Tài liệu Vận dụng triết lý vô ngôn - Hành động của Bác Hồ trong triển khai “Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”: An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 97 – 103
97
VẬN DỤNG TRIẾT LÝ VÔ NGÔN - HÀNH ĐỘNG CỦA BÁC HỒ
TRONG TRIỂN KHAI “HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC,
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH”
Bùi Trung Hưng1
1Trường Đại học Công nghệ Đồng Nai
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 11/07/2017
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
06/08/2017
Ngày chấp nhận đăng: 04/2018
Title:
Applying Uncle Ho's philosophy
to popularize the action of
"studying and following the
ideology, morality and life
styles of Ho Chi Minh through
the Directive No. 05-CT/TW”
Keywords:
Ho Chi Minh, ideology and
morality, Vietnamese, non-
verbal action philosophy
Từ khóa:
Hồ Chí Minh, tư tưởng và
đạo đức, người Việt Nam,
triết lý vô ngôn-hành động
ABSTRACT
It is clear that the life of revolutionary activities and the huge dedication of
President Ho Chi Minh toward human being were followed by the non-verbal
action philosophy. In order to study and follow...
7 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 530 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vận dụng triết lý vô ngôn - Hành động của Bác Hồ trong triển khai “Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 97 – 103
97
VẬN DỤNG TRIẾT LÝ VÔ NGÔN - HÀNH ĐỘNG CỦA BÁC HỒ
TRONG TRIỂN KHAI “HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC,
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH”
Bùi Trung Hưng1
1Trường Đại học Công nghệ Đồng Nai
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 11/07/2017
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
06/08/2017
Ngày chấp nhận đăng: 04/2018
Title:
Applying Uncle Ho's philosophy
to popularize the action of
"studying and following the
ideology, morality and life
styles of Ho Chi Minh through
the Directive No. 05-CT/TW”
Keywords:
Ho Chi Minh, ideology and
morality, Vietnamese, non-
verbal action philosophy
Từ khóa:
Hồ Chí Minh, tư tưởng và
đạo đức, người Việt Nam,
triết lý vô ngôn-hành động
ABSTRACT
It is clear that the life of revolutionary activities and the huge dedication of
President Ho Chi Minh toward human being were followed by the non-verbal
action philosophy. In order to study and follow President Ho Chi Minh's
ideology and morality, we need to deeply understand his philosophies that were
constructed through his revolutionary life. Due to the current Vietnamese
contexts, each of Vietnamese person, especially the youth, could learn and
apply the philosophy of Uncle Ho to construct our revolutionary life. By this
way, it would encourage us to implement effectively the Directive No. 05-
CT/TW.
TÓM TẮT
rong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng cống hiến cho nhân loại của Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn được định hướng bởi triết lý sống đặc sắc, đó là triết lý vô
ngôn-hành động. Muốn học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức,
phong cách của Người, chúng ta cần phải hiểu rõ và quán triệt triết lý sống đặc
sắc đã định hướng suốt cuộc đời cách mạng cao cả của Người. Ở vào hoàn
cảnh, điều kiện có nhiều biến động và thay đổi hiện nay, mỗi người Việt nam,
nhất là lớp trẻ, hoàn toàn có thể vận dụng và học tập triết lý đặc sắc của Bác
Hồ để làm định hướng lý tưởng cho hoạt động sống. Chỉ có như vậy chúng ta
mới có thể triển khai có hiệu quả cuộc vận động theo Chỉ thị 05-CT/TW.
