Vận dụng phương pháp biểu đồ trong dạy và học Tiếng Việt ở Trung học Cơ sở

Tài liệu Vận dụng phương pháp biểu đồ trong dạy và học Tiếng Việt ở Trung học Cơ sở: TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 61 (01/2019) No. 61 (01/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 76 VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP BIỂU ĐỒ TRONG DẠY VÀ HỌC TIẾNG VIỆT Ở TRUNG HỌC CƠ SỞ Using the graphing method in teaching Vietnamese language in junior high school TS. Trần Thị Lam Thủy Trường Đại học Sài Gòn Tóm tắt Sử dụng biểu đồ trong dạy học là phương pháp khá phổ biến. Người dạy có thể sử dụng nhiều hình thức của biểu đồ song phổ biến nhất là hai dạng: sơ đồ hình cây, hình chậu hoặc bảng hệ thống, so sánh. Trong dạy học Tiếng Việt, giáo viên có thể vận dụng để dạy trên hầu hết các kiểu bài như dạng bài lí thuyết để tạo lập, phát hiện kiến thức mới; dạng bài ôn tập để củng cố và hoàn thiện kiến thức; dạng bài nâng cao để so sánh và phân loại khái niệm; dạng bài kiểm tra, đánh giá. Thực tế cho thấy phương pháp này đem lại hiệu quả cao tron...

pdf9 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 489 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vận dụng phương pháp biểu đồ trong dạy và học Tiếng Việt ở Trung học Cơ sở, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 61 (01/2019) No. 61 (01/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 76 VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP BIỂU ĐỒ TRONG DẠY VÀ HỌC TIẾNG VIỆT Ở TRUNG HỌC CƠ SỞ Using the graphing method in teaching Vietnamese language in junior high school TS. Trần Thị Lam Thủy Trường Đại học Sài Gòn Tóm tắt Sử dụng biểu đồ trong dạy học là phương pháp khá phổ biến. Người dạy có thể sử dụng nhiều hình thức của biểu đồ song phổ biến nhất là hai dạng: sơ đồ hình cây, hình chậu hoặc bảng hệ thống, so sánh. Trong dạy học Tiếng Việt, giáo viên có thể vận dụng để dạy trên hầu hết các kiểu bài như dạng bài lí thuyết để tạo lập, phát hiện kiến thức mới; dạng bài ôn tập để củng cố và hoàn thiện kiến thức; dạng bài nâng cao để so sánh và phân loại khái niệm; dạng bài kiểm tra, đánh giá. Thực tế cho thấy phương pháp này đem lại hiệu quả cao trong dạy - học Tiếng Việt ở phổ thông theo hướng phát huy tính cực chủ động, phát triển năng lực cho người học hiện nay. Từ khóa: biểu đồ, dạy học tiếng Việt, sử dụng biểu đồ trong dạy học. Abtract Using graphs in education is a quite popular method. The teachers can use many types of graphs, the most of which are two types: tree or pelvic diagrams and systemized table or comparison chart. In teaching Vietnamese Language, teachers can apply them to teach most types of lessons such as theoretical ones to create and discover new knowledge, consolidation lessons to reinforce knowledge, advanced lessons to compare and classify concepts, assessment lessons. In fact, this method brings high efficiency in teaching Vietnamese language in high school in the direction of promoting the activeness and developing the capacity for learners in the current period. Keywords: graph, teach Vietnamese language, using graphs in education. 