Tài liệu Vận dụng phong cách nêu gương theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng phong cách làm việc đối với cán bộ chủ chốt ở nước ta hiện nay - Phạm Thị Huyền: Tập 183, số 07, 2018
Tập 183, Số 07, 2018
Tạp chí Khoa học và Công nghệ
CHUYấN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ
Mục lục Trang
Hoàng Thị Phương Nga - Mụ hỡnh du lịch văn học “Làng Vũ Đại ngày ấy” 3
Phạm Thị Thu Hoài, Trần Thị Thanh - Tiếng lúng trong truyện về đề tài giỏo dục của Văn Thành Lờ 9
Ngụ Thị Thanh Nga, Phạm Thị Hồng Võn - Vài nột về cỏc phương thức thể hiện tỡnh vợ chồng trong văn
học trung đại Việt Nam 15
Nguyễn Thị Thắm, Nguyễn Minh Sơn - í thức đối thoại của Nguyễn Ngọc Tư với văn học truyền thống thụng
qua những nhõn vật nữ trong tập truyện Khụng ai qua sụng 21
Đặng Thị Thựy, Nguyễn Diệu Thương - Lụ gớch của cỏc hiện tượng “phi lụ gớch” trong ca dao, tục ngữ
người Việt 27
Đinh Thị Giang - Những nhõn tố ảnh hưởng đến lối sống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay 33
Nguyễn Diệu Thương, Nguyễn Thị Lan Hương - Phương thức tạo hàm ý trong tiểu phẩm trào phỳng 39
Nguyễn Thu Quỳnh, Vỡ Thị Hiền - Từ ngữ chỉ đồ gia dụng trong tiếng Thỏi ở ...
11 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 570 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vận dụng phong cách nêu gương theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng phong cách làm việc đối với cán bộ chủ chốt ở nước ta hiện nay - Phạm Thị Huyền, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tập 183, số 07, 2018
Tập 183, Số 07, 2018
T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ
CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ
Môc lôc Trang
Hoàng Thị Phương Nga - Mô hình du lịch văn học “Làng Vũ Đại ngày ấy” 3
Phạm Thị Thu Hoài, Trần Thị Thanh - Tiếng lóng trong truyện về đề tài giáo dục của Văn Thành Lê 9
Ngô Thị Thanh Nga, Phạm Thị Hồng Vân - Vài nét về các phương thức thể hiện tình vợ chồng trong văn
học trung đại Việt Nam 15
Nguyễn Thị Thắm, Nguyễn Minh Sơn - Ý thức đối thoại của Nguyễn Ngọc Tư với văn học truyền thống thông
qua những nhân vật nữ trong tập truyện Không ai qua sông 21
Đặng Thị Thùy, Nguyễn Diệu Thương - Lô gích của các hiện tượng “phi lô gích” trong ca dao, tục ngữ
người Việt 27
Đinh Thị Giang - Những nhân tố ảnh hưởng đến lối sống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay 33
Nguyễn Diệu Thương, Nguyễn Thị Lan Hương - Phương thức tạo hàm ý trong tiểu phẩm trào phúng 39
Nguyễn Thu Quỳnh, Vì Thị Hiền - Từ ngữ chỉ đồ gia dụng trong tiếng Thái ở tỉnh Điện Biên 45
Nguyễn Thị Thu Oanh, Hoàng Thị Mỹ Hạnh - Vị thế, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng Sản Việt Nam giai
đoạn 1945 - 1975 và một số bài học kinh nghiệm 51
Đỗ Hằng Nga, Phạm Quốc Tuấn - Việc thu thuế trong làng xã qua tư liệu hương ước cải lương tỉnh Thái Nguyên 57
Lê Văn Hiếu - Hiệu quả hoạt động của mô hình “ban tuyên vận” xã, phường, thị trấn và “tổ tuyên vận” thôn, bản, tổ
dân phố ở tỉnh Lào Cai trong giai đoạn hiện nay 63
Thái Hữu Linh, Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Thanh Hà - Vai trò của hậu phương Bắc Thái trong cuộc
tổng tiến công Mậu Thân năm 1968 69
Phạm Anh Nguyên - Sức hấp dẫn trong Hài đàm của Phan Khôi 73
Nguyễn Thị Hường, Nguyễn Thị Mão, Nguyễn Tuấn Anh - Nâng cao hiệu quả tổ chức các hoạt động ngoại
khoá trong dạy học môn giáo dục công dân ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Thái
Nguyên hiện nay 79
Nguyễn Văn Dũng, Đào Ngọc Anh - Thực trạng thể chất của sinh viên không chuyên thể dục thể thao Trường
Đại hoc Sư phạm – Đại học Thái Nguyên 85
Trần Bảo Ngọc, Lê Ngọc Uyển, Bùi Thanh Thủy và cs - Thực trạng xếp loại tốt nghiệp sinh viên diện cử
tuyển ở trường Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên giai đoạn 2013-2017 91
Nguyễn Thúc Cảnh - Nghiên cứu xây dựng hệ thống bài tập có nội dung thực tế trong giảng dạy cơ học cho
học sinh trung học phổ thông 97
Hà Thị Kim Linh, Chu Thị Bích Huệ - Giáo dục kiến thức pháp luật cho phụ nữ vùng dân tộc thiểu số ở huyện
Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên 105
Nguyễn Thị Thanh Hồng, Nguyễn Thị Khánh Ly, Vũ Kiều Hạnh - Tăng cường sự tham gia của sinh viên
vào các hoạt động học tiếng Anh trong lớp học đông nhiều trình độ của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học
Y Dược – Đại học Thái Nguyên 111
Phạm Thị Huyền, Vũ Thị Thủy - Vận dụng phong cách nêu gương theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng
phong cách làm việc đối với cán bộ chủ chốt ở nước ta hiện nay 117