1. GIỚI THIỆU
Trong mọi hoạt động sống của con người nói
chung luôn cần có những định hướng bởi hệ tư
tưởng chủ đạo và với những hoạt động có tầm ảnh
hưởng quan trọng tới một đời người, tới toàn xã
hội, thì tư tưởng chủ đạo đó trở thành triết lý
sống. Triết lý sống khoa học là sự vận dụng một
cách nhuần nhuyễn, sáng suốt các tư tưởng triết
học vào hoàn cảnh cụ thể, nhằm đảm bảo cho các
hoạt động sống có lý tưởng, mục đích rõ ràng, cao
cả và tìm ra được các phương pháp khoa học để
đạt mục đích ấy. Vì vậy, một triết lý sống đúng
đắn có vai trò rất quan trọng, không chỉ quyết
định sự thành bại của hoạt động sống của cá nhân,
cộng đồng, mà còn góp phần làm nên những nhân
cách cao đẹp, tạo nên cốt cách riêng của những vĩ
nhân, anh tài, làm cho họ có ảnh hưởng to lớn tới
đời sống của thời đại, của cả loài người. Chủ tịch
Hồ Chí Minh là một trong những vĩ nhân với
những cống hiến có tầm ảnh hưởng tiến bộ tới
toàn nhân loại. Và, trong suốt cuộc đời hoạt động,
cống hiến cho nhân loại, luôn có phần đóng góp
của triết lý sống đặc sắc của Người, đó là triết lý
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 97 – 103
98
vô ngôn - hành động. Triết lý sống của Bác đã trở
thành hình mẫu, có sức lan tỏa sâu rộng và được
nhiều nhà nghiên cứu gọi là “minh triết Hồ Chí
Minh”. Đây là tài sản rất quý báu mà Bác để lại
cho chúng ta. Việc học tập và noi theo tấm gương
của Bác nói chung, triết lý sống của Bác nói riêng
là vô cùng quan trọng và cần thiết với các thế hệ
người Việt Nam hiện tại và cả trong tương lai. Vì
vậy, ngày 07/11/2006, Bộ Chính trị Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra Chỉ thị số 06/CT-
TƯ về tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn
Đảng, toàn hệ thống chính trị, từ đầu năm 2007
cho đến cuối nhiệm kì X. Ngày 14/05/2011, Bộ
Chính trị khóa XI đã ban hành Chỉ thị số 03/CT-
TW về việc tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và sau Đại
hội XII là Chỉ thị 05-CT/TW.
Để góp phần triển khai có kết quả Chỉ thị số 05-
CT/TW của Bộ Chính trị (sau đây xin gọi tắt là
Chỉ thị 05) về cuộc vận động “Học tập và làm
theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh” (sau đây xin gọi tắt là Cuộc vận động),
chúng tôi tập trung làm rõ thêm triết lý vô ngôn -
hành động của Bác và đề xuất một số biện pháp
vận dụng vào thực tế hiện nay.
2. NỘI DUNG
2.1 Nhận thức về triết lý vô ngôn - hành động
của vĩ nhân Hồ Chí Minh
Trước hết, muốn hiểu được triết lý vô ngôn - hành
động Hồ Chí Minh, ta cần khái quát về tư tưởng
triết học của Người. Qua các công trình, nhiều
nhà nghiên cứu đã khẳng định: Triết học Hồ Chí
Minh là triết học thực tiễn, biện chứng Hồ Chí
Minh là biện chứng thực hành, nó được thể hiện,
xuyên suốt trong toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp và
trước tác của chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng
triết học Hồ Chí Minh được thể hiện một phần
quan trọng trong phương pháp biện chứng Hồ Chí
Minh. Về bản chất, đó là phương pháp biện chứng
duy vật macxít được vận dụng vào hoàn cảnh Việt
Nam, có sự kế thừa tư duy biện chứng phương
Đông, mang đặc sắc phương Đông và Việt Nam.
Tư tưởng triết học ấy đã tạo nên triết lý sống đặc
sắc của Bác, mà nhiều học giả đã tôn xưng là
“minh triết Hồ Chí Minh”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú ý tiếp thu tinh
hoa văn hóa dân tộc và nhân loại, trong đó, Người
rất chú trọng văn hóa dân gian, minh triết dân
gian, văn hóa đạo đức, văn hóa chính trị. Bác luôn
quan tâm làm thế nào nhận thức đúng chân lý,
nhưng quan trọng hơn là từ đó vận dụng vào thực
tiễn để đề ra đường lối, phương hướng, phương
châm hành động và làm thế nào để hành động có
hiệu quả nhất. Vì vậy, khi tiếp thu lý luận khoa
học Mác - Lênin thì Người chủ yếu nắm lấy
phương pháp biện chứng cách mạng và giá trị
nhân văn của nó; khi tiếp cận văn hóa Đông - Tây,
Người chú ý tiếp thu các giá trị nhân bản, phổ
quát, bền vững của nó, nhưng Người đã biết vận
dụng chúng vào các tình huống cụ thể một cách
linh hoạt, đầy sáng tạo. Cách thức tiếp thu tinh
hoa văn hóa dân tộc, nhân loại, biến nó thành các
phương châm ứng xử khoa học như thế chính là
tính minh triết đặc sắc của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chúng ta đều hiểu rằng, minh triết chính là biết
nhận định, đánh giá, ứng xử khôn ngoan, sáng
suốt trong các tình huống phức tạp. Minh triết là
biểu hiện trí tuệ và đức hạnh cao nhất của con
người; là đặc trưng của những ai biết sống hài hòa
với chính mình và với đồng loại, hài hòa giữa thân
xác và tâm hồn, biết nuôi dưỡng những phẩm chất
tinh thần, biết gắn liền lời nói với việc làm. Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng “nói đi đôi với
làm”, coi đó là một giá trị mang tính phổ quát,
vừa là một giá trị đạo đức, vừa là triết lý sống.
