Văn hóa hồi tưởng: Cách người Đức đối diện với quá khứ đen tối thời kỳ Đức quốc xã

Tài liệu Văn hóa hồi tưởng: Cách người Đức đối diện với quá khứ đen tối thời kỳ Đức quốc xã: TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 64 (4/2019) No. 64 (4/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 86 VĂN HÓA HỒI TƯỞNG: CÁCH NGƯỜI ĐỨC ĐỐI DIỆN VỚI QUÁ KHỨ ĐEN TỐI THỜI KỲ ĐỨC QUỐC XÃ The remembrance culture: The way Germans embraced the terrible past of the Nazi Germany ThS. Nguyễn Thị Bích Phượng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG TP.HCM Tóm tắt Thế chiến thứ hai đã cướp đi hàng chục triệu sinh mạng vì bom đạn và cả vì chế độ độc tài Đức Quốc xã bằng kế hoạch tận diệt cộng đồng người Do Thái ở Châu Âu thông qua hành động mang tên Holocaust. Các thế hệ người Đức sống cùng thời và sau này đã nghĩ gì về cuộc chiến đã qua mà kẻ tội đồ mang tên “Đức quốc xã”? Họ đã giằng xé tư tưởng ra sao? Có hay không văn hóa hồi tưởng của người Đức? Bài viết phân tích quá trình hình thành văn hóa hồi tưởng của người Đức qua việc họ thẳ...

pdf10 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 509 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Văn hóa hồi tưởng: Cách người Đức đối diện với quá khứ đen tối thời kỳ Đức quốc xã, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 64 (4/2019) No. 64 (4/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 86 VĂN HÓA HỒI TƯỞNG: CÁCH NGƯỜI ĐỨC ĐỐI DIỆN VỚI QUÁ KHỨ ĐEN TỐI THỜI KỲ ĐỨC QUỐC XÃ The remembrance culture: The way Germans embraced the terrible past of the Nazi Germany ThS. Nguyễn Thị Bích Phượng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG TP.HCM Tóm tắt Thế chiến thứ hai đã cướp đi hàng chục triệu sinh mạng vì bom đạn và cả vì chế độ độc tài Đức Quốc xã bằng kế hoạch tận diệt cộng đồng người Do Thái ở Châu Âu thông qua hành động mang tên Holocaust. Các thế hệ người Đức sống cùng thời và sau này đã nghĩ gì về cuộc chiến đã qua mà kẻ tội đồ mang tên “Đức quốc xã”? Họ đã giằng xé tư tưởng ra sao? Có hay không văn hóa hồi tưởng của người Đức? Bài viết phân tích quá trình hình thành văn hóa hồi tưởng của người Đức qua việc họ thẳng thắn nhìn nhận sai lầm của các thế hệ đi trước, dũng cảm đối diện và nỗ lực vượt qua quá khứ tồi tệ để hướng về tương lai. Từ khóa: Đức Quốc xã, Hitler, Holocaust, Thế chiến Thứ Hai, văn hóa hồi tưởng Abstract World War II took place in many countries and costed the lives of millions of people because of bombardments and the Germans’ genocide regime, specifically towards the Jewish community in Europe carried out by Nazi Germany. This was known as the Holocaust. What are the opinions of generations of Germans in the same and later eras on the war that was caused by the criminal called “Nazis”? How were they mentally affected? Does the so-called remembrance culture still exist? The article explains the formation of the remembrance culture of the Germans in which they have frankly acknowledged the mistakes of previous generations, bravely embraced the past and tried to overcome it to look forward to the future. Keywords: Nazi Germany, Hitler, Holocaust, World War II, remembrance culture 1. Dẫn nhập Thế chiến thứ hai đã lùi xa hơn 70 năm, song sự tàn khốc và những hệ lụy của nó vẫn luôn được nhắc đến bằng nhiều cách và trên nhiều phương diện khác nhau, đặc biệt là ở tại Đức – đất nước châm ngòi cho cuộc chiến và cũng là “tội đồ” để cả thế giới lên án. Dù thời kỳ Đức quốc xã chỉ kéo dài 12 năm (1933-1945) nhưng những gì mà chế độ độc tài này gây nên không những thay đổi cả lịch sử nước Đức mà còn khiến cho dân tộc Đức phải hứng chịu hậu quả trong một thời gian khá dài. Biến cố này đã làm thay đổi sâu sắc cách nghĩ và cách sống của người Đức. Ngày nay, nước Đức đã thay đổi hoàn toàn và có vị trí Email: bichphuongnt@hcmussh.edu.vn NGUYỄN THỊ BÍCH PHƯỢNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 87 khá vững vàng trên chính