Đàm Quang Hưng - Thiết kế bài học khoa học lớp 4, lớp 5 theo hướng tìm tòi thực nghiệm 123
Hoàng Thị Thu Hoài - Những khó khăn trong việc dạy và học từ vựng tiếng Anh chuyên cho sinh viên chuyên
ngành điều dưỡng, trường Cao đẳng Y tế Thái Nguyên và một số giải pháp đề xuất 129
Journal of Science and Technology
183(07)
N¨m 2018
Nguyễn Lan Hương, Văn Thị Quỳnh Hoa - Những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng nói tiếng Anh của sinh
viên năm thứ nhất trường Đại học Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên 135
Vũ Kiều Hạnh - Những yếu tố quyết định đến mức độ đọc hiểu của sinh viên năm thứ hai tại trường Đại học
Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên 141
Nguyễn Thị Quế, Hoàng Thị Nhung - Hỏi đúng để tự học và học tập cộng tác thành công – hướng tới xây
dựng người học ngoại ngữ độc lập trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế 147
Ngô Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Hoài Thu - Ứng dụng các phương pháp giảng dạy tích cực nhằm nâng cao chất
lượng dạy – học tiếng Việt cho học viên quốc tế tại Học viện Kỹ thuật Quân sự 153
Dương Văn Tân - Đánh giá hiệu quả áp dụng trò chơi vận động trong phát triển thể lực chung cho sinh viên
trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp – Đại học Thái Nguyên 159
Bùi Thị Hương Giang - Nâng cao năng lực giao tiếp giao văn hóa trong dạy và học ngoại ngữ 165
Trần Hoàng Tinh, Nông La Duy, Phạm Văn Tuân - Xây dựng trung đội tự quản trong quản lý giáo dục tính
kỷ luật cho sinh viên tại trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh trong giai đoạn hiện nay 171
Trần Thị Yến, Khổng Thị Thanh Huyền - Sử dụng hình thức đọc chuyên sâu để nâng cao khả năng viết học
thuật cho sinh viên chuyên ngành tiếng Anh 177
Đỗ Thị Hồng Hạnh, Hoàng Mai Phương - Đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện Chợ Mới,
tỉnh Bắc Kạn 183
Trần Thùy Linh, Trần Lương Đức, Nguyễn Thị Thùy Trang - Cách tiếp cận của pháp luật cạnh tranh liên
minh châu Âu về hành vi lạm dụng mang tính trục lợi 189
Nguyễn Thị Thanh Hà, Phạm Việt Hương - Xây dựng bộ tiêu chí và chỉ số kinh tế phù hợp để đánh giá quản
lý rừng bền vững ở huyện Định Hóa 195
Đinh Thị Hoài - Truyền thông marketing sản phẩm và dịch vụ thông tin - thư viện tại Trung tâm Học liệu Đại
học Thái Nguyên 201
Nguyễn Thị Thanh Xuân - Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng sử dụng dịch vụ
khách sạn tại Thanh Hóa, Việt Nam 207
Dương Thị Tình - Đóng góp của xuất khẩu hàng hóa tới tăng trưởng kinh tế của tỉnh Yên Bái 213
Lê Minh Hải, Trần Viết Khanh - Phân tích tổ chức không gian lãnh thổ du lịch tỉnh Thái Nguyên 219
Hà Văn Vương - Vận dụng lý thuyết Ecgônômi trong tổ chức môi trường làm việc tại văn phòng chi nhánh may
Sông Công II - Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG 227
Mai Anh Linh, Nguyễn Thị Minh Anh - Đánh giá chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng: nghiên
cứu thực nghiệm tại siêu thị Lan Chi, Thái Nguyên 233
Đinh Hồng Linh, Nguyễn Thu Nga, Nguyễn Thu Hằng - Sử dụng hàm Loga siêu việt để đánh giá hiệu quả
kinh doanh của các ngân hàng Việt Nam 239
Phạm Thị Huyền và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 117 - 122
117
VẬN DỤNG PHONG CÁCH NÊU GƯƠNG THEO TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH TRONG XÂY DỰNG PHONG CÁCH LÀM VIỆC
ĐỐI VỚI CÁN BỘ CHỦ CHỐT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Phạm Thị Huyền*, Vũ Thị Thủy
Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Phong cách Hồ Chí Minh là sự kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa tư tưởng đạo đức với những
trải nghiệm thực tiễn trong suốt hành trình cứu nước, đọng lại ở lối sống, hành vi ứng xử của
Người. Nội dung phong cách làm việc Hồ Chí Minh mang tính dân chủ, quần chúng, khoa học,
nêu gương, nói đi đôi với làm. Trong đó, phong cách nêu gương được Hồ Chí Minh quán triệt
trong ba mối quan hệ đối với mình, đối với người, đối với công việc; quan trọng hơn, muốn nêu
gương được nói phải đi đối với làm. Do đó, nghiên cứu, học tập và làm theo phong cách làm việc
Hồ Chí Minh để xây dựng phong cách làm việc cho cán bộ, đặc biệt là cán bộ chủ chốt nhằm đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, là việc làm cần thiết, cấp bách, có ý nghĩa to lớn đối với sự
nghiệp cách mạng của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Từ khóa: Phong cách Hồ Chí Minh, phong cách làm việc, phong cách nêu gương, cán bộ, cán bộ
chủ chốt cấp tỉnh.
ĐẶT VẤN ĐỀ *
Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hành về đạo đức
còn nhiều hơn những điều Người nói và viết ra.