Suốt cuộc đời, Bác luôn là người nêu gương thực
hành triết lý: nói ít, làm nhiều, lời nói đi đôi với
việc làm. Vì vậy, nhà thơ Việt Phương, trong một
bài viết đã gọi Bác là “nhà hiền triết vô ngôn”.
GS. TS. Hoàng Chí Bảo, nguyên Ủy viên Hội
đồng Lý luận Trung ương, từng nhận xét: “Bác là
người không chủ trương trước tác, lập ngôn, mà
tập trung vào hành động. Ngay cả khi nói, Người
cũng nói thật đơn giản để ai ai cũng hiểu. Phải
chăng ở Bác, đó là triết học vô ngôn, tự do, giải
phóng mình ra khỏi những giáo điều, để sáng tạo,
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 97 – 103
99
độc lập suy nghĩ” (băng hình bài nói chuyện về
đạo đức Hồ Chí Minh do Tỉnh ủy Bình Dương
phát hành, năm 2015).
Từ những khái quát trên đây, chúng ta hoàn toàn
có thể khẳng định về sự tồn tại một triết lý vô
ngôn - hành động đặc sắc của Bác, như là một đặc
trưng cốt lõi trong tư tưởng triết học thực hành
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Triết lý ấy đã đóng vai
trò chủ đạo, quán xuyến suốt cả cuộc đời hoạt
động cách mạng vĩ đại của Người, góp phần làm
nên nhân cách vĩ nhân nơi Người và đặc biệt là
tạo nên phong cách Hồ Chí Minh, một phần quan
trọng trong toàn bộ di sản vô giá mà Người để lại
cho dân tộc ta. Muốn hiểu được sự nghiệp vĩ đại
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hơn nữa muốn học tập
và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong
cách của Người, chúng ta cần phải hiểu rõ và
quán triệt triết lý sống đặc sắc đã định hướng suốt
cuộc đời cách mạng cao cả của Người. Bởi thế,
chúng tôi cho rằng cốt lõi của việc học tập và làm
theo tư tương, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh như tinh thần của Chỉ thị 05-CT/TW
chính là nắm vững và thực hành một cách đầy đủ,
sáng tạo triết lý vô ngôn - hành động đặc sắc của
Bác.
2.2 Tính cấp bách của việc nhận thức, quán
triệt triết lý vô ngôn-hành động của Bác trong
triển khai Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính
trị về cuộc vận động “Học tập và làm theo tư
tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh”
2.2.1. Khái quát về 10 năm triển khai cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”
Qua hơn 10 năm triển khai Cuộc vận động, chúng
ta phải thẳng thắn thừa nhận rằng, bên cạnh những
chuyển biến tích cực, những kết quả đạt được, thì
tình hình suy thoái, sự xuống cấp về tư tưởng, đạo
đức, phong cách sống trong Đảng và trong xã hội
không những chưa được ngăn chặn, mà còn diễn
biến ngày càng phức tạp và có chiều hướng gia
tăng. Theo các báo cáo tổng kết Cuộc vận động
của Trung ương Đảng (xin lược lại) thì vẫn còn
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả
cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp còn hạn chế
trong phong cách làm việc như: nói không đi đôi
với làm, nói nhiều làm ít, nói hay làm dở, nói một
đằng làm một nẻo Trong đó, biểu hiện rõ nhất
là đề cao chủ nghĩa cá nhân dẫn đến suy thoái đạo
đức, lối sống, phong cách. Sự suy thoái, biến chất
của những cán bộ, đảng viên ấy đã làm suy giảm
vai trò lãnh đạo của Đảng, giảm sút niềm tin của
quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và
bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội; làm giảm đi ý
nghĩa tích cực của công cuộc đổi mới; làm đảo lộn
và biến dạng các giá trị, chuẩn mực xã hội, các giá
trị truyền thống.
