng thôn - tr−ởng họ - theo những điều khoản của h−ơng −ớc, quy −ớc, đồng thời tuân thủ pháp luật. D− luận xã hội trong cộng đồng thôn là một sức mạnh điều chỉnh của tự quản cộng đồng. Tự quản còn có sức hỗ trợ của đạo đức, kinh tế, tâm lý, lối sống. Còn quản lý luôn quy chiếu theo quyền và nghĩa vụ do luật định, quản lý ứng xử với con ng−ời theo luật, theo các thiết chế, bộ máy, ph−ơng tiện công cụ đã có. Quản lý chặt chẽ, nghiêm minh, có hiệu lực sẽ tạo ra môi tr−ờng, điều kiện để thúc đẩy tự quản. Tự quản hỗ trợ mạnh mẽ cho quản lý, làm giảm bớt gánh nặng và sự quá tải của quản lý. Quản lý không thu hẹp, kìm hãm, gò bó, can thiệp vào tự quản nh−ng tự quản cũng không v−ợt qua quản lý, không coi th−ờng quản lý. Quản lý kiểm soát tự quản và điều chỉnh những điều tự quản sai trái. Tự quản cung cấp cho quản lý những thông tin và kết quả để thúc đẩy quản lý tốt hơn, nhanh hơn và hiệu quả hơn, đồng thời tự quản giám sát quản lý, tham gia vào quản lý. Đây chính là quan hệ dân chủ và tập trung - dân chủ và kỷ luật, kỷ c−ơng, là quan hệ giữa pháp luật và h−ơng −ớc, quy −ớc, quy chế ở xã - thôn hiện nay. Đó cũng chính là những biểu hiện chủ yếu của sự tác động qua lại giữa quản lý và tự quản, của quan hệ giữa xã và thôn mà mọi nỗ lực đổi mới của Hệ thống chính trị ở cơ sở h−ớng tới nhằm thực hiện quyền dân chủ và làm chủ của nhân dân. 3. Cải cách chính quyền cấp xã và đổi mới công tác đào tạo cán bộ cơ sở ở xã và thôn là điều kiện cần thiết để nâng cao chất l−ợng quản lý và tự quản ở nông thôn. - Giải quyết đúng đắn những mối quan hệ nêu trên đòi hỏi sự tác động, phối hợp đồng bộ, cùng chiều của các tổ chức cấu thành Hệ thống chính trị ở cơ sở, trong đó chính quyền xã và tính chủ động của cộng đồng thôn có một vị trí đặc Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn Hoàng Chí Bảo 35 biệt quan trọng. Song trên thực tế, đây lại là mắt khâu yếu nhất và tồn tại nhiều vấn đề nhất trong Hệ thống chính trị cơ sở. Trong tình trạng hạn chế và yếu kém này, có bao hàm cả sự yếu kém của đội ngũ cán bộ cơ sở, sự bất cập của cơ chế và chính sách. Do đó, muốn đổi mới và nâng cao chất l−ợng hoạt động của Hệ thống chính trị ở cơ sở, muốn phát huy đúng tác dụng và vai trò của quản lý và tự quản ở xã - thôn hiện nay, cần phải tạo ra sự bứt phá của công tác chính quyền, sự đổi mới căn bản công tác đào tạo đội ngũ cán bộ cơ sở, nhất là cán bộ chủ chốt ở xã và thôn. - Nghị quyết Trung −ơng 5 (Khoá IX) đã đề cập rất cụ thể những yêu cầu và biện pháp để đổi mới Hệ thống chính trị ở cơ sở, nhất là ở khâu xung yếu này. Dĩ nhiên, chỉ có thể đổi mới, cải cách công tác chính quyền và công tác đào tạo đội ngũ cán bộ cơ sở một cách hiệu quả nếu gắn liền với nó là đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng bộ, chi bộ nông thôn, làm cho tổ chức Đảng thể hiện tốt vai trò hạt nhân lãnh đạo, cán bộ đảng viên thể hiện tốt vai trò tiền phong g−ơng mẫu của mình cũng nh− xây dựng các tổ chức đoàn thể quần chúng thực sự là những tổ chức có sức lôi cuốn đông đảo hội viên, đoàn viên tham gia vào quản lý, thực hiện quy chế dân chủ, thể hiện đ−ợc nhu cầu, lợi ích thiết thân của quần chúng. Hơn nữa, nhiều vấn đề, nhất là vấn đề tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động và chế độ chính sách cho cán bộ cơ sở lại phải giải quyết từ các cấp trên của cơ sở, kể cả cấp chiến l−ợc quốc gia. Sự chuyển động đồng bộ đó là điều kiện đảm bảo cho cuộc vận động đổi mới Hệ thống chính trị ở cơ sở lần này đi tới thành công. - Về chính quyền cấp