trường thế giới. Người Đức cũng được thế giới nhìn nhận và đánh giá cao. Họ đã vượt qua quá khứ 12 năm đen tối của dân tộc để có thể bước tiếp. Quá trình này kéo dài và trải qua nhiều giai đoạn với nhiều cơ tầng khác nhau đã giúp hình thành “văn hóa hồi tưởng” ở người Đức. Văn hóa hồi tưởng là gì và biểu hiện ra sao? Quá trình hồi tưởng đã thấm sâu vào nhận thức và hành động của người Đức tới mức nào để nó trở thành văn hóa? Bài viết đi tìm lời giải cho những câu hỏi trên cũng như tập trung phân tích cách người Đức đối diện với quá khứ có thể được xem là đen tối nhất trong lịch sử của đất nước, qua đó giúp người đọc hiểu phần nào tính cách người Đức. 2. Nội dung 2.1. Khái quát về thời kỳ Đức quốc xã Sẽ không có quá trình hồi tưởng của người Đức nếu không có thời kỳ Đức quốc xã. Đức quốc xã - đứng đầu là Hitler - đã tuyên truyền tư tưởng hoang đường về một dân tộc Đức thượng đẳng, thực thi những chính sách tàn khốc vô nhân đạo đối với những dân tộc khác, đặc biệt là dân tộc Do Thái và là kẻ chủ mưu châm ngòi cho Thế chiến thứ hai gây tang thương cho hàng triệu người trên toàn châu Âu. Ngày 30/01/1933, Hitler - chủ tịch Đảng Công nhân Quốc xã Đức NSDAP (Đức Quốc xã) được tổng thống Hindenburg cử làm Thủ tướng. Việc đầu tiên sau khi lên nắm chính quyền là Hitler cho tiêu diệt tất cả những ai bất đồng chính kiến nhằm củng cố quyền lực của mình. Hitler tuyên truyền về một dân tộc Đức thuộc chủng tộc Aryan thượng đẳng, còn các dân tộc khác, trong đó có dân tộc Do thái là hạ đẳng cần phải bị tiêu diệt để dành không gian sống cho dân tộc Đức. Tư tưởng thiếu căn cứ khoa học này đã được cổ súy và thực thi bằng nhiều hình thức vô nhân đạo. Tháng 09/1935, Luật chủng tộc được ban hành tại Nürnberg với ba nội dung, trong đó hai nội dung quan trọng liên quan đến người Do Thái, đó là Luật công dân Đế chế và Luật bảo vệ huyết thống. Luật công dân Đế chế phân biệt người Đức thuần Đức và người Đức gốc Do Thái nhằm tách người Do Thái ra khỏi đời sống chính trị ở Đức, dẫn đến việc họ mất quyền công dân. Luật bảo vệ huyết thống cấm người Đức kết hôn với người Do Thái. Việc loại trừ người Do Thái sẽ giúp thuần chủng hóa dân tộc Đức ưu việt. Các luật này mở đường cho kế hoạch hủy diệt người Do Thái của Hitler tại các trại tập trung. Trại tập trung đầu tiên được xây dựng tại Dachau ngày 20/3/1933 theo yêu cầu của Heinrich Himmler, chỉ huy trưởng đội cận vệ Hitler. Tính đến năm 1944, tổng cộng có 22 trại tập trung được xây dựng trên khắp Châu Âu với các kế hoạch dã man, từ lao động khổ sai đến các cuộc tàn sát tập thể bằng hơi ngạt và những cuộc hành trình tử thần. Những cuộc đại thảm sát này có tên gọi là Holocaust, nghĩa là hủy diệt toàn bộ (1). Trại tử thần Auschwitz là nơi tập trung đông người Do Thái nhất. Từ tháng 4/1940 đến tháng 01/1954, có ít nhất 1.084.457 người Do Thái bị đưa đến Auschwitz (Kellerhoff, S. F., 2017) và hơn 1 triệu trong số đó bị hành quyết bằng nhiều hình thức khác nhau. Với tham vọng “bẻ gãy cho kỳ được những xiềng xích đang trói buộc Đức quốc và hiệp ước Versailles, xóa bỏ những kỉ niệm xấu xa về cuộc chiến bại năm 1918 và đem lại cho dân tộc Đức – một dân tộc tinh vi đáng làm chúa tể của thế giới một mức sống cao đẹp hơn” (Tenbrock, R. H., 1972, SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019) 88 tr.591), Hitler quyết tâm dùng bạo lực để gây chiến nhằm mở rộng lãnh thổ. Tháng 3/1939, Hitler ra lệnh quân đội tấn công Tiệp Khắc, sau đó tiếp tục tấn công Ba Lan. Thế chiến thứ hai bắt đầu. Tháng 6/1941, Hitler tiếp tục tấn công Liên Xô, nhưng bị đánh trả dữ dội. Phe đồng minh bao gồm Mỹ, Liên Xô, Anh và Pháp hợp lực tấn công làm cho quân đội Đức suy yếu dần. Ngày 25/4/1945, Berlin đã bị quân Liên Xô bao vây; 5 ngày sau đó, Hitler tự sát trong hầm trú ẩn tại Berlin. Ngày 07/5, Đức tuyên bố đầu hàng. Hai ngày sau đó, trên tất cả các mặt trận đều im tiếng súng. Thế chiến thứ hai chấm dứt. Những tổn thất do Thế chiến thứ hai để lại rất to lớn và tội lỗi của Đức Quốc xã không thể kể hết. Wolfgang B. cho rằng “đó là một cuộc chiến tranh của hệ tư tưởng và hủy diệt không hề có tiền lệ trong lịch sử. Ước tính có khoảng 33 triệu người không phải người Đức là nạn nhân” (được trích dẫn bởi Wagner W.J., 2001, tr. 318). Gần 6 triệu người Do Thái trên toàn Châu Âu bị sát hại, 6,35 triệu người Đức bị thiệt mạng, trong đó 5,2 triệu là lính Đức. Nước Đức trở về “Giờ số 0”. Làm sao người Đức có thể đối diện với một quá khứ quá đen tối của dân tộc? Họ phải giải quyết hậu quả của việc mình làm như thế nào? “Văn hóa hồi tưởng” của họ được định hình như thế nào và biểu hiện ra sao? 2.2. Về khái niệm “văn hóa hồi tưởng” Khái niệm “hồi tưởng” thường được hiểu là nhớ lại, nghĩ đến những gì đã diễn ra, làm sống lại trong tâm trí những sự việc hoặc hình ảnh đã xảy ra trong quá khứ. Lẽ thường, con người hay hồi tưởng về những sự việc để lại những dấu ấn tươi đẹp, những kỉ niệm đáng nhớ; ví dụ như hồi tưởng về thời thơ ấu tươi đẹp, về thời vàng son hoặc về những chiến công hiển hách đáng tự hào. Hồi tưởng là một hành động phần lớn mang tính cá nhân, nhưng cũng mang tính tập thể khi một cộng đồng hay một dân tộc hồi tưởng về những sự kiện lịch sử hào hùng trong quá khứ. Nếu hồi tưởng về quá khứ đau thương thì thường trong những quá khứ đó, bản thân người hồi tưởng là nạn nhân đã vượt qua những khổ đau để tồn tại hoặc vươn lên. Ít ai nghĩ đến những điều khiến họ xấu hổ, những điều liên quan đến việc đấu tranh tư tưởng với quá khứ đen tối của dân tộc như người Đức – với tư cách là “phạm nhân” của những tội lỗi đã gây ra trong thời kỳ Đức quốc xã. Quá trình đấu tranh, giằng xé này đã hình thành một “văn hóa hồi tưởng” ở người Đức (Erinnerungskultur). “Văn hóa hồi tưởng” là “khái niệm bao quát tất cả những hình thức (con người) nghĩ ra để hồi tưởng một cách có ý thức về những sự kiện lịch sử, những cá nhân cũng như những diễn trình” (2). Khái niệm này không phải là mới, song mãi đến những năm 1990, văn hóa hồi tưởng mới trở thành khái niệm mang tính khoa học. Chỉ sau hai thập kỷ, nó đã trở thành khái niệm then chốt trong lĩnh vực nghiên cứu lịch sử - văn hóa, được phân tích và nghiên cứu ở nhiều chiều kích khác nhau. Theo hiểu biết của chúng tôi, khái niệm “văn hóa hồi tưởng” chưa được phổ biến ở Việt Nam. Song hồi tưởng trong văn hóa đã được nhắc đến trong công trình của Trần Ngọc Thêm và được xếp vào thành tố văn hóa đối phó (Trần Ngọc Thêm, 2013, tr 64-65). Văn hóa đối phó và văn hóa hồi tưởng giống nhau ở chỗ đều tập trung vào cách ứng xử của con người với mặt phi giá trị (kiếm gây thương tích, nước gây lũ lụt, lửa gây cháy nhà trong văn hóa đối phó; NGUYỄN THỊ BÍCH PHƯỢNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 89 những tội lỗi, lỗi lầm trong văn hóa hồi tưởng). Sự khác biệt thể hiện ở thời điểm diễn ra. Nếu văn hóa đối phó tập trung chính vào cách ứng xử của con người với cái thực tại (dùng khiên để đối phó với kiếm nhằm tránh bị thương, làm đê để ngăn lũ) thì văn hóa hồi tưởng thể hiện cách con người nhận thức lẫn ứng xử với quá khứ. Tại Đức, văn hóa hồi tưởng trước đây chỉ bó hẹp trong hoạt động thờ cúng các vị thần, các vua chúa và biểu hiện bằng việc xây dựng đền đài, lăng tẩm. Khái niệm này được nhắc đến nhiều nhất từ sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc và cũng gắn với thời kỳ này nhiều nhất. Bởi vì, về mặt lý thuyết, ai mắc lỗi thì người đó mới cảm thấy xấu hổ. Nhưng về mặt tâm lý, hệ lụy mà Đế chế thứ ba để lại vượt ra ngoài phạm vi trách nhiệm của những người trực tiếp gây nên thảm họa, nó đã tác động đến toàn bộ xã hội để cả nước Đức phải gánh chịu hậu quả, giống như Erich Kästner đã từng nói “Đế chế thứ ba đã tự tử, nhưng xác chết là nước Đức”(3) (được trích dẫn bởi Glaser, H., 1997, tr.20). Văn hóa hồi tưởng của họ được hình qua một quá trình đấu tranh tư tưởng lâu dài: im lặng và gián tiếp phủ nhận quá khứ; tìm cách né tránh quá