1. Đặt vấn đề Trong ba phân môn của Ngữ Văn cấp Trung học cơ sở (THCS), Tiếng Việt được xem là môn học khó và khô khan, không mấy hứng thú đối với cả người dạy và người học (so với giờ Văn học). Điều này do tính đặc thù: Tiếng Việt có nhiều khái niệm khó, đòi hỏi tính chính xác, logic chặt chẽ. Đây là môn học nặng về phân loại, mô tả, phân tích. Cách trình bày và thể hiện ít biểu cảm, trung hòa sắc thái. Nội dung được đưa vào giảng dạy trong phân môn Tiếng Việt ngày càng nhiều và độ phức tạp càng tăng qua các lớp. Với mục tiêu giáo dục hướng tới phát triển năng lực cho người học và yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy, phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh như hiện nay, đòi hỏi giáo viên phải tìm những phương pháp mới, thoát hẳn khỏi truyền Email: dr.lamthuytran@gmail.com TRẦN THỊ LAM THỦY TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 77 thống đọc chép hay phân tích một cách khuôn mẫu. Qua phản hồi của nhiều giáo viên đang trực tiếp giảng dạy hiện nay cho thấy: chương trình Tiếng Việt nói chung khá nặng, nhiều điểm mới và khó, chưa tinh giản. Nếu không có một tri thức Ngữ văn tốt và cập nhật, một phương pháp giảng dạy khoa học thì rất khó hoàn thành chương trình và mục đích đề ra. Từ lí thuyết và thực tiễn giảng dạy phân môn Tiếng Việt ở THCS, chúng tôi nhận thấy nguyên nhân và “chìa khóa” mấu chốt là phải tìm ra phương pháp thích hợp cho việc dạy – học phân môn này. Điều đó có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng giáo dục hiện nay. 2. Vận dụng phương pháp biểu đồ 2.1. Cơ sở và khái niệm của phương pháp biểu đồ a. Khái niệm biểu đồ Phương pháp biểu đồ – còn gọi là phương pháp Graph (trong tiếng Anh cũng có nhiều cách gọi khác nhau như graph/chart/diagram). Đây là cách xâu chuỗi các nội dung rời rạc thành một hệ thống bằng các mô hình trực quan như hình ảnh, bảng thống kê, biểu đồ với nhiều dạng thức khác nhau. Với mỗi dạng thức, tiếng Việt có từ để gọi khác nhau như bảng, biểu đồ, đồ thị, sơ đồ.v.v. Trong bài viết này, chúng tôi gọi chung là biểu đồ (BĐ) song trong quá trình giới thiệu các dạng thức, chúng tôi sẽ gọi tên theo đúng từ để gọi cho từng dạng thức phổ biến hiện nay. Thực ra phương pháp BĐ không mới, nhiều bộ môn khoa học, nhiều người đã vận dụng chúng trong nghiên cứu, giảng dạy. Kể cả phần giảng dạy Tiếng Việt trong nhà trường. Trong khuôn khổ của bài viết, chúng tôi chỉ tổng hợp lại các dạng biểu đồ thường được sử dụng và giới thiệu thêm một số hình thức sử dụng phù hợp với từng dạng bài cụ thể trong phân môn Tiếng Việt. b. Cơ sở của vấn đề Chương trình Tiếng Việt ở THCS có thời lượng khá lớn. Theo khung phân phối chương trình của Bộ GD ban hành, lớp 6: 31/140 tiết; lớp 7: 33/140 tiết; lớp 8: 32/140 tiết; lớp 9: 29/175 tiết – không kể những tiết trả bài chung với Văn học, Tập làm văn – Chiếm tỉ lệ 21,0% chương trình); về nội dung có thể nói khá nhiều trên cả các bình diện của ngôn ngữ: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng. Trước thời lượng và nội dung khá lớn, được xem là “căng thẳng” như vậy, nếu người dạy không đầu tư thời gian, tìm các phương pháp truyền dạy thì giờ học