xã và cộng đồng tự quản ở thôn, có mấy điểm đáng chú ý sau đây: + Cần tổ chức lại Hội đồng nhân dân xã sao cho thực sự biểu thị đ−ợc quyền lực của nhân dân, thực sự là Hội đồng nhân dân chứ không phải "Hội đồng cán bộ" nh− hiện nay. Phải cải thiện thành phần của Hội đồng, có thêm nhiều đại biểu là dân, là quần chúng ngoài Đảng, không giữ chức vụ, là đại diện cho tinh thần và năng lực tự quản của dân từ các cộng đồng thôn. Từ đó, tăng c−ờng hoạt động, giám sát, kiểm tra của Hội đồng với cơ quan hành chính (ủy ban nhân dân), tạo ra sự chuyển biến chất l−ợng các kỳ họp của Hội đồng, từ chuẩn bị văn bản đến thảo luận, chất vấn, quyết định, tiếp xúc cử tri. + Chuyên môn hóa và khoa học hóa cơ quan chấp hành, tức ủy ban nhân dân xã, nhất là bộ máy và các cán bộ quản lý chủ chốt. Thực hiện công chức hóa bộ phận cán bộ chuyên môn theo chức danh hay theo nhóm chức năng, chức trách, kèm theo những chế độ đãi ngộ thỏa đáng để cán bộ có điều kiện làm việc tận tâm, tận lực, xứng đáng là cán bộ của dân, do dân, vì dân. + Sửa đổi, bổ sung quy chế dân chủ, nhất là phần chế tài để tăng tính hiệu lực, trách nhiệm thực hiện quy chế. + Khắc phục tình trạng đùn đẩy mọi công việc, trách nhiệm xuống cho thôn, buông lỏng quản lý, xóa bỏ những biểu hiện lệch lạc: xã biến thành trung gian, thôn Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Về mối quan hệ giữa xã và thôn, quản lý và tự quản 36 biến thành cơ sở, xa rời tự quản, sa lầy vào quản lý vốn không thuộc phạm vi chức trách, thẩm quyền của mình. + H−ơng −ớc phải tuân thủ luật n−ớc, có tính hợp hiến, hợp pháp, phải thực sự đ−ợc thảo luận và quyết định dân chủ, đảm bảo đúng trình tự, thủ tục pháp lý quy định, chống tình trạng tập trung quản lý và tự do vô chính phủ. Đề cao h−ơng −ớc đồng thời phải đề cao pháp luật với tinh thần trọng pháp và h−ớng tới pháp quyền. - Về đổi mới công tác đào tạo cán bộ ở cơ sở, cần chú ý nhấn mạnh vào một số điểm then chốt, thiết yếu sau đây khi thực hiện: + Mở rộng quy mô và đối t−ợng đào tạo cán bộ cơ sở, từ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp xã tới cán bộ thôn. Có những lớp đào tạo, bồi d−ỡng riêng cho cán bộ thôn, tr−ớc hết là các tr−ởng thôn, tr−ởng ban công tác Mặt trận thôn, cán bộ hòa giải ở thôn, đội ngũ phát thanh viên, tuyên truyền viên ở xã và thôn. + Củng cố, phát triển và nâng cao chất l−ợng các tr−ờng chính trị cấp tỉnh để h−ớng trọng điểm đào tạo của tr−ờng vào việc đào tạo cán bộ cơ sở xã, thôn, xã ph−ờng, thị trấn. + Thay đổi căn bản quan niệm về đào tạo, thiết kế lại nội dung ch−ơng trình đào tạo, huấn luyện theo h−ớng: lý luận cơ bản hiện đại nh−ng hết sức tinh gọn và đảm bảo thiết thực. Đặc biệt chú trọng thực hành và rèn luyện kỹ năng thực hành, tập xử lý các tình huống, tập các thao tác mẫu, nhất là cách quan hệ với dân, cách thuyết phục dân, cách giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ dân, cách làm chính trị thông qua kinh tế và văn hóa. + Chú trọng trang bị các tri thức về pháp luật, chính sách, các hiểu biết về quản lý và tự quản, kiểm tra và thanh tra, tổng kết thực tiễn, phát hiện các vấn đề và tình huống... Tổ chức mạnh và cán bộ tốt mới có phong trào cách mạng sôi nổi, mới xuất hiện nhiều tài năng và sáng kiến, mới có môi tr−ờng để thực hành dân chủ và phát huy tính chủ động của quần chúng. Đó là vấn đề mấu chốt đối với Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn hiện nay. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfso3_2002_hoangchibao_1854.pdf
Tài liệu liên quan