khứ; phải đối diện với quá khứ rồi sẵn sàng đối diện với quá khứ đến nỗ lực vượt qua quá khứ. Trong quá trình đó, người Đức dần thay đổi nhận thức về những lỗi lầm Đế chế thứ ba đã gây ra. Khi đã vượt qua được quá khứ tội lỗi, họ vẫn tiếp tục thực hành và duy trì các hoạt động hồi tưởng để tránh lập lại lịch sử đen tối của dân tộc. 2.3. Các biểu hiện cụ thể của văn hóa hồi tưởng Từ né tránh quá khứ Trên phương diện pháp lý và chính trị, người Đức bị buộc phải chịu trách nhiệm với những tội lỗi đã gây ra. Ngày 20.11.1945, toàn án quân sự Nürnberg diễn ra do các nước đồng minh chủ trì để trước hết xét xử những quan chức cao cấp của Đức quốc xã trực tiếp gây ra tội ác. 24 cựu quan chức bị xét xử với các tội danh 1) tội âm mưu tiến hành các tội ác; 2) tội ác chống hòa bình; 3) tội ác gây ra chiến tranh và 4) tội ác chống nhân loại. Sau 216 phiên tòa, ngày 1.10.1946, bản án được đưa ra, một nửa bị cáo bị tử hình. Một số đã tự tử trước ngày hành quyết hoặc không đủ điều kiện sức khỏe để hầu tòa. Trong vòng 4 năm, có tổng cộng 209 người bị xét xử vì lý do chính trị, quản lý, quân sự và kinh tế, trong đó 36 người bị xử tử. Về mặt chính trị, nước Đức bị các nước đồng minh chia nhau chiếm đóng để kiểm soát, bị giải giới quân sự, buộc phải phi quốc xã hóa. “Người dân Đức ở một độ tuổi nào đó phải trải qua một cuộc giải trừ tinh thần phát xít. Họ phải trả lời 131 câu trắc nghiệm có liên quan đến tư tưởng và hoạt động của phát xít” (Tenbrock, R.-H.,1972, tr.642). Giải pháp mang tính hình thức này, dù khó có thể giúp “tẩy rửa” tận gốc mầm móng phát xít, nhưng đối với người Đức là cách chính thức để có thể công khai minh chứng mình không gây ra tội ác. Trên phương diện văn hóa xã hội, trong những năm đầu sau khi Thế chiến thứ 2 kết thúc, dễ dàng nhận thấy một thái độ né tránh quá khứ trong đại bộ phận người Đức. Họ tuyệt nhiên không nhắc đến giai đoạn này. Thái độ thường thấy ở họ là cúi mặt làm việc, làm việc và làm việc. Họ tập trung lo cho gia đình riêng của mình và tránh nhắc đến những gì có liên quan đến Đức quốc xã, một kiểu quay lưng với “tất cả phần còn lại của quá khứ” (Lever, P., SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019) 90 2018, tr.150). Ngay cả trong gia đình, bố mẹ cũng im lặng và né tránh những câu hỏi của con cái có liên quan đến lịch sử cận đại của nước nhà. Có hai lý do vì sao họ có thái độ như vậy. Thứ nhất, họ bàng hoàng trước sự tàn khốc của chiến tranh và những tội ác của chế độ mà họ từng ủng hộ và trung thành; thứ hai, họ lo sợ vì vẫn đang bị quân chiếm đóng kiểm soát và có thể bị quy tội bất cứ lúc nào, trong khi trước mặt họ là số “0”: không lương thực, không nhà cửa, không gia đình, không tương lai. Tâm lý xấu hổ dẫn đến thái độ né tránh quá khứ của họ. Trong cuộc giằng xé giữa đối diện với quá khứ tồi tệ và bắt tay vào dọn dẹp đống đổ nát của hiện tại, họ đã chọn cái thứ hai, dù mệt mỏi thể xác nhưng không ray rứt về tinh thần. Tâm lý né tránh không chỉ bao trùm trong đại bộ phận người dân, mà cả các chính trị gia cũng không công khai nhắc đến Đế chế thứ 3. Mãi cho đến ngày 27.09.1951, thủ tướng Konrad Adenauer mới công bố chính thức quan điểm của nhà nước CHLB Đức về vấn đề người Do Thái, trong đó ông trích dẫn về quyền bất khả xâm phạm nhân phẩm con người bất kể quốc gia, chủng tộc, tôn giáo đã được nêu trong Luật cơ bản. Adenauer gián tiếp nhắc rằng “phần lớn những người dân Đức hiện tại không liên quan đến những tội ác Đức quốc xã đã gây ra” (Adenauer, K., 1951). Người đứng đầu nhà nước Tây Đức đã khéo léo chối bỏ trách nhiệm về những lỗi lầm của người Đức trong quá khứ và nói thay cho một bộ phận người Đức: không muốn dính líu đến và cũng không muốn hồi tưởng về quá khứ. Những lo toan về đời sống vật chất trong những năm sau khi Thế chiến thứ 2 kết thúc là bức bình phong khá tốt để người Đức né tránh quá khứ mà họ cho rằng mình không liên quan. đến đối diện với quá khứ Mãi đến năm 1963, khi tòa