chắc chắn sẽ kém hiệu quả, làm đậm thêm tình trạng “chán học văn” và nhất là “chán học tiếng” mà dư luận gần đây ngày càng chú ý. Để góp phần nâng cao hiệu quả dạy - học Tiếng Việt, chúng ta đã dùng nhiều phương pháp khác nhau. Có phương pháp đã thành truyền thống, “kinh điển” như lên lớp: thầy giảng, trò nghe và ghi chép. Sau này, qua cuộc “cách mạng” đổi mới phương pháp dạy – học, phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh (HS), đặc biệt chú trọng phát triển năng lực sử dụng tiếng Việt cho HS, trên lớp thầy không chỉ có độc giảng mà còn phát vấn, tạo ra sự “đối thoại” hai chiều. Nhiều phương pháp như phân tích ngôn ngữ, rèn luyện theo mẫu, các hình thức học qua trò chơi, thi đố đã được vận dụng. Quả thật, giờ học hứng thú hơn, hấp dẫn hơn khi người thầy phát huy được sự hứng thú và động não “tích cực” ở HS. Nếu giáo viên vận dụng một cách tích SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019) 78 cực phương pháp BĐ, chắc chắn không chỉ tạo được hứng thú mà còn rèn luyện được cho học sinh khả năng phân tích tổng hợp, tư duy logic và khái quát hệ thống vấn đề. Phân môn Tiếng Việt ở THCS thực sự rất phù hợp để áp dụng phương pháp này, theo chúng tôi, có hai lí do chính: Thứ nhất, ngôn ngữ là một đối tượng phức tạp, có nhiều vấn đề, nhiều khái niệm, nhiều đơn vị. Thoạt nhìn, ta thấy có vẻ hỗn độn, nhưng kì thực chúng có lớp lang, có hệ thống quan hệ với nhau. Vì thế, có thể quy chúng thành những nhóm, loại theo những mô hình nhất định. Phương pháp biểu đồ vì vậy có thể áp dụng để quy các hiện tượng của lời nói cụ thể (kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa (SGK) phần Tiếng Việt là các đơn vị lời nói cụ thể) về các biểu đồ theo nhiều mức độ và cách thức tổng hợp khác nhau. Thứ hai, các kiến thức Tiếng Việt được trình bày trong SGK nói chung là một đối tượng vừa quen thuộc (vì ai cũng nói, viết bằng tiếng Việt hàng ngày) nhưng lại vừa khó và trừu tượng (vì được nhìn nhận và phân tích từ góc độ và thao tác khoa học). Để giảm thiểu khó khăn và trừu tượng trong việc dạy – học môn Tiếng Việt, có thể nói, phương pháp biểu đồ góp phần làm cho sự phân tích, nắm bắt các kiến thức trở nên dễ dàng hơn. 2.2. Phương pháp tiến hành Tham khảo các tài liệu đã vận dụng phương pháp biểu đồ và bằng thực tiễn soạn và giảng bài trên lớp của giáo viên, chúng tôi rút ra hai cách lập biểu đồ phổ biến trong các tiết học như sau: Cách thứ nhất: lựa chọn những nội dung có liên quan, đi từ khái quát đến cụ thể, theo tầng bậc từ cao đến thấp dần theo các nhánh. Mô hình biểu diễn hệ thống kiến thức theo dạng này thường là BĐ hình cây hoặc là BĐ hình chậu. Chẳng hạn, để dạy bài “Câu ghép” (Ngữ văn 8) hoặc “Tổng kết về Ngữ pháp” (Ngữ văn 9), giáo viên có thể lập BĐ để giới thiệu hoặc tổng kết về hệ thống câu tiếng Việt như sau: Biểu đồ 1. Phân loại câu tiếng Việt Phân loại như ví dụ trên đây là kiểu biểu đồ ở mức độ khái quát, tức là từ khái niệm và đơn vị tổng hợp, sau đó chia nhánh đến các ý cụ thể ở bậc hai hoặc bậc ba. Để chi tiết hóa hơn, rõ ràng hơn, ta có thể triển khai theo từng mục với các nhánh chi tiết hơn nữa. Chẳng hạn với mục “câu ghép” có thể lập