Vận dụng phong cách nêu gương theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng phong cách làm việc đối với cán bộ chủ chốt ở nước ta hiện nay - Phạm Thị Huyền

Tài liệu Vận dụng phong cách nêu gương theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng phong cách làm việc đối với cán bộ chủ chốt ở nước ta hiện nay - Phạm Thị Huyền: Tập 183, số 07, 2018 Tập 183, Số 07, 2018 Tạp chí Khoa học và Công nghệ CHUYấN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ Mục lục Trang Hoàng Thị Phương Nga - Mụ hỡnh du lịch văn học “Làng Vũ Đại ngày ấy” 3 Phạm Thị Thu Hoài, Trần Thị Thanh - Tiếng lúng trong truyện về đề tài giỏo dục của Văn Thành Lờ 9 Ngụ Thị Thanh Nga, Phạm Thị Hồng Võn - Vài nột về cỏc phương thức thể hiện tỡnh vợ chồng trong văn học trung đại Việt Nam 15 Nguyễn Thị Thắm, Nguyễn Minh Sơn - í thức đối thoại của Nguyễn Ngọc Tư với văn học truyền thống thụng qua những nhõn vật nữ trong tập truyện Khụng ai qua sụng 21 Đặng Thị Thựy, Nguyễn Diệu Thương - Lụ gớch của cỏc hiện tượng “phi lụ gớch” trong ca dao, tục ngữ người Việt 27 Đinh Thị Giang - Những nhõn tố ảnh hưởng đến lối sống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay 33 Nguyễn Diệu Thương, Nguyễn Thị Lan Hương - Phương thức tạo hàm ý trong tiểu phẩm trào phỳng 39 Nguyễn Thu Quỳnh, Vỡ Thị Hiền - Từ ngữ chỉ đồ gia dụng trong tiếng Thỏi ở ...

pdf11 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 570 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vận dụng phong cách nêu gương theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng phong cách làm việc đối với cán bộ chủ chốt ở nước ta hiện nay - Phạm Thị Huyền, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tập 183, số 07, 2018 Tập 183, Số 07, 2018 T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ Môc lôc Trang Hoàng Thị Phương Nga - Mô hình du lịch văn học “Làng Vũ Đại ngày ấy” 3 Phạm Thị Thu Hoài, Trần Thị Thanh - Tiếng lóng trong truyện về đề tài giáo dục của Văn Thành Lê 9 Ngô Thị Thanh Nga, Phạm Thị Hồng Vân - Vài nét về các phương thức thể hiện tình vợ chồng trong văn học trung đại Việt Nam 15 Nguyễn Thị Thắm, Nguyễn Minh Sơn - Ý thức đối thoại của Nguyễn Ngọc Tư với văn học truyền thống thông qua những nhân vật nữ trong tập truyện Không ai qua sông 21 Đặng Thị Thùy, Nguyễn Diệu Thương - Lô gích của các hiện tượng “phi lô gích” trong ca dao, tục ngữ người Việt 27 Đinh Thị Giang - Những nhân tố ảnh hưởng đến lối sống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay 33 Nguyễn Diệu Thương, Nguyễn Thị Lan Hương - Phương thức tạo hàm ý trong tiểu phẩm trào phúng 39 Nguyễn Thu Quỳnh, Vì Thị Hiền - Từ ngữ chỉ đồ gia dụng trong tiếng Thái ở tỉnh Điện Biên 45 Nguyễn Thị Thu Oanh, Hoàng Thị Mỹ Hạnh - Vị thế, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng Sản Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 và một số bài học kinh nghiệm 51 Đỗ Hằng Nga, Phạm Quốc Tuấn - Việc thu thuế trong làng xã qua tư liệu hương ước cải lương tỉnh Thái Nguyên 57 Lê Văn Hiếu - Hiệu quả hoạt động của mô hình “ban tuyên vận” xã, phường, thị trấn và “tổ tuyên vận” thôn, bản, tổ dân phố ở tỉnh Lào Cai trong giai đoạn hiện nay 63 Thái Hữu Linh, Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Thanh Hà - Vai trò của hậu phương Bắc Thái trong cuộc tổng tiến công Mậu Thân năm 1968 69 Phạm Anh Nguyên - Sức hấp dẫn trong Hài đàm của Phan Khôi 73 Nguyễn Thị Hường, Nguyễn Thị Mão, Nguyễn Tuấn Anh - Nâng cao hiệu quả tổ chức các hoạt động ngoại khoá trong dạy học môn giáo dục công dân ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Thái Nguyên hiện nay 79 Nguyễn Văn Dũng, Đào Ngọc Anh - Thực trạng thể chất của sinh viên không chuyên thể dục thể thao Trường Đại hoc Sư phạm – Đại học Thái Nguyên 85 Trần Bảo Ngọc, Lê Ngọc Uyển, Bùi Thanh Thủy và cs - Thực trạng xếp loại tốt nghiệp sinh viên diện cử tuyển ở trường Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên giai đoạn 2013-2017 91 Nguyễn Thúc Cảnh - Nghiên cứu xây dựng hệ thống bài tập có nội dung thực tế trong giảng dạy cơ học cho học sinh trung học phổ thông 97 Hà Thị Kim Linh, Chu Thị Bích Huệ - Giáo dục kiến thức pháp luật cho phụ nữ vùng dân tộc thiểu số ở huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên 105 Nguyễn Thị Thanh Hồng, Nguyễn Thị Khánh Ly, Vũ Kiều Hạnh - Tăng cường sự tham gia của sinh viên vào các hoạt động học tiếng Anh trong lớp học đông nhiều trình độ của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên 111 Phạm Thị Huyền, Vũ Thị Thủy - Vận dụng phong cách nêu gương theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng phong cách làm việc đối với cán bộ chủ chốt ở nước ta hiện nay 117 Đàm Quang Hưng - Thiết kế bài học khoa học lớp 4, lớp 5 theo hướng tìm tòi thực nghiệm 123 Hoàng Thị Thu Hoài - Những khó khăn trong việc dạy và học từ vựng tiếng Anh chuyên cho sinh viên chuyên ngành điều dưỡng, trường Cao đẳng Y tế Thái Nguyên và một số giải pháp đề xuất 129 Journal of Science and Technology 183(07) N¨m 2018 Nguyễn Lan Hương, Văn Thị Quỳnh Hoa - Những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng nói tiếng Anh của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên 135 Vũ Kiều Hạnh - Những yếu tố quyết định đến mức độ đọc hiểu của sinh viên năm thứ hai tại trường Đại học Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên 141 Nguyễn Thị Quế, Hoàng Thị Nhung - Hỏi đúng để tự học và học tập cộng tác thành công – hướng tới xây dựng người học ngoại ngữ độc lập trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế 147 Ngô Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Hoài Thu - Ứng dụng các phương pháp giảng dạy tích cực nhằm nâng cao chất lượng dạy – học tiếng Việt cho học viên quốc tế tại Học viện Kỹ thuật Quân sự 153 Dương Văn Tân - Đánh giá hiệu quả áp dụng trò chơi vận động trong phát triển thể lực chung cho sinh viên trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp – Đại học Thái Nguyên 159 Bùi Thị Hương Giang - Nâng cao năng lực giao tiếp giao văn hóa trong dạy và học ngoại ngữ 165 Trần Hoàng Tinh, Nông La Duy, Phạm Văn Tuân - Xây dựng trung đội tự quản trong quản lý giáo dục tính kỷ luật cho sinh viên tại trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh trong giai đoạn hiện nay 171 Trần Thị Yến, Khổng Thị Thanh Huyền - Sử dụng hình thức đọc chuyên sâu để nâng cao khả năng viết học thuật cho sinh viên chuyên ngành tiếng Anh 177 Đỗ Thị Hồng Hạnh, Hoàng Mai Phương - Đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn 183 Trần Thùy Linh, Trần Lương Đức, Nguyễn Thị Thùy Trang - Cách tiếp cận của pháp luật cạnh tranh liên minh châu Âu về hành vi lạm dụng mang tính trục lợi 189 Nguyễn Thị Thanh Hà, Phạm Việt Hương - Xây dựng bộ tiêu chí và chỉ số kinh tế phù hợp để đánh giá quản lý rừng bền vững ở huyện Định Hóa 195 Đinh Thị Hoài - Truyền thông marketing sản phẩm và dịch vụ thông tin - thư viện tại Trung tâm Học liệu Đại học Thái Nguyên 201 Nguyễn Thị Thanh Xuân - Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng sử dụng dịch vụ khách sạn tại Thanh Hóa, Việt Nam 207 Dương Thị Tình - Đóng góp của xuất khẩu hàng hóa tới tăng trưởng kinh tế của tỉnh Yên Bái 213 Lê Minh Hải, Trần Viết Khanh - Phân tích tổ chức không gian lãnh thổ du lịch tỉnh Thái Nguyên 219 Hà Văn Vương - Vận dụng lý thuyết Ecgônômi trong tổ chức môi trường làm việc tại văn phòng chi nhánh may Sông Công II - Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG 227 Mai Anh Linh, Nguyễn Thị Minh Anh - Đánh giá chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng: nghiên cứu thực nghiệm tại siêu thị Lan Chi, Thái Nguyên 233 Đinh Hồng Linh, Nguyễn Thu Nga, Nguyễn Thu Hằng - Sử dụng hàm Loga siêu việt để đánh giá hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng Việt Nam 239 Phạm Thị Huyền và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 117 - 122 117 VẬN DỤNG PHONG CÁCH NÊU GƯƠNG THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG XÂY DỰNG PHONG CÁCH LÀM VIỆC ĐỐI VỚI CÁN BỘ CHỦ CHỐT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Phạm Thị Huyền*, Vũ Thị Thủy Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Phong cách Hồ Chí Minh là sự kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa tư tưởng đạo đức với những trải nghiệm thực tiễn trong suốt hành trình cứu nước, đọng lại ở lối sống, hành vi ứng xử của Người. Nội dung phong cách làm việc Hồ Chí Minh mang tính dân chủ, quần chúng, khoa học, nêu gương, nói đi đôi với làm. Trong đó, phong cách nêu gương được Hồ Chí Minh quán triệt trong ba mối quan hệ đối với mình, đối với người, đối với công việc; quan trọng hơn, muốn nêu gương