án Frankfurt xét xử những tội nhân của trại tập trung Auschwitz thì vấn đề Holocaust được làm nóng trở lại. Những người gây ra tội ác đã từ chối nhận tội với lý do hoặc họ chỉ thực thi nghĩa vụ hoặc vì không còn nhớ những gì đã xảy ra. Thái độ vô trách nhiệm của họ bị công chúng lên án. Ngoài ra, phong trào nổi dậy của thanh niên Đức năm 1968 thể hiện sự bất đồng quan điểm giữa các thế hệ, phản kháng một xã hội gò bó cứng nhắc và còn cả sự phê phán thái độ im lặng và quay lưng với những lỗi lầm của chính thế hệ của cha mẹ mình. Một năm sau khi “Phong trào 68” nổ ra, Chủ tịch Đảng Dân chủ xã hội - Willy Brandt lên làm Thủ tướng Liên bang. Vấn đề đối diện với quá khứ Đức Quốc xã đã trở thành vấn đề chính trị cần phải được tiếp tục nhìn nhận nghiêm túc, vì bản thân ông đã từng nếm trải nỗi thống khổ của chiến tranh. Đỉnh điểm của nhận thức lỗi lầm là hành động quỳ gối trước tượng đài tưởng niệm các nạn nhân của cuộc khởi nghĩa Do Thái ở Warszawa của Thủ tướng Willy Brandt trong chuyến viếng thăm chính thức Ba Lan vào năm 1970. Hồi tưởng về khoảnh khắc này, ông nói: “Trực diện với vực thẳm của lịch sử Đức và dưới sức nặng của hàng triệu người đã bị sát hại, tôi đã làm điều mà con người làm khi ngôn ngữ tê liệt” (Nguyễn Hoàng Linh, 2015). Hành động đột ngột không hề có trong kịch bản đã làm bất ngờ tất cả những người chứng kiến và được cả thế giới nhắc đến. Đó được xem là hành động công khai thể hiện sự sám hối, là một lời xin lỗi chính thức và mong muốn của người Đức được hòa giải với Ba Lan. NGUYỄN THỊ BÍCH PHƯỢNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 91 Người Đức từ chỗ không thoải mái khi nói về quá khứ đã dần dần quen với việc thẳng thắn nhìn nhận lỗi lầm, như là sự giải thoát tâm lý cho chính bản thân. Quá trình đối diện với quá khứ được tiếp diễn khi kênh truyền hình NBC của Mỹ phát hành trên phạm vi toàn thế giới bộ phim dài 4 tập về thảm sát Holocaust vào năm 1978. Hiệu ứng truyền thông đã tạo thêm áp lực bên ngoài để tất cả các thế hệ người Đức cũng như cả nước Đức buộc phải đối diện với quá khứ. Một trong những trí thức chấp nhận đối diện quá khứ đã từng tham gia đội quân SS của phát xít là nhà văn Günter Grass. Trong tự truyện “Bóc vỏ hành” xuất bản năm 2006, ông công khai nói về thời gian bản thân mình đã tham gia quân đội Đức Quốc xã. Năm 18 tuổi, ông bị bắt làm tù binh cho lính Mỹ, cũng là thời gian ông chiêm nghiệm ra sự bại hoại của hệ tư tưởng Đức Quốc xã do Hitler đề xướng và làm thủ lĩnh. Trong tác phẩm “Cái trống thiếc” được viết vào năm 1959 và đoạt giải Nobel văn chương năm 1999, ông đã nhắc lại đề tài tội lỗi, quá khứ và quên lãng. Ông cho rằng “quên và kìm nén không phải là giải pháp” (Wiebke, P., 2015). Ông là người nổi tiếng chấp nhận tranh cãi, không ngại đối mặt với những vấn đề nhạy cảm trong xã hội. Những lý do khách quan lẫn chủ quan đã làm cho người Đức phải thay đổi nhận thức. Họ thẳng thắn nhận lãnh trách nhiệm, chấp nhận sự chỉ trích của thế giới, bởi vì càng dồn nén, càng né tránh họ càng không thể giải thoát chính mình khỏi những ám ảnh của quá khứ. Chỉ có hồi tưởng mới giúp họ sớm giải thoát. và nỗ lực vượt qua quá khứ Hồi tưởng không chỉ là bày tỏ sự sám hối về lỗi lầm mà còn bằng những hành động cụ thể như là nỗ lực vượt qua quá khứ (Vergangenheitsbewältigung) - được người Đức thực hiện triệt để, liên tục và sâu rộng trong mọi hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội. Trước tiên, mọi hành động có tính khuếch trương dân tộc, đề cao nước Đức đều bị loại bỏ. Người Đức không có thói quen treo cờ tổ quốc vào những ngày lễ hay trong những dịp ăn mừng chiến thắng. Điều này cũng không được quy định trong Luật Cơ bản. Ai treo cờ tổ quốc đều bị xem là cổ súy cho tinh thần dân tộc và có mầm mống của Đức Quốc xã và dĩ nhiên bị người khác nhìn với ánh mắt không mấy tôn trọng. Văn hóa hồi tưởng đã thấm vào từng người dân để họ luôn nhắc nhở lẫn nhau mỗi khi thấy có dấu hiệu của sự