tiếp biểu đồ: TRẦN THỊ LAM THỦY TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 79 Biểu đồ 2. Phân loại câu ghép tiếng Việt Cách lập biểu đồ theo tầng bậc từ khái quát đến cụ thể có thể tiến hành đối với bất kì đơn vị nào khi cần làm rõ các nội dung trong Tiếng Việt. Có thể lập các tiểu ý và cuối cùng, có thể đưa ra các dẫn chứng và phân tích dẫn chứng theo số liệu cho từng tiểu ý đó. Cách thứ hai: lập bảng tập hợp các hiện tượng, các đối tượng cụ thể có những nét tương đồng về những luận điểm, những chùm ý khái quát hơn. Với đối tượng kiến thức này, chúng ta có thể sử dụng bằng bảng, lập các tiêu chí để so sánh, tìm điểm tương đồng và khác biệt. Trong thực tế, khi sử dụng thao tác này, các đối tượng được đưa vào biểu đồ phải hội đủ hai tiêu chí trở lên, giữa chúng phải có sự đồng nhất nào đó để quy chúng về một điểm chung (một tập hợp, một nội dung lớn). Chẳng hạn, để dạy bài “Tổng kết về ngữ pháp” (phần từ loại, Ngữ văn 9) hoặc trước khi dạy các từ loại trong chương trình SGK, giáo viên có thể giới thiệu hoặc tổng kết bằng bảng sau (có thể để trống bảng, tạo một bài tập tổng hợp để HS tự điền vào các mục): Bảng 1. Hệ thống từ loại tiếng Việt Nhóm Từ loại Ý nghĩa Khả năng kết hợp Chức vụ ngữ pháp Ví dụ Thực từ Danh từ Động từ Hư từ Phụ từ Quan hệ từ SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019) 80 Điều đặc biệt là cách thứ hai này có thể lập bảng để so sánh, đối chiếu để các luận điểm, các đơn vị được rõ ràng hơn, xác định hơn. Chẳng hạn để giúp HS phân biệt các đơn vị thán từ với trợ từ hoặc thán từ với tình thái từ, chúng ta có thể lập bảng phân biệt điểm khác nhau giữa các từ loại sau khi đã tìm các điểm chung giữa chúng. Ví dụ: Bảng 2. Phân biệt thán từ và trợ từ Tiêu chí phân biệt Thán từ Trợ từ Vị trí Thường đứng đầu câu hoặc tách thành câu riêng. Đi kèm một thực từ nào đó. Khả năng tạo câu - Làm câu đặc biệt. - Làm thành phần biệt lập của câu. Không có khả năng làm thành phần câu hay độc lập tạo câu. Ý nghĩa - Bộc lộ tình cảm, cảm xúc; - Thể hiện thái độ, đánh giá; - Dùng để gọi - đáp - Nhấn mạnh hoặc bổ sung ý nghĩa cho từ mà nó đi kèm; - Góp phần bày tỏ thái độ đánh giá của người nói. Bảng 3. Phân biệt thán từ và tình thái từ Tiêu chí phân biệt Thán từ Tình thái từ Vị trí Thường đứng đầu câu hoặc tách thành câu riêng. Thường đứng cuối câu. Khả năng tạo câu - Làm câu đặc biệt. - Làm thành phần biệt lập của câu. Là thành phần thêm vào trong câu, không có khả năng độc lập tạo câu. Ý nghĩa - Bộc lộ tình cảm, cảm xúc; - Thể hiện thái độ, đánh giá; - Dùng để gọi – đáp. - Tạo các kiểu câu: nghi vấn, cầu khiến, cảm thán; - Góp phần biểu thị sắc thái tình cảm. Qua Bảng 2 và Bảng 3, có thể thấy cùng các tiêu chí giống nhau như vị trí, khả năng tạo câu, ý nghĩa phạm trù, người học dễ dàng phân biệt được các đối tượng thán từ, trợ từ, tình thái từ vốn là những từ loại dễ nhầm lẫn về cả lí thuyết lẫn thực hành trong quá trình sử dụng. Từ đó giúp HS nắm vững kiến thức hơn. Quan trọng hơn nữa là giúp HS nắm được phương pháp làm việc trong quá trình học tập khi gặp những đối tượng kiến thức có nhiều điểm tương đồng, dễ nhầm lẫn. 3. Khả năng vận dụng