được nói phải đi đối với làm. Do đó, nghiên cứu, học tập và làm theo phong cách làm việc Hồ Chí Minh để xây dựng phong cách làm việc cho cán bộ, đặc biệt là cán bộ chủ chốt nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, là việc làm cần thiết, cấp bách, có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Từ khóa: Phong cách Hồ Chí Minh, phong cách làm việc, phong cách nêu gương, cán bộ, cán bộ chủ chốt cấp tỉnh. ĐẶT VẤN ĐỀ * Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hành về đạo đức còn nhiều hơn những điều Người nói và viết ra. Chính bản thân Người là một tấm gương về phong cách nêu gương, một hình ảnh mẫu mực về “người lãnh đạo và người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh không chỉ có sức lôi cuốn, cảm hóa mãnh liệt đối với toàn thể dân tộc Việt Nam mà còn có ảnh hưởng sâu rộng trên toàn thế giới. Do đó, học tập và làm theo phong cách nêu gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng ở nước ta hiện nay. Hơn nữa, chính điều này sẽ đặt ra yêu cầu đối với mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn luôn tự tu dưỡng, rèn luyện để trở thành những người có phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống giản dị, trong sáng, luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, lấy lợi ích của nhân dân làm mục đích hoạt động của mình. NỘI DUNG Phong cách làm việc nêu gương theo tư tưởng Hồ Chí Minh Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng phương pháp nêu gương đạo đức, lấy gương người tốt, việc tốt hằng ngày để giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng * Tel: 0982033005; Email: huyendapham.@gmail.com Đảng, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Theo Hồ Chí Minh, để nêu gương, trước hết bản thân phải làm gương trong mọi công việc từ nhỏ đến lớn, thể hiện thường xuyên, về mọi mặt, phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, nói đi đôi với làm. Trong đó, mỗi đảng viên, cán bộ cũng như mỗi người cần nắm vững và giải quyết tốt trên ba mối quan hệ chủ yếu: đối với mình, đối với người, đối với việc. Đối với mình phải không tự cao tự đại, tự mãn, kiêu ngạo mà luôn học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân, phải tự phê bình mình như rửa mặt hằng ngày; đối với người, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc với thái độ khoan dung, độ lượng, trên tinh thần thương yêu đồng chí, đồng bào; đối với việc, dù trong hoàn cảnh nào cũng phải giữ nguyên tắc “dĩ công vi thượng” (để việc công lên trước việc tư), đã phụ trách việc gì thì phải tận tâm, tận lực làm cho kỳ được, không sợ khó khăn, gian khổ, việc gì có lợi cho dân thì phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh. Triết lý sâu xa trong suy nghĩ của Hồ Chí Minh là cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc đều là do công sức của nhân dân, nên cán bộ phải đền bù xứng đáng cho nhân dân. Khi cán Phạm Thị Huyền và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 117 - 122 118 bộ, nhất là cán bộ đứng đầu gương mẫu trong cuộc sống, có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh để phục vụ cho nhân dân, vì sự ấm no, hạnh phúc của dân đó là cơ sở dẫn đến sự thành công. Ngược lại, nếu cán bộ quan liêu, coi thường nhân dân, xa nhân dân thì tất yếu dẫn đến thất bại. Người khẳng định: “Nhân dân ta rất tốt. Nếu chúng ta gương mẫu và biết lãnh đạo thì bất cứ công việc gì khó khăn đến đâu cũng nhất định làm được” [1, tr.223]. Theo đó, trong gia đình, ông bà cha mẹ là tấm gương cho các con cháu, anh chị là tấm gương đối với các em; trong nhà trường các thầy, cô giáo, cán bộ nhân viên là tấm gương cho học trò; trong cơ quan và các tổ chức đoàn thể thì cán bộ lãnh đạo là tấm gương cho cấp dưới, người này có thể nêu gương cho người khác. Trong cuộc sống hằng ngày, người cán bộ, đảng viên chẳng những phải có trách nhiệm tự tu dưỡng tốt để trở thành con người có đời tư trong sáng mà còn phải là tấm gương để nhân dân nhìn vào đó làm những điều đúng, điều thiện, chống lại thói hư, tật xấu. Trong phong trào xây dựng đời sống mới, xã hội mới. Để phát huy vai trò của phương pháp nêu gương về đạo đức trong giáo dục đạo đức cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động phong trào “Người tốt, việc tốt” nhằm giúp cho mỗi người tự nhận thấy mình có thể noi theo gương người tốt và làm được việc tốt để trở thành người có ích cho cộng đồng và qua đó, tạo ra một phong trào thi đua sôi nổi, rộng khắp trong toàn xã hội. Người chỉ ra rằng, mỗi người tốt là một bông hoa đẹp thì cả dân tộc ta sẽ là một vườn hoa đẹp. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng làng, xã, huyện, tỉnh kiểu mẫu; tấm gương “người tốt, việc tốt”. Từ những nhân tố mới làm gương mẫu nhân rộng ra, dấy lên phong trào thi đua học tập và làm theo, tạo nên khí thế cách mạng hào hùng trong sản xuất, công tác rộng khắp trong cả nước. Ngay từ những ngày đầu hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm rèn luyện cho cán bộ, đảng viên không những về mặt phẩm chất, đạo đức mà còn rèn luyện về phong cách làm việc. Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” (năm 1927) và “Sửa đổi lối làm việc” (tháng 10/1947), Người đã yêu cầu cán bộ, đảng viên phải là người có phẩm chất đạo đức cách mạng, vừa phải có năng lực mới đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ; trong đó phong cách làm việc nêu gương là một nhân tố quan trọng cấu thành nên phẩm chất và năng lực của cán bộ, đảng viên. Với quan điểm, “xây phải đi đôi với chống”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi xướng và kiên trì cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân trong mọi thời điểm cách mạng. Người chỉ rõ: “muốn xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, thì trước hết phải chiến thắng kẻ thù bên trong của mỗi chúng ta là chủ nghĩa cá nhân” [1, tr.468]. Thực tế chủ nghĩa cá nhân là căn bệnh chính, đẻ ra trăm thứ bệnh và nhiều thói hư tật xấu trong cán bộ, đảng viên. Nguy hiểm hơn, những người mắc căn bệnh này luôn đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc, từ đó mà sinh ra “tự tư, tự lợi”, dùng của công làm việc tư. Do đó, mỗi cán bộ phải thực hành tốt phương pháp nêu gương, luôn học tập để nâng cao đạo đức cách mạng, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ lý luận để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới đặt ra. Như vậy, học tập và làm theo phong cách nêu gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng ở nước ta hiện nay. Điều này giúp cán bộ, đảng viên phải luôn luôn tự tu dưỡng, rèn luyện để trở thành những người có phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống giản dị, trong sáng, luôn gắn bó mặt thiết với nhân dân, lấy lợi ích của nhân dân làm mục đích hoạt động của mình. Học tập và làm theo phong cách nêu gương của Người để không ngừng củng cố lòng tin của nhân dân với cán bộ, đảng viên, cũng như củng cố mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Đây thực sự là nhiệm vụ trước mắt và lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng ở nước ta hiện nay. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu tấm gương sáng ngời về phong cách nêu gương. Người kêu gọi toàn dân tiết kiệm, bản thân Người nghiêm túc thực hiện, từ việc ăn, mặc đến sinh hoạt, làm việc hằng ngày Người đều gương mẫu. Khi nước nhà vừa giành được độc lập năm 1945, đứng trước nạn đói đang hoành hành, Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân Phạm Thị Huyền và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 117 - 122 119 diệt “giặc đói” bằng hành động cụ thể, mỗi bữa bớt một nắm gạo, mười ngày nhịn ăn một bữa để lấy số gạo tiết kiệm đó cứu những người bị đói và chính Người đã làm gương, nghiêm túc thực hiện một cách triệt để mặc dù phải làm việc nhiều, sức khỏe giảm sút vì vừa trải qua một trận ốm nặng Bộ đội, cán bộ ăn cơm độn ngô, khoai sắn, Người cũng yêu cầu nấu cơm độn đúng như mọi người. Đồ dùng sinh hoạt cá nhân cũng rất giản dị và rất tiết kiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường căn dặn mọi người phải thực hành tiết kiệm, tiết kiệm sức lao động, thời giờ, tiền bạc; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, không xa xỉ, hoang phí, không bừa bãi, phô trương hình thức. Trên thực tế, Người đã sống cả cuộc đời thanh bạch từ ăn, ở đến phương tiện sử dụng phục vụ công việc hằng ngày. Là Chủ tịch nước nhưng Hồ Chí Minh cũng chỉ có vài bộ quần áo đơn sơ, giản dị, bữa ăn của vị nguyên thủ quốc gia như bữa ăn của mọi nhà: Bát canh, quả cà, con cá hoặc vài lát thịt kho. Phong cách sinh hoạt Hồ Chí Minh có nhiều nét đã trở thành huyền thoại không những đối