Chính bản thân Người là một tấm gương về
phong cách nêu gương, một hình ảnh mẫu mực
về “người lãnh đạo và người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân”. Tấm gương đạo đức của
Hồ Chí Minh không chỉ có sức lôi cuốn, cảm
hóa mãnh liệt đối với toàn thể dân tộc Việt Nam
mà còn có ảnh hưởng sâu rộng trên toàn thế giới.
Do đó, học tập và làm theo phong cách nêu
gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa vô
cùng quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng ở
nước ta hiện nay. Hơn nữa, chính điều này sẽ
đặt ra yêu cầu đối với mỗi cán bộ, đảng viên
phải luôn luôn tự tu dưỡng, rèn luyện để trở
thành những người có phẩm chất chính trị, đạo
đức, lối sống giản dị, trong sáng, luôn gắn bó
mật thiết với nhân dân, lấy lợi ích của nhân dân
làm mục đích hoạt động của mình.
NỘI DUNG
Phong cách làm việc nêu gương theo tư
tưởng Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng phương
pháp nêu gương đạo đức, lấy gương người
tốt, việc tốt hằng ngày để giáo dục lẫn nhau là
một trong những cách tốt nhất để xây dựng
* Tel: 0982033005; Email: huyendapham.@gmail.com
Đảng, xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa. Theo Hồ Chí Minh, để nêu gương,
trước hết bản thân phải làm gương trong mọi
công việc từ nhỏ đến lớn, thể hiện thường
xuyên, về mọi mặt, phải cần, kiệm, liêm,
chính, chí công, vô tư, nói đi đôi với làm.
Trong đó, mỗi đảng viên, cán bộ cũng như
mỗi người cần nắm vững và giải quyết tốt
trên ba mối quan hệ chủ yếu: đối với mình,
đối với người, đối với việc. Đối với mình
phải không tự cao tự đại, tự mãn, kiêu ngạo
mà luôn học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm
điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở
của bản thân, phải tự phê bình mình như rửa
mặt hằng ngày; đối với người, luôn giữ thái
độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà,
không dối trá, lừa lọc với thái độ khoan
dung, độ lượng, trên tinh thần thương yêu
đồng chí, đồng bào; đối với việc, dù trong
hoàn cảnh nào cũng phải giữ nguyên tắc “dĩ
công vi thượng” (để việc công lên trước việc
tư), đã phụ trách việc gì thì phải tận tâm, tận
lực làm cho kỳ được, không sợ khó khăn,
gian khổ, việc gì có lợi cho dân thì phải hết
sức làm, việc gì có hại cho dân thì phải hết
sức tránh.
Triết lý sâu xa trong suy nghĩ của Hồ Chí
Minh là cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc
đều là do công sức của nhân dân, nên cán bộ
phải đền bù xứng đáng cho nhân dân. Khi cán
Phạm Thị Huyền và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 117 - 122
118
bộ, nhất là cán bộ đứng đầu gương mẫu trong
cuộc sống, có tinh thần trách nhiệm cao trong
công việc, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy
sinh để phục vụ cho nhân dân, vì sự ấm no,
hạnh phúc của dân đó là cơ sở dẫn đến sự
thành công. Ngược lại, nếu cán bộ quan liêu,
coi thường nhân dân, xa nhân dân thì tất yếu
dẫn đến thất bại. Người khẳng định: “Nhân
dân ta rất tốt. Nếu chúng ta gương mẫu và
biết lãnh đạo thì bất cứ công việc gì khó khăn
đến đâu cũng nhất định làm được” [1, tr.223].
Theo đó, trong gia đình, ông bà cha mẹ là tấm
gương cho các con cháu, anh chị là tấm
gương đối với các em; trong nhà trường các
thầy, cô giáo, cán bộ nhân viên là tấm gương
cho học trò; trong cơ quan và các tổ chức
đoàn thể thì cán bộ lãnh đạo là tấm gương cho
cấp dưới, người này có thể nêu gương cho
người khác. Trong cuộc sống hằng ngày,
người cán bộ, đảng viên chẳng những phải có
trách nhiệm tự tu dưỡng tốt để trở thành con
người có đời tư trong sáng mà còn phải là tấm
gương để nhân dân nhìn vào đó làm những
điều đúng, điều thiện, chống lại thói hư, tật
xấu. Trong phong trào xây dựng đời sống
mới, xã hội mới.
Để phát huy vai trò của phương pháp nêu
gương về đạo đức trong giáo dục đạo đức
cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát
động phong trào “Người tốt, việc tốt” nhằm
giúp cho mỗi người tự nhận thấy mình có thể
noi theo gương người tốt và làm được việc tốt
để trở thành người có ích cho cộng đồng và
qua đó, tạo ra một phong trào thi đua sôi nổi,
rộng khắp trong toàn xã hội. Người chỉ ra
rằng, mỗi người tốt là một bông hoa đẹp thì
cả dân tộc ta sẽ là một vườn hoa đẹp.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng
việc xây dựng làng, xã, huyện, tỉnh kiểu mẫu;
tấm gương “người tốt, việc tốt”. Từ những
nhân tố mới làm gương mẫu nhân rộng ra,
dấy lên phong trào thi đua học tập và làm theo,
tạo nên khí thế cách mạng hào hùng trong sản
xuất, công tác rộng khắp trong cả nước. Ngay
từ những ngày đầu hoạt động cách mạng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm rèn luyện cho
cán bộ, đảng viên không những về mặt phẩm
chất, đạo đức mà còn rèn luyện về phong cách
làm việc. Trong tác phẩm “Đường Kách
mệnh” (năm 1927) và “Sửa đổi lối làm việc”
(tháng 10/1947), Người đã yêu cầu cán bộ,
đảng viên phải là người có phẩm chất đạo đức
cách mạng, vừa phải có năng lực mới đáp ứng
được yêu cầu, nhiệm vụ; trong đó phong cách
làm việc nêu gương là một nhân tố quan trọng
cấu thành nên phẩm chất và năng lực của cán
bộ, đảng viên. Với quan điểm, “xây phải đi đôi
với chống”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi
xướng và kiên trì cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa cá nhân trong mọi thời điểm cách mạng.
Người chỉ rõ: “muốn xây dựng thắng lợi chủ
nghĩa xã hội, thì trước hết phải chiến thắng kẻ
thù bên trong của mỗi chúng ta là chủ nghĩa cá
nhân” [1, tr.468]. Thực tế chủ nghĩa cá nhân là
căn bệnh chính, đẻ ra trăm thứ bệnh và nhiều
thói hư tật xấu trong cán bộ, đảng viên. Nguy
hiểm hơn, những người mắc căn bệnh này luôn
đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Đảng,
của dân tộc, từ đó mà sinh ra “tự tư, tự lợi”,
dùng của công làm việc tư. Do đó, mỗi cán bộ
phải thực hành tốt phương pháp nêu gương,
luôn học tập để nâng cao đạo đức cách mạng,
không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn,
trình độ lý luận để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
mới đặt ra.
Như vậy, học tập và làm theo phong cách nêu
gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa
vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp cách
mạng ở nước ta hiện nay. Điều này giúp cán
bộ, đảng viên phải luôn luôn tự tu dưỡng, rèn
luyện để trở thành những người có phẩm chất
chính trị, đạo đức, lối sống giản dị, trong sáng,
luôn gắn bó mặt thiết với nhân dân, lấy lợi ích
của nhân dân làm mục đích hoạt động của
mình. Học tập và làm theo phong cách nêu
gương của Người để không ngừng củng cố
lòng tin của nhân dân với cán bộ, đảng viên,
cũng như củng cố mối quan hệ giữa Đảng với
nhân dân. Đây thực sự là nhiệm vụ trước mắt
và lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng ở
nước ta hiện nay.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của
mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu tấm
gương sáng ngời về phong cách nêu gương.
Người kêu gọi toàn dân tiết kiệm, bản thân
Người nghiêm túc thực hiện, từ việc ăn, mặc
đến sinh hoạt, làm việc hằng ngày Người đều
gương mẫu. Khi nước nhà vừa giành được
độc lập năm 1945, đứng trước nạn đói đang
hoành hành, Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân
Phạm Thị Huyền và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 117 - 122
119
diệt “giặc đói” bằng hành động cụ thể, mỗi
bữa bớt một nắm gạo, mười ngày nhịn ăn một
bữa để lấy số gạo tiết kiệm đó cứu những
người bị đói và chính Người đã làm gương,
nghiêm túc thực hiện một cách triệt để mặc
dù phải làm việc nhiều, sức khỏe giảm sút vì
vừa trải qua một trận ốm nặng Bộ đội, cán
bộ ăn cơm độn ngô, khoai sắn, Người cũng
yêu cầu nấu cơm độn đúng như mọi người.
Đồ dùng sinh hoạt cá nhân cũng rất giản dị và
rất tiết kiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường
căn dặn mọi người phải thực hành tiết kiệm,
tiết kiệm sức lao động, thời giờ, tiền bạc; phải
tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, không xa xỉ,
hoang phí, không bừa bãi, phô trương hình
thức. Trên thực tế, Người đã sống cả cuộc đời
thanh bạch từ ăn, ở đến phương tiện sử dụng
phục vụ công việc hằng ngày.
Là Chủ tịch nước nhưng Hồ Chí Minh cũng
chỉ có vài bộ quần áo đơn sơ, giản dị, bữa ăn
của vị nguyên thủ quốc gia như bữa ăn của
mọi nhà: Bát canh, quả cà, con cá hoặc vài lát
thịt kho. Phong cách sinh hoạt Hồ Chí Minh
có nhiều nét đã trở thành huyền thoại không
những đối với nhân dân Việt Nam mà còn đối
với cả thế giới. Đó là sự giản dị, thanh cao
trong sinh hoạt hằng ngày; là cách sống
chừng mực, điều độ, ngăn nắp, yêu lao động,
rất quý trọng thời gian, không có ham muốn
danh lợi riêng cho mình; đó là tình thương
yêu con người hòa quyện với tình yêu thiên
nhiên tạo nên tinh thần lạc quan của người
chiến sĩ cách mạng. Lối sống đó của Người
xuất phát từ một triết lý nhân sinh: Lấy khiêm
tốn, giản dị làm nền; lấy chừng mực đức độ
làm chuẩn mực; lấy trong sạch thanh cao làm
nguồn vui; lấy gắn bó con người, thiên nhiên
làm niềm say mê vô tận; lấy hạnh phúc của
nhân dân làm mục tiêu phấn đấu và là hạnh
phúc của mình. Tư tưởng và tấm gương đạo
đức, phong cách nêu gương của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã làm cho Người trở thành một
con người toàn vẹn với một cuộc sống mẫu
mực tự nhiên trong suốt cả cuộc đời. Chính vì
vậy, tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong
cách và sự nghiệp của Người đã trở thành bất
tử trong lòng dân tộc, mãi mãi là tấm gương
cho mọi người chúng ta học tập và phấn đấu
làm theo.
Vận dụng phong cách nêu gương Hồ Chí
Minh trong xây dựng phong cách làm việc
đối với cán bộ chủ chốt ở nước ta hiện nay
Những vấn đề đặt ra trong xây dựng phong
cách làm việc đối với cán bộ chủ chốt ở
nước ta hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một định
nghĩa về cán bộ hết sức khái quát, giản dị và
dễ hiểu. Theo Người: "Cán bộ là những người
đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải
thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng
thời đem tình hình dân chúng báo cáo cho
Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính
sách cho đúng" [2, tr.269].
Theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm "chủ
chốt" được hiểu là "quan trọng nhất, có tác
dụng làm nòng cốt" [3, tr.168].
Từ những quan điểm nêu trên, có thể hiểu cán
bộ chủ chốt được hiểu là người có chức vụ,
nắm giữ các vị trí quan trọng, có ảnh hưởng
lớn đến hoạt động của tổ chức bộ máy, làm
nòng cốt trong các tổ chức thuộc hệ thống bộ
máy của một cấp nhất định; người được giao
đảm đương các nhiệm vụ quan trọng để lãnh
đạo, quản lý, điều hành bộ máy, có vai trò
định hướng, điều khiển hoạt động của bộ máy
thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao;
chịu trách nhiệm trước tập thể, trước cấp trên
về lĩnh vực công tác được giao.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, phong
cách làm việc đội ngũ cán bộ chủ chốt đã góp
phần không nhỏ vào việc phát triển kinh tế -
xã hội, văn hóa và sự ổn định chính trị của đất
nước. Tuy nhiên, trong quá trình công tác, đội
ngũ cán bộ chủ chốt ở nước ta còn bộc lộ
những hạn chế, yếu kém cần khắc phục.
Thứ nhất, phong cách làm việc của một bộ phận
cán bộ chủ chốt còn thiếu dân chủ, áp đặt ý kiến
chủ quan đối với tập thể
Trong quá trình làm việc, có một số ít cán bộ
chủ chốt còn tồn tại biểu hiện dân chủ hình
thức, không tôn trọng tính đảng, tính nguyên
tắc trong công việc. Ngụy biện cho sự sai trái
của mình bằng các nguyên tắc sinh hoạt đảng.
Một số cán bộ chủ chốt đã biến nguyên tắc
tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách thành “cá
nhân phụ trách, tập thể chịu trách nhiệm”, khi
có công thì nhận về cá nhân, khi có lỗi lại đổ
cho tập thể. Thậm chí, có những kế hoạch,
Phạm Thị Huyền và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 117 - 122
120
chương trình, quyết định đưa ra chưa phù hợp
với điều kiện đặc thù của ngành, địa phương
nên khó triển khai, thực hiện. Công tác tổ
chức học tập, nghiên cứu, tuyên truyền chủ
trương, đường lối, chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước còn đơn điệu nên hiệu
quả, chất lượng học tập nghị quyết không cao.
Ở một số địa phương, có những vấn đề bức
xúc, nổi cộm của người dân mà chưa được
xem xét, giải quyết thấu đáo. Đó là nguyên
nhân dẫn đến tình trạng khiếu kiện vượt cấp,
khiếu kiện kéo dài, trong đó chủ yếu là những
vấn đề liên quan đến đất đai. Điều đó, không
chỉ ảnh hưởng đến cá nhân cán bộ chủ chốt
mà còn tác động tiêu cực đến sự phát triển
của từng đơn vị, ngành, địa phương, vùng nói
riêng và đất nước nói chung. Vì vậy, Hội nghị
lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng
đã thừa nhận: “Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng,
người đứng đầu các cấp chưa có quyết tâm
chính trị cao; việc cụ thể hóa các nghị quyết,
chỉ thị, kết luận của Ban Chấp hành Trung
ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thành chương
trình, kế hoạch tổ chức thực hiện ở một số địa
phương, đơn vị còn chung chung, chỉ đạo
thiếu quyết liệt, còn trông chờ, ỷ lại cấp trên;
một số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trong
đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tiên phong,
gương mẫu” [4, tr.22].
Thứ hai, cán bộ chủ chốt còn tồn tại tình
trạng quan liêu, cửa quyền, hách dịch
Có thế nhận định rằng tệ quan liêu ở nước
ta đang diễn ra rất phức tạp, nghiêm trọng
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Bộ máy của Đảng, Nhà nước và các tổ chức
chính trị - xã hội còn cồng kềnh, nhiều tầng
nấc, đầu mối, hoạt động thiếu hiệu quả;
bệnh hội họp, giấy tờ văn bản, thủ tục hành
chính còn rườm rà; thái độ, phong cách làm
việc của đội ngũ cán bộ, công chức còn có
biểu hiện hách dịch, sách nhiễu nhân dân,
v.v.. Đi liền với đó là nạn cửa quyền, mệnh
lệnh, tham ô, lãng phí vẫn còn tồn tại ở một
bộ phận cán bộ. Tác hại của tệ quan liêu là
rất lớn; nó làm cho tổ chức đảng và cơ quan
nhà nước không nắm được tình hình thực tế,
không hiểu được tâm tư, nguyện vọng, đời
sống của nhân dân, không phát huy được trí
tuệ, năng lực của nhân dân, dẫn đến những
chủ trương, chính sách không phù hợp,
thậm chí sai lầm, làm tổn thương nghiêm
trọng đến mối quan hệ máu thịt giữa Đảng,
Nhà nước và nhân dân. Trên thực tế, vẫn
còn một bộ phận cán bộ chủ chốt nặng tư
tưởng cá nhân chủ nghĩa, thiếu tinh thần
trách nhiệm, trình độ tổ chức, quản lý hạn
chế. Một số cán bộ khi có chức, có quyền
coi thường nhân dân, cho mình là người
“đứng trên”, “ban ơn”, chứ không phải là
những công bộc của nhân dân. Họ ngại khó
khăn, gian khổ, thích ngồi bàn giấy hơn là
đi sâu sát cơ sở, sát thực tiễn sản xuất và
đời sống của nhân dân; thích thổi phồng
thành tích, “lừa trên, dối dưới”, vi phạm
quyền làm chủ của nhân dân. Đúng như
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Vì những
người và những cơ quan lãnh đạo từ cấp
trên đến cấp dưới không sát công việc thực
tế... Đối với công việc thì trọng hình thức
mà không xem xét khắp mọi mặt, không
vào sâu vấn đề “Thế là bệnh quan liêu đã
ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô,
lãng phí” [5, tr.357].