của phương pháp Phương pháp lập biểu đồ có thể áp dụng cho mọi môn học trong nhà trường bởi vì nó trực quan và tiết kiệm. Riêng trong phân môn tiếng Việt, GV có thể vận dụng để thực hiện trong một số dạng bài sau: TRẦN THỊ LAM THỦY TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 81 3.1. Dạng bài lí thuyết để tạo lập, phát hiện kiến thức mới Như đã xác định từ đầu, kiến thức Tiếng Việt vô cùng phong phú. Thoạt nhìn, người học có thể thấy vô cùng rối song khi được đưa vào biểu đồ, nó sẽ hiện ra một cách hệ thống giúp người học dễ dàng nắm được các khái niệm và quy tắc thực hành ngôn ngữ. Theo từng bậc của biểu đồ, người học sẽ dễ dàng nắm được khái niệm và mối liên hệ giữa chúng trong hệ thống. Chẳng hạn, với bài Danh từ (Ngữ Văn 6, tập 1) chúng ta có thể xây dựng được biểu đồ. Theo từng bậc như sau: - Bậc 1: xác định khái niệm trung tâm: DANH TỪ - Bậc 2: xác định các đối tượng chính trong khái niệm: DANH TỪ RIÊNG và DANH TỪ CHUNG - Bậc 3: tiếp tục xác định các đơn vị nhỏ hơn. Ví dụ: Biểu đồ 3. Danh từ tiếng Việt Tương tự như trên, HS dễ dàng khai triển tiếp bậc 4, 5 để hình thành khái niệm danh từ một cách đầy đủ hơn, chi tiết hơn mà không hề bị bối rối vì hệ thống các khái niệm/thuật ngữ liên quan. Đồng thời, biểu đồ cho phép người học tiếp nhận kiến thức theo hướng đa phương thức: từ ngữ khái quát, hình ảnh mang tính trực quan tạo cho HS có thể thay đổi về “điểm nhìn” trong tiếp nhận, các em không chỉ tiếp cận kiến thức bằng thị giác mà còn có thể tạo sự liên tưởng hiệu quả với những gì đã được học. 3.2. Dạng bài ôn tập, củng cố và hoàn thiện kiến thức Thông thường sau khi triển khai một số bài học (mỗi bài học là một đơn vị kiến thức trong hệ thống), chúng ta sẽ có bài ôn tập, hệ thống và tổng hợp kiến thức đã được học cho HS. Với mục đích, yêu cầu của dạng bài này, giả sử người dạy cứ nhắc lại kiến thức từng bài thì thật là nhàm chán, kiến thức lại dàn trải, rời rạc, khó ghi nhớ. Biểu đồ hóa quả thật là phương pháp tối ưu nhất có thể để giúp người học nhìn lại một cách tổng quát, rõ ràng những kiến thức đã học. Chúng ta có thể xây dựng bảng như Bảng 1 để hệ thống những khái niệm cùng bậc hoặc sử dụng BĐ để hệ thống các khái niệm khác bậc như BĐ1 và BĐ2. Kết hợp phương pháp này với những câu hỏi gợi mở hoặc yêu cầu HS tự xây 1 2 3 SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019) 82 dựng bảng/biểu đồ, GV đã có thể giúp HS nắm vững được kiến thức trọng tâm của các bài học, tổng hợp được nhiều kiến thức lại với nhau thành hệ thống, so sánh và đối chiếu, nhìn thấy được sự tương ứng và khác biệt cũng như mối quan hệ logic giữa các khái niệm, kiến thức đã được học về cả nội dung và hình thức một cách dễ dàng. 3.3. Dạng bài nâng cao so sánh và phân loại khái niệm Đây là dạng vận dụng bảng để đưa vào hệ thống mà chúng tôi đã trình bày ở bảng 1, 2, 3. Điều quan trọng khi vận dụng dạng bảng này là GV và HS phải xác lập được các tiêu chí chung giữa các đối tượng đem ra so sánh. Từ đó chúng ta dễ dàng chỉ ra tính chất tương đồng và khác biệt giữa các đối tượng cùng bậc, cùng loại. Vậy nên, nếu không đưa vào bảng so sánh, HS khó phân biệt bao nhiêu thì ngược