Đánh giá về những tồn tại, Nghị quyết Hội nghị
TW4, khóa XII của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng đã chỉ rõ: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có
mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp
hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn
nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức
vụ trong bộ máy nhà nước. Tình hình mâu thuẫn,
mất đoàn kết nội bộ không chỉ ở cấp cơ sở mà ở
cả một số cơ quan Trung ương, tập đoàn kinh tế,
tổng công ty. Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn
hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác,
lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn
“tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”; việc đấu tranh,
phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc của
các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử
cơ hội, bất mãn chính trị còn bị động, thiếu sắc
bén và hiệu quả chưa cao. Trong khi đó, sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn
tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” chỉ là một
bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn
lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các
thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự
nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc” (Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Trung ương 4,
khóa XII, ngày 30/10/2016, tr. 4). Những biểu
hiện thực tế nêu trên vừa phản ánh sự yếu kém về
năng lực trí tuệ, sự suy thoái về đạo đức, cá nhân
chủ nghĩa, thiếu sự tự tu dưỡng, rèn luyện, vừa
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 97 – 103
100
phản ánh phong cách làm việc chưa đáp ứng được
yêu cầu mới của một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Vấn đề đặt ra là vì sao lại còn tồn tại nhiều biểu
hiện tiêu cực như đã nêu và việc triển khai Cuộc
vận động có góp phần ngăn chặn, đẩy lùi những
tiêu cực ấy được hay không và bằng các biện pháp
gì? Chúng ta đã nhận rõ rằng có nhiều nguyên
nhân dẫn đến thực trạng đó, song xét từ góc độ
triển khai các Chỉ thị về Cuộc vận động, thì rõ
ràng là kết quả chưa đạt được các yêu cầu đặt ra.
Đánh giá việc thực hiện các Chỉ thị trên, Chỉ thị
05 đã nêu rõ: “Sau 5 năm thực hiện Chỉ thị số 03-
CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI về việc tiếp tục
đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh đã đạt được kết quả bước đầu, góp
phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về
một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay”. Tuy nhiên, việc học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh còn có những hạn
chế, chưa trở thành việc làm thường xuyên, chưa
thành ý thức tự giác của không ít tổ chức đảng, cơ
quan, địa phương, đơn vị và một bộ phận cán bộ,
đảng viên” (Bộ Chính trị, Chỉ thị số 05-CT/TW,
2016). Trong khi đó, tình hình thực tiễn khách
quan trong nước và trên thế giới có nhiều biến
động khó lường, đang đặt ra nhiều yêu cầu mới về
chức năng, nhiệm vụ của tổ chức, những đòi hỏi
cao về năng lực, phẩm chất của người cán bộ,
đảng viên, nhất là những người đứng đầu, người
có chức có quyền.
2.2.2 Những yêu cầu mới đặt ra đối với việc học
tập, rèn luyện của cán bộ, đảng viên theo tư
tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh
Về mặt khách quan, các tác động từ bên ngoài
trong hiện thực toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế,
vừa tạo ra các điều kiện thuận lợi, vừa tạo ra các
thách thức rất lớn cho việc tu dưỡng, rèn luyện
đạo đức, phong cách của con người mới Việt
Nam. Nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước gắn với phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, hội nhập quốc tế đặt ra những yêu cầu,
những phẩm chất mới về đạo đức, phong cách của
cán bộ, đảng viên, cả trong nhận thức và hành
động.
Về mặt chủ quan, những thành tựu của công cuộc
đổi mới đã tạo ra các tiền đề vật chất, văn hoá cho
sự nâng cao chất lượng tu dưỡng, phấn đấu về
phong cách, đạo đức của con người mới. Song
mặt khác, sự tồn tại các nguy cơ, thách thức, tệ
quan liêu, tham nhũng, tự chuyển biến, tự chuyển
hoá trong nội bộ lại có tác động tiêu cực, làm hạn
chế hiệu quả tu dưỡng, rèn luyện đạo đức phong
cách của đảng viên, cán bộ, kể cả cán bộ cao cấp.