tự tôn dân tộc. Trong các sự kiện lớn, ngay cả tầm quốc gia, người Đức cũng không giương cờ hoặc biểu ngữ dày đặc. Trái lại, việc trang trí được tối giản đến mức có thể, chỉ đủ để biết nội dung của chương trình là gì. Các chương trình cũng không được khai mạc bằng một màn trình diễn văn nghệ hoành tráng hay sôi động nhằm thể hiện tình yêu quê hương đất nước hay tái hiện quá trình phát triển của dân tộc, vì họ có một giai đoạn lịch sử không hề đáng tự hào. Những điều này có vẻ như không liên quan đến văn hóa hồi tưởng, nhưng đó chính là kết quả do văn hóa hồi tưởng mang lại. Ở Đức, hầu như không có những ngày lễ hoặc ngày kỷ niệm của quốc gia được tổ chức rầm rộ với cờ giăng, biểu ngữ, duyệt binh hay tuần hành. Chỉ có ngày 03/10 là ngày thống nhất Đức cũng chính là ngày Quốc khánh và ngày tưởng niệm nạn nhân SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019) 92 của Đức Quốc xã 27/01 được tổ chức cấp quốc gia; dù rất long trọng, song cách tổ chức cũng rất khác. Trong các bài phát biểu nhân ngày Quốc khánh, người Đức thường không tự hào nhắc đến việc sát nhập Đông Đức vào Tây Đức mà là dịp để họ nhắc nhở về tầm quan trọng của vấn đề hòa giải dân tộc, của sự phát triển cùng nhau trong hòa bình cũng như nhắc nhở thế hệ trẻ cần rút ra những bài học từ quá khứ để giải quyết những vấn đề của hiện tại. Riêng ngày 27/01 được Quốc hội tổ chức với đầy đủ tất cả các thành viên, vì nếu vắng mặt, họ sợ bị chỉ trích là thiếu nhận thức về tội lỗi trước đây. Đại diện của từng đảng trong Quốc hội lần lượt phát biểu với nội dung “gợi lại và bày tỏ niềm hối tiếc về thảm cảnh xảy ra cho người Do Thái và những người khác” (Lever, P., 2018, tr.150). Hoạt động này diễn ra hàng năm cho thấy bản thân người Đức ý thức vô cùng sâu sắc về những sai lầm trong quá khứ của dân tộc mình. Ít có dân tộc nào dám mạnh dạn nhìn thẳng vào sự thật lịch sử và thể hiện sự sám hối tập thể như vậy. Truyền thông Đức là một “trợ thủ” đắc lực cho việc giám sát các hoạt động của cá nhân, địa phương cũng như của quốc gia thể hiện tinh thần dân tộc hoặc đề cao nước Đức. Chỉ cần có một dấu hiệu như vậy, truyền thông Đức có thể phân tích, mổ xẻ, chỉ trích, bình luận hàng giờ, hàng ngày. Họ khá nhạy cảm về những điều này và cương quyết loại bỏ bằng mọi cách. Nỗ lực vượt qua quá khứ thể hiện ở các chương trình bồi thường cho những nạn nhân của Đức Quốc xã. Bộ Tài chính Liên bang có văn bản quy định mức độ đối tượng, thời gian được nhận bồi thường thông qua các Hiệp ước cũng như các Quỹ hoạt động với các nước nơi có nạn nhân của Thế chiến thứ hai (4). Các chương trình kéo dài mấy thập kỷ với tổng số tiền khá lớn cho thấy trách nhiệm chuộc lỗi thuộc về quốc gia chứ không phải và không chỉ của bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào. Dĩ nhiên, những mất mát về tinh thần cũng như nhân mạng không thể bù đắp bằng vật chất cho tương xứng; tuy nhiên, quá trình đền bù và hỗ trợ kéo dài hơn nửa thế kỷ cho thấy sự kiên trì và bền bỉ của người Đức trong nỗ lực giải quyết những hậu quả của lịch sử để lại. Văn hóa hồi tưởng thể hiện rõ nhất ở việc xây dựng Khu tưởng niệm Holocaust ngay tại trung tâm thủ đô Berlin vào năm 2005. Vị trí khu tưởng niệm rộng gần 1900m² có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì sự hiện hữu của nó làm cho chính quyền cũng như người dân Đức phải hồi tưởng hàng ngày, hàng giờ. Không những thế, hơn 5 triệu khách trên khắp thế giới đến thăm Khu tưởng niệm hàng năm làm cho sự hồi tưởng liên tục lan tỏa để bản thân mỗi người tự nhận thức và tự điều chỉnh hành vi của mình. Một khu tưởng niệm thay cho ngàn lời nói. Năm 2017, trong một bài phát biểu tại chương trình thanh niên ở Dresden, chủ tịch Đảng AfD (5) của bang Thüringen Björn Höcke đã phát biểu rằng: “Đức là dân tộc duy nhất trên thế giới xây tượng đài nhục nhã ngay tại trung tâm thủ đô” (được trích dẫn bởi Brandau, B., 2017). Ngay lập tức, vị chính trị gia Đảng cực hữu này bị chỉ trích nặng nề từ đại diện các đảng phái khác, từ ngay trong chính đảng của mình cũng như dư luận đến nỗi ông phải lên tiếng xin lỗi vì đã “gây ra hiểu lầm”. Điều đó cho thấy văn hóa hồi tưởng như được dành cho một mảnh đất riêng bất khả xâm phạm, một góc riêng trong tâm NGUYỄN THỊ BÍCH PHƯỢNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 93 hồn của đại bộ phận người Đức. Ngày 27/01/1996, cố Tổng thống Liên bang - Roman Herzog, đã kêu gọi toàn thể nhân dân Đức phải luôn tưởng nhớ đến những nạn nhân Holocaust: “Việc tưởng nhớ không được phép chấm dứt. Việc tưởng nhớ này cũng nhằm nhắc nhở các thế thệ tương lai để cảnh tỉnh họ” (6) và tuyên bố ngày 27/01 hàng năm là Ngày tưởng nhớ các nạn nhân của Đức Quốc xã. Năm 2005, Liên Hiệp quốc và Quốc hội Châu Âu quyết định chọn ngày này làm Ngày tưởng nhớ Holocaust trên toàn thế giới với mong muốn liên tục nhắc nhở tất cả các quốc gia trên toàn thế giới tiếp tục phát triển những chương trình giáo dục để mọi thế hệ đều nhớ đến thảm cảnh Auschwitz và có biện pháp ngăn ngừa những mầm mống tương tự. Không chỉ ở Berlin mà cả 16 bang của Đức đều có các khu tưởng niệm, bảo tàng cũng như trung tâm thông tin về các vụ thảm sát tại các trại tập trung. Cả nước có một Hiệp hội các khu tưởng niệm nạn nhân của Đức Quốc xã trên toàn liên bang, đặt trụ sở tại bang Nordrhein-Westfalen với nhiều chương trình đặc biệt dành cho khách tham quan cũng như tổ chức cho học sinh các trường phổ thông gặp gỡ những nhân chứng lịch sử. Những hoạt động như vậy thể hiện đúng tinh thần mà cố tổng thống mong muốn. Tất cả những nỗ lực của người Đức để vượt qua quá khứ thể hiện rõ chức năng điều chỉnh của văn hóa hồi tưởng. Nhờ văn hóa hồi tưởng, người Đức đã thay đổi, điều chỉnh hành vi để không mắc phải sai lầm và đảm bảo cuộc sống tốt đẹp cho chính mình và những người xung quanh. Văn hóa hồi tưởng không chỉ thể hiện qua những hành động hiện tại mà còn ở bước chuẩn bị và nhắc nhở cho tương lai. Holocaust và những tội lỗi mà Đức quốc xã gây ra là nội dung được đưa vào giảng dạy trong các trường phổ thông. Những nội dung này không chỉ được học trong giờ Lịch sử, mà được lồng ghép trong giờ học Ngữ văn, Đạo đức và Tôn giáo. Đây chính là chức năng giáo dục của văn hóa hồi tưởng, mục đích là để thế hệ trẻ biết về quá khứ của đất nước mình, biết cách cả đất nước nhìn thẳng vào sự thật lịch sử đề từ đó mỗi cá nhân tự cảm nhận, tự đánh giá và rút ra những bài học từ quá khứ. Bằng cách gián tiếp thông qua quan sát những hành động, nỗ lực của nhiều thế hệ người Đức sám hối về lỗi lầm, cách họ sửa sai cũng như bằng cách trực tiếp đọc, học, tìm hiểu, thế hệ trẻ sẽ điều chỉnh bản thân để hình thành những nhân cách tốt. Nhờ chức năng này, chúng sẽ học cách nhìn thẳng vào sự thật, dù sự thật không tốt đẹp, biết tôn trọng và không làm hại người khác. 3. Kết luận Bằng rất nhiều nỗ lực và bằng sự kiên trì, triệt để, người Đức và nước Đức đã thành công trong quá trình vượt qua quá khứ của dân tộc mình. Họ đã hình thành văn hóa hồi tưởng, không hình thức, không nhất thời, mà thực chất, sâu sắc và bền bỉ, lâu dài. Không phải chỉ một cá nhân, một tập thể, mà tất cả các thành phần trong xã hội đến chính trị gia và cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước đều hồi tưởng, đều thể hiện sự sám hối. Họ đã được thế giới nhìn nhận và trân trọng. Văn hóa hồi tưởng của họ luôn gắn với một ý thức sâu sắc trách nhiệm với những hành động trong hiện tại cùng với quyết tâm ngăn cản những hành vi có thể để lại hệ lụy cho các dân tộc khác và tuyệt đối không khoan nhượng với những tội ác đã SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019) 94 gây ra. Chính văn hóa hồi tưởng thấm sâu vào nhận thức làm họ thay đổi cách ứng xử, không cầu kỳ, không trọng hình thức, không phô trương, thẳng thắn; trong giao tiếp họ trở nên dè dặt, cẩn thận và phản biện nhiều hơn. Tình hình chính trị nước Đức trong những năm gần đây tiếp tục dấy nên nỗi lo vì việc hình thành các nhóm cực hữu có tư tưởng tự tôn dân tộc và bài xích người nước ngoài. Vì lẽ đó, sự sám hối và tưởng nhớ những nạn nhân của cuộc chiến đã rời xa hơn 70 năm càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết và chưa bao giờ là đủ. Điều này cho thấy rằng, đại bộ phận người Đức với ý thức trách nhiệm của mình sẽ thành công trong việc triệt để bài trừ những mầm mống phát xít mới. Chú thích 1. Holocaust trong tiếng Hy Lạp là holokáutoma, holo nghĩa là “hoàn toàn” và kausis nghĩa là “thiêu, đốt”. 