với nhân dân Việt Nam mà còn đối với cả thế giới. Đó là sự giản dị, thanh cao trong sinh hoạt hằng ngày; là cách sống chừng mực, điều độ, ngăn nắp, yêu lao động, rất quý trọng thời gian, không có ham muốn danh lợi riêng cho mình; đó là tình thương yêu con người hòa quyện với tình yêu thiên nhiên tạo nên tinh thần lạc quan của người chiến sĩ cách mạng. Lối sống đó của Người xuất phát từ một triết lý nhân sinh: Lấy khiêm tốn, giản dị làm nền; lấy chừng mực đức độ làm chuẩn mực; lấy trong sạch thanh cao làm nguồn vui; lấy gắn bó con người, thiên nhiên làm niềm say mê vô tận; lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu và là hạnh phúc của mình. Tư tưởng và tấm gương đạo đức, phong cách nêu gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm cho Người trở thành một con người toàn vẹn với một cuộc sống mẫu mực tự nhiên trong suốt cả cuộc đời. Chính vì vậy, tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách và sự nghiệp của Người đã trở thành bất tử trong lòng dân tộc, mãi mãi là tấm gương cho mọi người chúng ta học tập và phấn đấu làm theo. Vận dụng phong cách nêu gương Hồ Chí Minh trong xây dựng phong cách làm việc đối với cán bộ chủ chốt ở nước ta hiện nay Những vấn đề đặt ra trong xây dựng phong cách làm việc đối với cán bộ chủ chốt ở nước ta hiện nay Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một định nghĩa về cán bộ hết sức khái quát, giản dị và dễ hiểu. Theo Người: "Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng" [2, tr.269]. Theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm "chủ chốt" được hiểu là "quan trọng nhất, có tác dụng làm nòng cốt" [3, tr.168]. Từ những quan điểm nêu trên, có thể hiểu cán bộ chủ chốt được hiểu là người có chức vụ, nắm giữ các vị trí quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của tổ chức bộ máy, làm nòng cốt trong các tổ chức thuộc hệ thống bộ máy của một cấp nhất định; người được giao đảm đương các nhiệm vụ quan trọng để lãnh đạo, quản lý, điều hành bộ máy, có vai trò định hướng, điều khiển hoạt động của bộ máy thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao; chịu trách nhiệm trước tập thể, trước cấp trên về lĩnh vực công tác được giao. Trong công cuộc đổi mới đất nước, phong cách làm việc đội ngũ cán bộ chủ chốt đã góp phần không nhỏ vào việc phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa và sự ổn định chính trị của đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình công tác, đội ngũ cán bộ chủ chốt ở nước ta còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém cần khắc phục. Thứ nhất, phong cách làm việc của một bộ phận cán bộ chủ chốt còn thiếu dân chủ, áp đặt ý kiến chủ quan đối với tập thể Trong quá trình làm việc, có một số ít cán bộ chủ chốt còn tồn tại biểu hiện dân chủ hình thức, không tôn trọng tính đảng, tính nguyên tắc trong công việc. Ngụy biện cho sự sai trái của mình bằng các nguyên tắc sinh hoạt đảng. Một số cán bộ chủ chốt đã biến nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách thành “cá nhân phụ trách, tập thể chịu trách nhiệm”, khi có công thì nhận về cá nhân, khi có lỗi lại đổ cho tập thể. Thậm chí, có những kế hoạch, Phạm Thị Huyền và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 117 - 122 120 chương trình, quyết định đưa ra chưa phù hợp với điều kiện đặc thù của ngành, địa phương nên khó triển khai, thực hiện. Công tác tổ chức học tập, nghiên cứu, tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước còn đơn điệu nên hiệu quả, chất lượng học tập nghị quyết không cao. Ở một số địa phương, có những vấn đề bức xúc, nổi cộm của người dân mà chưa được xem xét, giải quyết thấu đáo. Đó là nguyên nhân dẫn đến tình trạng khiếu kiện vượt cấp, khiếu kiện kéo dài, trong đó chủ yếu là những vấn đề liên quan đến đất đai. Điều đó, không chỉ ảnh hưởng đến cá nhân cán bộ chủ chốt mà còn tác động tiêu cực đến sự phát triển của từng đơn vị, ngành, địa phương, vùng nói riêng và đất nước nói chung. Vì vậy, Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng đã thừa nhận: “Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu các cấp chưa có quyết tâm chính trị cao; việc cụ thể hóa các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thành chương trình, kế hoạch tổ chức thực hiện ở một số địa phương, đơn vị còn chung chung, chỉ đạo thiếu