Nhiệm vụ cách mạng nước ta hiện nay đặt ra
những yêu cầu mới về nguồn nhân lực và cán bộ
lãnh đạo, như: yêu cầu về xây dựng nền đạo đức
mới; yêu cầu xây dựng mẫu người lãnh đạo quản
lý, hoàn thiện nhân cách của người cán bộ lãnh
đạo phù hợp với nhu cầu dân tộc và xu thế tiến bộ
của thời đại; yêu cầu về sự trung thành, đức hy
sinh và nêu gương của cán bộ, nhất là cán bộ lãnh
đạo, trước đảng viên và quần chúng nhân dân.
Thời cơ và thách thức mới đan xen càng đòi hỏi
chúng ta phải tìm về với tư tưởng, tấm gương đạo
đức và phong cách Hồ Chí Minh; học tập và làm
theo Người để sống, làm việc, cống hiến cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, việc triển khai các Chỉ
thị về Cuộc vận động ở nhiều nơi còn mang tính
phong trào, chưa gắn chặt với nhiệm vụ chính trị,
đặc biệt là còn chưa tìm đúng điều cốt lõi trong
nội dung cần học tập và làm theo tư tưởng, tấm
gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Do
vậy, nhiều nơi chưa tìm ra những biện pháp khoa
học, sát nhiệm vụ chính trị của đơn vị, cá nhân,
nên chưa khắc phục được những khuyết điểm, hạn
chế, dẫn tới kết quả Cuộc vận động chưa đạt yêu
cầu đề ra.
Như đã phân tích ở trên, theo chúng tôi, nếu mỗi
tổ chức, đơn vị, cá nhân nhận thức đúng về triết lý
vô ngôn - hành động đặc sắc của Bác và luôn luôn
quán triệt, vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 97 – 103
101
trong mọi hoạt động sống của mình, thì chắc chắn
sẽ khắc phục được những sai lầm, khuyết điểm,
khắc phục được mọi khó khăn, trở ngại. Nó sẽ
giúp ta có thể chiến thắng chính bản thân mình,
không ngừng tự rèn luyện, tự điều chỉnh, vươn lên
hoàn thành tốt nhiệm vụ, đóng góp thiết thực cho
sự nghiệp chung. Vì vậy, nhận thức và quán triệt
triết lý vô ngôn - hành động đặc sắc của Bác, điều
cốt lõi trong tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh, tùy vào vị trí cụ thể mà làm
theo là điều có ý nghĩa rất cấp bách cả về lý luận
và thực tiễn.
2.3. Một số nội dung triết lý vô ngôn - hành
động của Chủ tịch Hồ Chí Minh và biện pháp
khắc phục hạn chế, phát huy mặt tích cực
trong triển khai cuộc vận động
2.3.1 Những nội dung cụ thể trong triết lý vô
ngôn - hành động đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh
Trong giai đoạn hiện nay, để góp phần xây dựng
đạo đức, phong cách làm việc của mỗi đảng viên,
cán bộ lãnh đạo các cấp, Chỉ thị 05-CT/TW đã
nêu rõ yêu cầu quán triệt sâu rộng các nội dung cụ
thể: “Đó là các quan điểm và tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh về: tuyệt đối trung thành, kiên định
lý tưởng cách mạng, đặt lợi ích của Đảng, của đất
nước, dân tộc lên trên tất cả; hết lòng, hết sức
phục vụ Tổ quốc, phụng sự nhân dân, tận trung
với nước, tận hiếu với dân; hết lòng yêu thương
đồng bào, đồng chí, yêu thương con người; cần,
kiệm, liêm chính, chí công vô tư, thật sự là công
bộc của nhân dân, kiên quyết chống chủ nghĩa cá
nhân, cơ hội,... Đó là phong cách Hồ Chí Minh,
phản ánh những giá trị cốt lõi trong tư tưởng, đạo
đức của Người và được thể hiện vô cùng sinh
động, tự nhiên, độc đáo, có sức thu hút, cảm
hóa kỳ diệu trong hoạt động, ứng xử hằng ngày.