2. Nguyên bản tiếng Đức: “Erinnerungskultur ist als einen formalen Oberbegriff für alle denkbaren Formen der bewussten Erinnerung an historische Ereignisse, Persönlichkeiten und Prozesse zu verstehen”. 3. Nguyên bản tiếng Đức: “Das Dritte Reich bringt sich um, doch die Leiche heißt Deutschland”. 4. Từ năm 1952 đến 2007, Tây Đức, sau này là nước Đức đã chi hơn 15 tỉ Mark cho các nước Israel, Ba Lan, Cộng hòa Séc, Ukraina và Liên Xô và cho người dân các nước này là nạn nhân của Đức quốc Xã. Truy xuất từ https://www.bundesfinanzministerium.de/ Content/DE/Downloads/Broschueren_Bestellservice/2018-03-05-entschaedigung-ns- unrecht.pdf?__blob=publicationFile&v=11 5. AfD là từ viết tắt của Đảng Một giải pháp cho nước Đức (Alternative für Deutschland) 6. Nguyên văn tiếng Đức: “Die Erinnerung darf nicht enden; sie muss auch die die künftigen Generationen zur Wachsamkeit mahnen” TÀI LIỆU THAM KHẢO Glaser, H. (1997). Deutsche Kultur 1945-2000. München Wien: Carl Hanser. Lever, P. (2018). Cách của người Đức (Berlin Rules) (Thanh Yên dịch). Tp.HCM: Tổng hợp. Tenbrock, R.-H. (1972). Lịch sử Đức quốc (Trần Đổng dịch từ nguyên tác Đức ngữ). Sài Gòn: Tủ sách Kim Văn. Trần Ngọc Thêm. (2013): Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng dụng. Tp.HCM: Văn hóa – Văn nghệ. Wagner, W.J. (2001). Bildatlas der deutschen Geschichte. Gütersloh/München: Chronik Adenauer K. (1951). 27. September 1951: Regierungserklärung des Bundeskanzlers in der 165. Sitzung des Deutschen Bundestages zur Haltung der Bundesrepublik Deutschland gegenüber den Juden. Truy xuất từ https://www.konrad- adenauer.de/dokumente/erklaerungen/1951-09-27-regierungserklaerung NGUYỄN THỊ BÍCH PHƯỢNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 95 Brandau, B. (2017). Rede von Björn Höcke - Provokation, Berichtserstattung und Dementi. Truy xuất từ https://www.deutschlandfunk.de/rede-von-bjoern-hoecke-provokation- berichterstattung-und.1783.de.html?dram:article_id=376707 Bulletin. (03.96). 27. Januar – Tag des Gedenkens für die Opfer des Nationalsozialismus – Proklamation des Bundespräsidenten. Truy xuất từ https://www.bundesregierung.de /breg-de/service/bulletin/27-januar-tag-des-gedenkens-fuer-die-opfer-des- nationalsozialismus-proklamation-des-bundespraesidenten-805822 Đặng Hoàng Xa (2016): Nguồn gốc của thảm sát Holocaust. Truy xuất từ holocaust/2016 Dpa (2015). Hintergrund: Der Zweite Weltkrieg – Zahlen und Fakten. Truy xuất từ https://www.zeit.de/news/2015-05/08/geschichte-hintergrund-der-zweite-weltkrieg- in-zahlen-und-fakten-08065612 Entschädigung von NS-Unrecht. (n.d.). Truy xuất từ https://www.bundesfinanzministerium.de/Content/DE/Downloads/Broschueren_Bestel lservice/2018-03-05-entschaedigung-ns-unrecht.pdf?__blob=publicationFile&v=11 Kellerhoff, S. F. (2017). Die mörderischen Zahlen in Auschwitz. Truy xuất từ https://www.welt.de/geschichte/article161548437/Die-moerderischen-Zahlen-von- Auschwitz.html Lbp. (1945). Die Nürnberger Prozesse. Truy xuất từ https://www.lpb-bw.de/nuernberger _prozesse.html Nguyễn Hoàng Linh. (2015). Cú quỳ gối nâng tầm nước Đức. Truy xuất từ 4876.html Wiebke, P. (2015). Günter Grass. Truy xuất từ https://www.geo.de/geolino/mensch/1066- rtkl-weltveraenderer-guenter-grass Ngày nhận bài: 25/3/2019 Biên tập xong: 15/4/2019 Duyệt đăng: 20/4/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf41_8141_2214946.pdf
Tài liệu liên quan