Trong việc thực hiện nhiệm vụ, một số cán
bộ chủ chốt ở một số nơi còn tỏ thái độ
hách dịch, nhũng nhiễu, vòi vĩnh. Hiện
tượng đùn đẩy trách nhiệm, né tránh công
việc, năng lực công tác hạn chế vẫn còn
hiện diện trên thực tế. Thậm chí, ở một số
đơn vị, có biểu hiện của mất đoàn kết nội
bộ, kèn cựa địa vị, ganh tị, bè phái, lợi ích
nhóm dẫn đến hiệu quả làm việc không cao.
Ở một khía cạnh khác, vẫn còn một số ít
cán bộ chủ chốt chưa sâu sát, chưa thấu
hiểu, chưa thật sự quan tâm đến đời sống
vật chất và tinh thần của quần chúng.
Thứ ba, phong cách làm việc của cán bộ
chủ chốt còn hiện tượng nói không đi đôi
với làm, ý thức chấp hành kỷ luật chưa cao
Một bộ phận cán bộ chủ chốt chưa thật sự
mẫu mực trong lối sống, phong cách làm
việc còn hạn chế. Cá biệt còn có một bộ
phận nhỏ cán bộ chủ chốt còn thiếu tính tiên
phong, gương mẫu trong việc chấp hành
chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, quy định, nội
quy, quy chế của cơ quan, đơn vị; chưa
gương mẫu trong đấu tranh tự phê bình và
phê bình. Công tác đấu tranh, phòng chống
tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong Đảng,
Phạm Thị Huyền và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 117 - 122
121
chính quyền, đoàn thể, các tổ chức chính trị
- xã hội hiệu quả chưa cao, chưa chủ động
phát hiện vi phạm, tiêu cực.
Trước sự giao thoa cơ chế của kinh tế thị
trường, tác động từ sự khủng hoảng của chủ
nghĩa xã hội trên thế giới và các mặt tiêu cực
của quá trình toàn cầu hóa, dẫn đến sự phai
nhạt, dao động lý tưởng đã xuất hiện không
ít trong đội ngũ cán bộ công quyền, tư tưởng
trọng tiền đã làm xuống cấp đạo đức xã hội,
coi tiền là thước đo giá trị nhân phẩm con
người, chạy theo các giá trị vật chất tầm
thường, đồng tiền trở thành quan hệ ứng xử
phổ biến trong xã hội, từ đó thỏa mãn với
những nhận thức giản đơn, dễ dàng thỏa
hiệp, không kiên quyết phê phán, đấu tranh
với những quan điểm sai trái, lơ là, mất cảnh
giác trước âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa
bình”. Vì vậy, có những đồng chí bằng lòng,
tự mãn với mình, không tích cực học tập
vươn lên, không có ý thức khắc phục khó
khăn trong học tập, trong công tác. Năng lực
hoạt động thực tiễn, khả năng dự báo tình
hình và khả năng thích ứng, chủ động xử lý
tình huống từ một số ít cán bộ chủ chốt còn
hạn chế. Có những cán bộ nói rất hay nhưng
việc tổ chức thực hiện chưa đạt hiệu quả, lý
luận rất giỏi nhưng khi triển khai công việc
trên thực tế lại lúng túng, bị động, có khi còn
trông chờ vào sự giúp đỡ của cấp trên.
Nội dung vận dụng phong cách nêu gương
Hồ Chí Minh đối với cán bộ chủ chốt hiện nay
Vấn đề học tập tác phong của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã được đặt ra từ Đại hội II của Đảng Lao
động Việt Nam. Với phương châm nhìn thẳng
vào sự thật, nói rõ sự thật, không nể nang,
không né tránh, Đại hội XI của Đảng đã
nghiêm túc chỉ ra những hạn chế là: "Tình
trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo
đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên, ... làm giảm lòng tin của
nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự
ổn định, phát triển của đất nước" [6, tr.173].