Đó là: phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng
tạo, luôn gắn chặt lý luận với thực tiễn; phong
cách làm việc dân chủ, khoa học, kỹ lưỡng, cụ
thể, tới nơi, tới chốn; phong cách ứng xử văn hóa,
tinh tế, đầy tính nhân văn, thấm đậm tinh thần yêu
dân, trọng dân, vì dân; phong cách nói đi đôi với
làm, đi vào lòng người; nói và viết ngắn gọn, dễ
hiểu, dễ nhớ, dễ làm; phong cách sống thanh cao,
trong sạch, giản dị; phong cách quần chúng, dân
chủ, tự mình nêu gương,...” (Bộ Chính trị, Chỉ thị
số 05-CT/TW, 2016). Theo chúng tôi, đây cũng
chính là những nội dung mang tính cụ thể hóa,
phản ánh tương đối đầy đủ nội hàm khái niệm
triết lý vô ngôn - hành động đặc sắc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh.
2.3.2 Các biện pháp vận dụng triết lý vô ngôn -
hành động đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
vào hoạt động của mỗi cá nhân, tổ chức
Để quán triệt và vận dụng triết lý vô ngôn - hành
động đặc sắc của Bác, mỗi tổ chức, cá nhân cần
thực hiện tốt một số biện pháp như sau:
Một là, nắm thật vững những nội dung cụ thể về
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh mà Chỉ thị 05-
CT/TW đã nhấn mạnh ở trên. Từ đó, cụ thể hóa
và xác định những yêu cầu cơ bản về tư tưởng đạo
đức, phong cách làm việc của từng cán bộ lãnh
đạo, quản lý nói riêng và cán bộ, đảng viên nói
chung cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ chính trị
của mình. Mỗi cá nhân, nhất là cán bộ, đảng viên
sống phải có lý tưởng đúng đắn, có hoài bão lớn.
Mỗi cán bộ, đảng viên cần tuân thủ nghiêm ngặt
nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách trong hoạt động công vụ, được
biểu hiện từ việc lớn cho đến việc nhỏ. Chúng ta
phải hiểu được rằng giữa đạo đức công vụ, phong
cách làm việc có quan hệ hữu cơ với năng lực
công tác, phẩm chất đạo đức và giá trị tự thân của
từng người cán bộ. Đạo đức, phong cách làm việc
của cán bộ, của người lãnh đạo không hình thành
một cách tự nhiên mà đòi hỏi phải có sự rèn luyện
nghiêm túc, thường xuyên. Từ đó, trong nhận thức
và hành động, chúng ta cần loại bỏ ngay những tư
duy, nhận thức thiếu sâu sắc, phiến diện, những
quan niệm cho rằng phong cách làm việc là do cá
tính riêng của từng người, do môi trường làm việc
quy định.
Hai là, cần nhận thức đúng đắn về sự phát triển
ngày càng cao của các đối tác tác nghiệp, đối
tượng quản lý và các nguyên tắc của phối hợp, hội
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 97 – 103
102
nhập. Ngày nay trình độ dân trí ngày càng cao,
quan hệ ngày càng rộng mở, công khai hóa, dân
chủ hoá, các thành tựu về khoa học công nghệ, kĩ
thuật số đang được ứng dụng ngày càng sâu rộng
vào đời sống và các quan hệ công việc. Thực tiễn
đó đã đặt ra những yêu cầu mới về năng lực,
phẩm chất và phong cách lãnh đạo quản lý của
cán bộ; đòi hỏi họ phải tự mình rèn luyện nâng
cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn nghiệp
vụ, có hiểu biết sâu về con người, biết cách hội
nhập, làm việc với từng đối tượng cụ thể một cách
thật sự dân chủ.
Ba là, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải luôn luôn
ghi nhớ nguyên tắc “tu thân”, tự mình rèn luyện,
điều chỉnh, chủ động làm gương mọi lúc, mọi nơi,
với mọi công việc; kiên quyết chống chủ nghĩa cá
nhân, khắc phục sự tự suy thoái, tự chuyển hóa
theo hướng xấu. Trong làm việc, người cán bộ
phải nêu gương, tận tâm, tận lực với công việc,
thể hiện rõ thái độ dám nghĩ, dám làm, dám chịu
trách nhiệm trước pháp luật, trước cấp trên và tập
thể. Mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu gương, làm
kiểu mẫu trong công tác và lối sống, ở mọi lúc,
mọi nơi; thực hiện thật tốt nói đi đôi với làm, có
phong cách làm việc khoa học, có tác phong quần
chúng và dân chủ.