lại, sau khi xác lập bảng, người học khó có thể nhầm lẫn được. Chẳng hạn như các đối tượng trợ từ, thán từ và tình thái từ trong tiếng Việt. 3.4. Dạng bài kiểm tra, đánh giá “Kiểm tra”, “đánh giá” là hai từ vốn không được HS yêu thích nếu không nói là gây cảm giác nặng nề đối với người học. Tuy nhiên, đây lại là việc làm cần thiết và phải tiến hành thường xuyên để thúc đẩy quá trình tự giác học tập, biến kiến thức thành kĩ năng của người học. Bởi vậy, GV cần lựa chọn nhiều hình thức kiểm tra khác nhau nhằm tạo hứng khởi cho HS. Theo đó, phương pháp sử dụng biểu đồ cũng là cách để giảm thiểu áp lực kiểm tra, đánh giá mà vẫn đạt được hiệu quả cao. Tùy theo mức độ yêu cầu của bài kiểm tra (chúng ta có 4 mức độ kiểm tra đánh giá cơ bản: mức độ 1: ghi nhớ; mức độ 2: hiểu; mức độ 3: vận dụng; mức độ 4: vận dụng sáng tạo), chúng ta có thể xây dựng các biểu đồ khác nhau theo yêu cầu của từng mức độ. Ở mức độ (1), kiểm tra khả năng ghi nhớ tích cực của HS để tránh lối học vẹt, thụ động. Chúng ta có thể tạo sơ đồ hệ thống kiến thức để trống một số ô nhất định, buộc HS phải điền vào. Chẳng hạn với kiến thức về nghĩa của câu: Biểu đồ 4. Kiểm tra khả năng ghi nhớ nghĩa của câu (Nguồn: 3; tr.199) TRẦN THỊ LAM THỦY TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 83 Dạng bài kiểm tra này giúp HS trong việc chuyển hóa từ việc “ghi nhớ máy móc và thu thập tài liệu sang cách “gia công tư liệu” ở mức độ cao hơn, sâu hơn, biến những tri thức đã học thành cái vốn “của mình”, “cho mình” [3; tr. 199]. Ở mức độ (2), kiểm tra khả năng nhận biết và hiểu kiến thức đã học. GV có thể cho HS làm việc thực tế với ngữ liệu. Ví dụ, bài kiểm tra sau phần từ loại: Cho đoạn văn: Những bông hoa đồng tiền héo quắt trong lọ, chắc không được thay nước. Dòng chữ trên cánh cửa "anh chờ em về ăn cơm" bạc phếch màu phấn như trêu người ở lại Đã có con nhện bé xíu chớp nhoáng thời cơ, buông mình giăng tơ mỏng, những sợi tơ trắng tinh đan cẩn thận góc nhà. Yêu cầu tìm từ có trong đoạn văn trên và điền đúng vào cột tương ứng: Bảng 5. Xác định từ loại Danh từ Động từ Tính từ Tình thái từ Đây là dạng bài kiểm tra khả năng nhận biết và hiểu vấn đề của học sinh. Với yêu cầu ở mức độ hiểu, GV phải lựa chọn những ngữ liệu có độ khó tương đối, đảm bảo cho việc HS phải hiểu kiến thức mới có thể xác định đúng đối tượng. Chẳng hạn, nếu không hiểu một cách thấu đáo kiến thức về tính từ, HS khó có thể chọn được các từ như héo quắt, bạc phếch, trắng tinh để điền vào đúng cột đã cho. Ở mức độ (3) và (4), kiểm tra khả năng vận dụng và vận dụng sáng tạo, GV có thể đưa ra những yêu cầu cao hơn, buộc HS phải lựa chọn tình huống hoặc ngữ cảnh sử dụng gắn với thực tế. Chẳng hạn: Điền các từ chắc chắn, hình như, hay, hoặc vào dòng phù hợp trong bảng dưới đây; đặt câu với mỗi trường hợp. Bảng 6. Kiểm tra khả năng vận dụng từ ngữ Mục đích Từ tương ứng Đặt câu ví dụ Thể hiện độ tin cậy cao Thể hiện độ tin cậy thấp Lựa chọn khẳng định Lựa chọn nghi vấn Một điểm đặc biệt của việc vận dụng phương pháp biểu đồ trong kiểm tra đánh giá là tính tiện lợi về cách thức và tiết kiệm về thời gian. Chỉ cần 5 phút đầu/cuối giờ học, bằng hình thức phát phiếu học tập, GV đã có thể cho HS thực hiện xong một bài kiểm tra. Điều này giúp GV có thể triển khai việc kiểm tra thường xuyên và nắm được mức độ hiểu bài của HS một cách nhanh chóng. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019) 84 4. Thực nghiệm và kết quả Để khẳng định được mức độ khả thi của phương pháp, chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm tại một số lớp của các trường THCS tại Nghệ An (THCS Hưng Tây, THCS Lam Thành, THCS Nguyễn Trường Tộ của huyện Hưng Nguyên) bằng cách phân thành 2 nhóm lớp: lớp thực nghiệm (3 lớp, 120 HS) và lớp đối chứng (3 lớp, 120 HS) với một số bài học cụ thể. Ví dụ với bài Tổng kết về từ loại (Ngữ văn 9). Với lớp thực nghiệm, chúng tôi cho tiến hành xây dựng bảng tổng kết các từ loại trong tiếng Việt (theo Bảng 1); với lớp đối chứng, chúng tôi để tiến hành theo hình thức “cuốn chiếu”. Chúng tôi đã tiến hành kiểm tra ngay sau khi học với đề bài: “Phân biệt hệ thống thực từ và hư từ trong tiếng Việt”. Kết quả là 100% HS lớp thực nghiệm tiến hành phân biệt hai hệ thống thực từ và hư từ bằng cách lập bảng theo 3 tiêu chí: ý nghĩa phạm trù, khả năng kết hợp, chức vụ ngữ pháp trong khi 75.5% HS lớp đối chứng lần lượt trình bày khái niệm thực từ rồi đến hư từ. Chỉ 24.5% phát triển thêm được phần so sánh, chỉ ra điểm khác giữa hai nhóm từ này. Như vậy, sự khác biệt giữa hai lớp HS này không chỉ ở cách làm bài mà cả cách tư duy. 5. Kết luận Qua thực tiễn áp dụng phương pháp này, chúng tôi nhận thấy: Về phía người dạy, thầy cô giáo chỉ cần bám sát nội dung từng bài và chương trình, tổng hợp kiến thức rồi vẽ thành các sơ đồ như các cách đã trình bày. Có thể soạn riêng thành các sơ đồ, các bảng biểu để đến lớp trình bày. Phương pháp biểu đồ càng phát huy được hiệu quả hơn với sự hỗ trợ của phương tiện công nghệ như bảng chiếu, bảng tương tác hiện nay. Về phía HS, các em hoàn toàn có thể độc lập tạo các bảng/biểu đồ theo cách hiểu của mình để hiểu bài và nắm vững kiến thức nhanh chóng. Bằng việc độc lập xây dựng biểu đồ, HS có thể hiểu rõ quan hệ của các đơn vị khái niệm trong biểu đồ là hiểu được bài chắc chắn. Đồng thời khả năng tư duy logic, khái quát hệ thống của các em cũng được hình thành. Nhìn từ hai phía người dạy và người học, phương pháp sử dụng bảng/biểu đồ giúp hình dung được vấn đề (nội dung bài học) được rõ hơn, nhanh hơn, có ấn tượng hơn. Từ đó, học sinh tích cực, chủ động hơn; bài học ấn tượng hơn, đơn giản, tiết kiệm thời gian hơn, hiệu quả đạt được cao hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Giáo dục & Đào tạo (2015), Sách giáo khoa Ngữ Văn (các lớp 6, 7, 8, 9), NXB Giáo dục Việt Nam. 2. M.N. Iakovlev (1983), Phương pháp và kỹ thuật lên lớp trong trường Phổ thông, H, NXB Giáo Dục. 3. Phạm Thị Minh Thúy (2009), Sử dụng Graph trong dạy học tiếng Việt, Tạp chí Khoa học ĐHSP TP.HCM, số 17. 4. Tony Buzan (2009), Master your memory (Bản dịch tiếng Việt của Lê Huy Lâm), NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày nhận bài: 09/07/2018 Biên tập xong: 15/12/2018 Duyệt đăng: 20/01/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf77_614_2214982.pdf
Tài liệu liên quan