Trên cơ sở nghiên cứu và tổng kết thực tiễn, Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng
một lần nữa thẳng thắn nhìn nhận những khuyết
điểm còn tồn tại: "Đời sống của một bộ phận
nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều
khó khăn Tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu,
tham nhũng, lãng phí chưa được đẩy lùi" [7,
tr.15]. Trong tình hình mới, Đảng Cộng sản
Việt Nam chính thức nêu ra trong Chỉ thị 05-
CT/TW ngày 15 tháng 5 năm 2016 là “Đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh” [8], và từ đó đến
nay, công tác xây dựng phong cách, trong đó có
phong cách làm việc cho cán bộ chủ chốt. Qua
nghiên cứu phong cách làm việc nêu gương Hồ
Chí Minh và thực trạng phong cách làm việc
của đội ngũ cán bộ chủ chốt ở nước ta hiện nay,
việc xây dựng phong cách làm việc cho đội ngũ
cán bộ này đứng trước những vấn đề cấp bách,
cần sớm được giải quyết. Thông qua đó, phát
huy những ưu điểm đã có, khắc phục những hạn
chế đang tồn tại, từng bước xây dựng phong
cách làm việc của đội ngũ cán bộ chủ chốt theo
phong cách làm việc của Hồ Chí Minh. Cụ thể:
Thứ nhất, cần nâng cao trình độ nhận thức của
mỗi tổ chức, cá nhân về phong cách làm việc
của cán bộ chủ chốt; Thứ hai, khắc phục những
rào cản trong tư duy, chính sách, biện pháp và
điều kiện đảm bảo của các cấp ủy đảng, chính
quyền, đoàn thể trong xây dựng phong cách làm
việc cho cán bộ chủ chốt; Thứ ba, thúc đẩy sự
nỗ lực phấn đấu rèn luyện của bản thân cán bộ
chủ chốt trong xây dựng phong cách làm việc;
Thứ tư, hoàn thiện chính sách đãi ngộ, cơ chế
kiểm tra, giám sát, đánh giá của các cấp ủy
đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân trong
xây dựng phong cách làm việc cho cán bộ chủ
chốt. Theo đó, cần thiết phải: Xây dựng phong
cách làm việc cho đội ngũ cán bộ chủ chốt gắn
với việc thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 05
của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh”; xây dựng phong cách làm việc cho đội
ngũ cán bộ chủ chốt phải đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản, sự tham gia tích cực, chủ
động của các tổ chức, đoàn thể và ý thức tự
giác của mỗi cán bộ chủ chốt; gắn với nâng
cao chất lượng công tác cán bộ và gắn với đổi
mới về cơ chế kiểm tra, giám sát, đánh giá cán
bộ, đặc biệt chú trọng phát huy vai trò của
nhân dân. Với ý nghĩa và yêu cầu đó, mỗi cán
bộ chủ chốt cần: Nhận thức được sự cần thiết
phải tu dưỡng, rèn luyện theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh; vận dụng linh
hoạt, sáng tạo các hình thức, phương pháp
Phạm Thị Huyền và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 117 - 122
122
trong thực hiện đẩy mạnh học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh;
mỗi cán bộ chủ chốt phải tích cực, tự giác học
tập và tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, nâng cao
năng lực tư duy theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh; thực hiện tốt công tác tự
phê bình và phê bình về quá trình tu dưỡng,
rèn luyện và thực hành phong cách làm việc
Hồ Chí Minh.
KẾT LUẬN
Phương pháp, phong cách làm việc của cán bộ
chủ chốt có ảnh hưởng lớn đến tác phong công
tác của đồng nghiệp, cấp dưới và nhân dân.
Người cán bộ chủ chốt có phong cách làm việc
tốt sẽ tạo nên một “phong trào” mang tính xã
hội cao, một “điểm tựa”, một “đầu tàu”, một
tấm gương để mọi người học tập và làm theo.
Do đó, sự gương mẫu, thống nhất giữa lý luận
với thực tiễn, nói đi đôi với làm là một vấn đề
quan trọng trong phong cách làm việc của cán
bộ nói chung và cán bộ chủ chốt nói riêng. Do
vậy, xây dựng phong cách làm việc của đội
ngũ cán bộ chủ chốt ở nước ta hiện nay là vấn
đề có ý nghĩa quyết định đến chất lượng, hiệu
quả cải cách nền hành chính công. Phong cách
làm việc của đội ngũ cán bộ chủ chốt càng
quan trọng bao nhiêu thì sự yếu kém, lạc hậu,
bất cập của đội ngũ này càng gây hậu quả tiêu
cực bấy nhiêu. Thực tế đã và đang khách quan
hóa yêu cầu đổi mới, xây dựng phong cách làm
việc của đội ngũ cán bộ chủ chốt theo phong
cách làm việc Hồ Chí Minh. Nó đòi hỏi phải
đáp ứng được những yêu cầu mới mà thời đại,
bối cảnh của đất nước trong xu thế toàn cầu
hóa, cạnh tranh, hội nhập với những tác động
đa chiều từ nền kinh tế thị trường. Đó là những
yêu cầu mới về nhân cách, trí tuệ, đạo đức,
phong cách làm việc dân chủ, khoa học, sáng
tạo, hiện đại mà những cán bộ chủ chốt cấp
tỉnh phải hướng đến để trở thành “người đày
tớ” thật trung thành, tận tụy của nhân dân. Đây
chính là sự cụ thể hóa phong cách làm việc nêu
gương trong tư duy của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, T.14, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
2. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, T.5, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội
3. Hoàng Phê (Chủ biên) (1997), Từ điển Tiếng Việt,
Trung tâm từ điển học, Nxb Đà Nẵng.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Hội nghị lần thứ tư
Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung
ương Đảng, Hà Nội.
5. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, T.7, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
8.
ban/id/1734.html
SUMMARY
MANIPULATE EXEMPLARY STYLE ACCORDING TO THE PRESIDENT
HO CHI MINH’S THOUGHT IN BUILDING WORK STYLE
FOR KEY CADERS AT PRESENT PERIOD
Pham Thi Huyen*, Vu Thi Thuy
TNU - University of Education
The Ho Chi Minh’s Style is a combination of a close, harmonious moral thinking with real
experiences during the journey of salvation, living in his way of life, behavior. The content of Ho
Chi Minh's style in working is democratic, popular, scientific, exemplary, speaking suitable with
doing. In which, Ho Chi Minh’s exemplary style is thoroughly understood in three relationships
for ourselves, for people, for work. More importantly, wanting to be exemplify, is that what you
say must be suitable with what you do. Therefore, studying, following and working as Ho Chi
Minh’s style to build the working style for cadres, especially the key ones to meet the requirements
of innovation is a necessary and urgent task which has great significance for the revolutionary
career of our country in the present period.
Keywords: Ho Chi Minh’s style, working style, exemplary style, cadres, provincial key staff.