Bốn là, mỗi cán bộ, đảng viên và người dân phải
chú ý rèn luyện, giữ gìn đạo đức, phong cách
khiêm tốn, bình dị, trong sáng, thanh cao, lành
mạnh, nhân văn và tiến bộ ngay trong cuộc sống
đời thường, ở trong gia đình, nơi cộng đồng định
cư. Mỗi người trong chúng ta cần phải thực hành
thật tốt các yêu cầu sau: luôn luôn sống có kỷ luật,
điều độ, ngăn nắp, yêu lao động, quý trọng thời
gian; gắn bó với thiên nhiên, tôn trọng quy luật tự
nhiên; sống chan hòa, chân tình, có lòng vị tha,
trước sau như một, không thay đổi trước mọi biến
thiên của thời cuộc; biết trân trọng, giữ gìn và
phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc, của
quê hương, biết tiếp thu và kế thừa chọn lọc các
giá trị văn minh, tiến bộ của nhân loại; biết chống
lại cái ác, đấu tranh bảo vệ cái thiện, quý trọng cái
đúng, cái đẹp và khi cần thì sẵn sàng hy sinh bảo
vệ hòa bình, sự phát triển bền vững cho nhân loại.
3. KẾT LUẬN
Việc học tập và rèn luyện theo tư tưởng, tấm
gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh không
chỉ là vấn đề mang tính chất lý luận, mà còn có ý
nghĩa thực tiễn vô cùng sâu sắc trong giai đoạn
hiện nay. Đạo đức sáng ngời của Bác thể hiện trọn
vẹn trong phong cách sống, làm việc của Người.
Đạo đức và phong cách sống đã đưa Người trở
thành một con người bình dị mà vô cùng vĩ đại,
trọn đời vì nước, vì dân, yêu thương con người,
yêu thương nhân loại. Điều cốt lõi trong đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh chính là triết lý vô ngôn
- hành động. Bác luôn “nói ít làm nhiều, nói đi đôi
với làm”, tự trau dồi học vấn để từng bước đạt tới
sự trưởng thành văn hóa; rèn luyện đạo đức để bồi
đắp nhân cách; biết hướng thiện và phục thiện,
biết sống hòa đồng với mọi người, quý trọng và
hài hòa với thiên nhiên. Học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đòi hỏi
mỗi tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên và mỗi
người dân cần đề cao ý thức tự giác tu dưỡng, rèn
luyện, thể hiện cụ thể trong tư duy và thực hiện
công việc hàng ngày, trong các mối quan hệ xã
hội; kiên quyết đấu tranh, ngăn chăn, đẩy lùi sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
và các tệ nạn tham nhũng, tiêu cực. Nhận thức
đúng và quán triệt thường xuyên triết lý vô ngôn -
hành động của Bác trong mọi lúc, mọi nơi, ở từng
công việc cụ thể chính là cách thức học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
thiết thực nhất, hiệu quả nhất./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Chính trị. (2016). Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ
Chính trị về cuộc vận động “Học tập và làm
theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh”.
Đảng Cộng sản Việt Nam. (2016). Kế hoạch thực
hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về
đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Đảng Cộng sản Việt Nam. (2016). Kế hoạch số
03-KH/TW về thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW
ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị.
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 97 – 103
103
Đảng Cộng sản Việt Nam. (2016). Nghị quyết
Trung ương 4, Đại hội khóa XII của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng.
Nguyễn Văn Công. (2016). Học tập phong cách
làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Website
Khu Di tích Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch.
Nguyễn Thị Phương Nam. (2015). Triết lý hành
động Hồ Chí Minh. Báo Tri thức và Phát triển
ĐT.
Phạm Ngọc Anh. (2014). Đặc trưng nhân cách Hồ
Chí Minh: giá trị và sức lan tỏa. Tạp chí Tổ
chức nhà nước ĐT.
Song Thành. (2014). Tư tưởng triết học Hồ Chí
Minh. Tạp chí Triết học. Theo website Khoa
Lý luận Chính trị, Đại học Duy Tân.
Tỉnh ủy Bình Dương. (2015). Băng hình bài nói
chuyện về đạo đức Hồ Chí Minh.
Vũ Kim Yến. (2015). Chủ tịch Hồ Chí Minh và
triết lý "tu thân" Nho gia. Website Khu Di tích
Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1569831422_11_bui_trung_hung_xpdf_4239_2189621.pdf