quyết liệt, còn trông chờ, ỷ lại cấp trên; một số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tiên phong, gương mẫu” [4, tr.22]. Thứ hai, cán bộ chủ chốt còn tồn tại tình trạng quan liêu, cửa quyền, hách dịch Có thế nhận định rằng tệ quan liêu ở nước ta đang diễn ra rất phức tạp, nghiêm trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bộ máy của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, đầu mối, hoạt động thiếu hiệu quả; bệnh hội họp, giấy tờ văn bản, thủ tục hành chính còn rườm rà; thái độ, phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức còn có biểu hiện hách dịch, sách nhiễu nhân dân, v.v.. Đi liền với đó là nạn cửa quyền, mệnh lệnh, tham ô, lãng phí vẫn còn tồn tại ở một bộ phận cán bộ. Tác hại của tệ quan liêu là rất lớn; nó làm cho tổ chức đảng và cơ quan nhà nước không nắm được tình hình thực tế, không hiểu được tâm tư, nguyện vọng, đời sống của nhân dân, không phát huy được trí tuệ, năng lực của nhân dân, dẫn đến những chủ trương, chính sách không phù hợp, thậm chí sai lầm, làm tổn thương nghiêm trọng đến mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Trên thực tế, vẫn còn một bộ phận cán bộ chủ chốt nặng tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, thiếu tinh thần trách nhiệm, trình độ tổ chức, quản lý hạn chế. Một số cán bộ khi có chức, có quyền coi thường nhân dân, cho mình là người “đứng trên”, “ban ơn”, chứ không phải là những công bộc của nhân dân. Họ ngại khó khăn, gian khổ, thích ngồi bàn giấy hơn là đi sâu sát cơ sở, sát thực tiễn sản xuất và đời sống của nhân dân; thích thổi phồng thành tích, “lừa trên, dối dưới”, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Vì những người và những cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế... Đối với công việc thì trọng hình thức mà không xem xét khắp mọi mặt, không vào sâu vấn đề “Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí” [5, tr.357]. Trong việc thực hiện nhiệm vụ, một số cán bộ chủ chốt ở một số nơi còn tỏ thái độ hách dịch, nhũng nhiễu, vòi vĩnh. Hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm, né tránh công việc, năng lực công tác hạn chế vẫn còn hiện diện trên thực tế. Thậm chí, ở một số đơn vị, có biểu hiện của mất đoàn kết nội bộ, kèn cựa địa vị, ganh tị, bè phái, lợi ích nhóm dẫn đến hiệu quả làm việc không cao. Ở một khía cạnh khác, vẫn còn một số ít cán bộ chủ chốt chưa sâu sát, chưa thấu hiểu, chưa thật sự quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của quần chúng. Thứ ba, phong cách làm việc của cán bộ chủ chốt còn hiện tượng nói không đi đôi với làm, ý thức chấp hành kỷ luật chưa cao Một bộ phận cán bộ chủ chốt chưa thật sự mẫu mực trong lối sống, phong cách làm việc còn hạn chế. Cá biệt còn có một bộ phận nhỏ cán bộ chủ chốt còn thiếu tính tiên phong, gương mẫu trong việc chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định, nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị; chưa gương mẫu trong đấu tranh tự phê bình và phê bình. Công tác đấu tranh, phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong Đảng, Phạm Thị Huyền và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 117 - 122 121 chính quyền, đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội hiệu quả chưa cao, chưa chủ động phát hiện vi phạm, tiêu cực. Trước sự giao thoa cơ chế của kinh tế thị trường, tác động từ sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội trên thế giới và các mặt tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa, dẫn đến sự phai nhạt, dao động lý tưởng đã xuất hiện không ít trong đội ngũ cán bộ công quyền, tư tưởng trọng tiền đã làm xuống cấp đạo đức xã hội, coi tiền là thước đo giá trị nhân phẩm con người, chạy theo các giá trị vật chất tầm thường, đồng tiền trở thành quan hệ ứng xử phổ biến trong xã hội, từ đó thỏa mãn với những nhận thức giản đơn, dễ dàng thỏa hiệp, không kiên quyết phê phán, đấu tranh với những quan điểm sai trái, lơ là, mất cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”. Vì vậy, có những đồng chí bằng lòng, tự mãn với mình, không tích cực học tập vươn lên, không có ý thức khắc phục khó khăn trong học tập, trong công tác. Năng lực hoạt động thực tiễn, khả năng dự báo tình hình và khả năng thích ứng, chủ động xử lý tình huống từ một số ít cán bộ chủ chốt còn hạn