Ngày nhận bài: 20/3/2018; Ngày phản biện: 03/4/2018; Ngày duyệt đăng: 29/6/2018
* Tel: 0982033005; Email: huyendapham.@gmail.com
oµ soT T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ
SOCIAL SCIENCE – HUMANITIES – ECONOMICS
Content Page
Hoang Thi Phuong Nga - Literature tourism model “the old Vu Dai village” 3
Pham Thi Thu Hoai, Tran Thi Thanh - Slang in Van Thanh Le's stories about education problems 9
Ngo Thi Thanh Nga, Pham Thi Hong Van - A brief description of the modes of expressing conjugal
sentiments in the Vietnam medieval literature 15
Nguyen Thi Tham, Nguyen Minh Son - The opposite view of Nguyen Ngoc Tu to Vietnamese traditional
literature via the main female characters in Khong ai qua song 21
Dang Thi Thuy, Nguyen Dieu Thuong - The logic of “non logic” phenomenon in Vietnamese folk verses, proverbs 27
Dinh Thi Giang - Factors affecting current lifestyle of Vietnamese people in the northern delta 33
Nguyen Dieu Thuong, Nguyen Thi Lan Huong - Mechanisms creating implication in satirical jokes 39
Nguyen Thu Quynh, Vi Thi Hien - Household vocabulary of Thai language in Dien Bien province 45
Nguyen Thi Thu Oanh, Hoang Thi My Hanh - Position, role of the communist party of Vietnam in the period
1954 – 1975 and some lessons learned 51
Do Hang Nga, Pham Quoc Tuan - Collection of taxes in the villages through material of reformist village
convention in Thai Nguyen province 57
Le Van Hieu - The efficiency of the model "propaganda department" in communes, wards, township and
"commander" in villages, cities at the current period in Lao Cai province 63
Thai Huu Linh, Nguyen Thi Thu Hien, Nguyen Thi Thanh Ha - The role of the rear Bac Thai in the 1968
general offensive 69
Pham Anh Nguyen - The attraction in “Hai dam” of Phan Khoi 73
Nguyen Thi Huong, Nguyen Thi Mao, Nguyen Tuan Anh - Enhancing the efficiency of extracurrucular
activities in teaching civic education at high schools in thai nguyen city these days 79
Nguyen Van Dung, Dao Ngoc Anh - Physical status of non-sports students at Thai Nguyen University of Education 85
Tran Bao Ngoc, Le Ngoc Uyen, Bui Thanh Thuy et al - The reality of degree classification in non-
examination students at University of Medicine and Pharmacy – Thai Nguyen University in the period from
2013 to 2017 91
Nguyen Thuc Canh - The need for buiding an exercise system with practical content to teach mechanics
to high school 97
Ha Thi Kim Linh, Chu Thi Bich Hue - Educate legal knowledge for ethnic minority women in Vo Nhai
district, Thai Nguyen province 105
Nguyen Thi Thanh Hong, Nguyen Thi Khanh Ly, Vu Kieu Hanh - Improve students’ participation in
English learning activities in large mixed ability classes of the freshman students at Thai Nguyen University of
Medicine and Pharmacy 111
Pham Thi Huyen, Vu Thi Thuy - Manipulate exemplary style according to the President Ho Chi Minh’s
thought in building work style for key caders at present period 117
Dam Quang Hung - Science lesson planning for grade 4, 5 according to experimental research 123
Hoang Thi Thu Hoai - Difficulties in teaching and learning ESP vocabulary for nursing students at Thai
Nguyen Medical College and some solutions 129
Nguyen Lan Huong, Van Thi Quynh Hoa - Determinants affecting English speaking performance of the first-
year students at Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry 135
Journal of Science and Technology
183(07)
N¨m 2018
Vu Kieu Hanh - Determinants to the reading comprehension performance level of the second- year students at
Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry 141
Nguyen Thi Que, Hoang Thi Nhung - Asking the right question for successful self-studying and cooperative
learning - towards independent language learners in the context of ASEAN community and global integration 147
Ngo Thi Thu Ha, Nguyen Thi Hoai Thu - Apply interactive teaching methods to improve the quality of
teaching and learning Vietnamese to international students at Military Technical Academy 153
Duong Van Tan - An assessment of the effectiveness in application of games in general physical development
for students at Thai Nguyen University of Technology 159
Bui Thi Huong Giang - Improving intercultural communicative competence in foreign language teaching
and learning 165
Tran Hoang Tinh, Nong La Duy, Pham Van Tuan - Building self-managed platoon in disciplinary education
for students at the center for defense and security education in the current phase 171
Tran Thi Yen, Khong Thi Thanh Huyen - Improving academic writing performance for english majors
through intensive reading 177
Do Thi Hong Hanh, Hoang Mai Phuong - Vocational training for rural workers in Cho Moi district, Bac
Kan province 183
Tran Thuy Linh, Tran Luong Duc, Nguyen Thi Thuy Trang - European union competition law approach on
exploitative abuses 189
Nguyen Thi Thanh Ha, Pham Viet Huong - Setting up an appropriate set of economic criteria and indicators
for evaluating sustainable forest management in Dinh Hoa district 195
Dinh Thi Hoai - Marketing promotion for information - library product and service at the Learning Resource
Center of Thai Nguyen University 201
Nguyen Thi Thanh Xuan - Factors affecting customer satisfaction in hotels at Thanh Hoa province, Vietnam 207
Duong Thi Tinh - Contributions of goods export to the economic growth of Yen Bai province 213
Le Minh Hai, Tran Viet Khanh - Tourism space organization of Thai Nguyen province 219
Ha Van Vuong - Apply the ergonomics theory in working environment organization at the office of Song Cong
grarment branch II – TNG Investment and Trading Joint Stock Company 227
Mai Anh Linh, Nguyen Thi Minh Anh - Assessing service quality and customer satisfaction: an empirical
study at Lan Chi supermarket, Thai Nguyen city 233
Dinh Hong Linh, Nguyen Thu Nga, Nguyen Thu Hang - Applying logarithmic function to evaluate the
business efficiency of Vietnam banks 239
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 355_383_1_pb_8549_2127107.pdf