chế. Có những cán bộ nói rất hay nhưng việc tổ chức thực hiện chưa đạt hiệu quả, lý luận rất giỏi nhưng khi triển khai công việc trên thực tế lại lúng túng, bị động, có khi còn trông chờ vào sự giúp đỡ của cấp trên. Nội dung vận dụng phong cách nêu gương Hồ Chí Minh đối với cán bộ chủ chốt hiện nay Vấn đề học tập tác phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được đặt ra từ Đại hội II của Đảng Lao động Việt Nam. Với phương châm nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, không nể nang, không né tránh, Đại hội XI của Đảng đã nghiêm túc chỉ ra những hạn chế là: "Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, ... làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước" [6, tr.173]. Trên cơ sở nghiên cứu và tổng kết thực tiễn, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng một lần nữa thẳng thắn nhìn nhận những khuyết điểm còn tồn tại: "Đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa được đẩy lùi" [7, tr.15]. Trong tình hình mới, Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức nêu ra trong Chỉ thị 05- CT/TW ngày 15 tháng 5 năm 2016 là “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” [8], và từ đó đến nay, công tác xây dựng phong cách, trong đó có phong cách làm việc cho cán bộ chủ chốt. Qua nghiên cứu phong cách làm việc nêu gương Hồ Chí Minh và thực trạng phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ chủ chốt ở nước ta hiện nay, việc xây dựng phong cách làm việc cho đội ngũ cán bộ này đứng trước những vấn đề cấp bách, cần sớm được giải quyết. Thông qua đó, phát huy những ưu điểm đã có, khắc phục những hạn chế đang tồn tại, từng bước xây dựng phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ chủ chốt theo phong cách làm việc của Hồ Chí Minh. Cụ thể: Thứ nhất, cần nâng cao trình độ nhận thức của mỗi tổ chức, cá nhân về phong cách làm việc của cán bộ chủ chốt; Thứ hai, khắc phục những rào cản trong tư duy, chính sách, biện pháp và điều kiện đảm bảo của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể trong xây dựng phong cách làm việc cho cán bộ chủ chốt; Thứ ba, thúc đẩy sự nỗ lực phấn đấu rèn luyện của bản thân cán bộ chủ chốt trong xây dựng phong cách làm việc; Thứ tư, hoàn thiện chính sách đãi ngộ, cơ chế kiểm tra, giám sát, đánh giá của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân trong xây dựng phong cách làm việc cho cán bộ chủ chốt. Theo đó, cần thiết phải: Xây dựng phong cách làm việc cho đội ngũ cán bộ chủ chốt gắn với việc thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; xây dựng phong cách làm việc cho đội ngũ cán bộ chủ chốt phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, sự tham gia tích cực, chủ động của các tổ chức, đoàn thể và ý thức tự giác của mỗi cán bộ chủ chốt; gắn với nâng cao chất lượng công tác cán bộ và gắn với đổi mới về cơ chế kiểm tra, giám sát, đánh giá cán bộ, đặc biệt chú trọng phát huy vai trò của nhân dân. Với ý nghĩa và yêu cầu đó, mỗi cán bộ chủ chốt cần: Nhận thức được sự cần thiết phải tu dưỡng, rèn luyện theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, phương pháp Phạm Thị Huyền và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 117 - 122 122 trong thực hiện đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; mỗi cán bộ chủ chốt phải tích cực, tự giác học tập và tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, nâng cao năng lực tư duy theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; thực hiện tốt công tác tự phê bình và phê bình về quá trình tu dưỡng, rèn luyện và thực hành phong cách làm việc Hồ Chí Minh. KẾT LUẬN Phương pháp, phong cách làm việc của cán bộ chủ chốt có ảnh hưởng lớn đến tác phong công tác của đồng nghiệp, cấp dưới và nhân dân. Người cán bộ chủ chốt có phong cách làm việc tốt sẽ tạo nên một “phong trào” mang tính xã hội cao, một “điểm tựa”, một “đầu tàu”, một tấm gương để mọi người học tập và làm theo. Do đó, sự gương mẫu, thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, nói đi đôi với làm là một vấn đề quan trọng trong phong cách làm việc của cán bộ nói chung và cán bộ chủ chốt nói riêng. Do vậy, xây dựng phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ chủ chốt ở nước ta hiện nay là vấn đề có ý nghĩa quyết định đến chất lượng, hiệu quả cải cách nền hành chính công. Phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ chủ chốt càng quan trọng bao nhiêu thì sự yếu kém, lạc hậu, bất cập của đội ngũ này càng gây hậu quả tiêu cực bấy nhiêu. Thực tế đã và đang khách quan hóa yêu cầu đổi mới, xây dựng phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ chủ chốt theo phong cách làm việc Hồ Chí Minh. Nó đòi hỏi phải đáp ứng được những yêu cầu mới mà thời đại, bối cảnh của đất nước trong xu thế toàn cầu hóa, cạnh tranh, hội nhập với những tác động đa chiều từ nền kinh tế thị trường. Đó là những yêu cầu mới về nhân cách, trí tuệ, đạo đức, phong cách làm việc dân chủ, khoa học, sáng tạo, hiện đại mà những cán bộ chủ chốt cấp tỉnh phải hướng đến để trở thành “người đày tớ” thật trung thành, tận tụy của nhân dân. Đây chính là sự cụ thể hóa phong cách làm việc nêu gương trong tư duy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, T.14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, T.5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 3. Hoàng Phê (Chủ biên) (1997), Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, Nxb Đà Nẵng. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội. 5. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, T.7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 8. ban/id/1734.html SUMMARY MANIPULATE EXEMPLARY STYLE ACCORDING TO THE PRESIDENT HO CHI MINH’S THOUGHT IN BUILDING WORK STYLE FOR KEY CADERS AT PRESENT PERIOD Pham Thi Huyen*, Vu Thi Thuy TNU - University of Education The Ho Chi Minh’s Style is a combination of a close, harmonious moral thinking with real experiences during the journey of salvation, living in his way of life, behavior. The content of Ho Chi Minh's style in working is democratic, popular, scientific, exemplary, speaking suitable with doing. In which, Ho Chi Minh’s exemplary style is thoroughly understood in three relationships for ourselves, for people, for work. More importantly, wanting to be exemplify, is that what you say must be suitable with what you do. Therefore, studying, following and working as Ho Chi Minh’s style to build the working style for cadres, especially the key ones to meet the requirements of innovation is a necessary and urgent task which has great significance for the revolutionary career of our country in the present period. Keywords: Ho Chi Minh’s style, working style, exemplary style, cadres, provincial key staff. Ngày nhận bài: 20/3/2018; Ngày phản biện: 03/4/2018; Ngày duyệt đăng: 29/6/2018 * Tel: 0982033005; Email: huyendapham.@gmail.com oµ soT T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ SOCIAL SCIENCE – HUMANITIES – ECONOMICS Content Page Hoang Thi Phuong Nga - Literature tourism model “the old Vu Dai village” 3 Pham Thi Thu Hoai, Tran Thi Thanh - Slang in Van Thanh Le's stories about education problems 9 Ngo Thi Thanh Nga, Pham Thi Hong Van - A brief description of the modes of expressing conjugal sentiments in the Vietnam medieval literature 15 Nguyen Thi Tham, Nguyen Minh Son - The opposite view of Nguyen Ngoc Tu to Vietnamese traditional literature via the main female characters in Khong ai qua song 21 Dang Thi Thuy, Nguyen Dieu Thuong - The logic of “non logic” phenomenon in Vietnamese folk verses, proverbs 27 Dinh Thi Giang - Factors affecting current lifestyle of Vietnamese people in the northern delta 33 Nguyen Dieu Thuong, Nguyen Thi Lan Huong - Mechanisms creating implication in satirical jokes 39 Nguyen Thu Quynh, Vi Thi Hien - Household vocabulary of Thai language in Dien Bien province 45 Nguyen Thi Thu Oanh, Hoang Thi My Hanh - Position, role of the communist party of Vietnam in the period 1954 – 1975 and some lessons learned 51 Do Hang Nga, Pham Quoc Tuan - Collection of taxes in the villages through material of reformist village convention in Thai Nguyen province 57 Le Van Hieu - The efficiency of the model "propaganda department" in communes, wards, township and "commander" in villages, cities at the current period in Lao Cai province 63 Thai Huu Linh, Nguyen Thi Thu Hien, Nguyen Thi Thanh Ha - The role of the rear Bac Thai in the 1968 general offensive 69 Pham Anh Nguyen - The attraction in “Hai dam” of Phan Khoi 73 Nguyen Thi Huong, Nguyen Thi Mao, Nguyen Tuan Anh - Enhancing the efficiency of extracurrucular activities in teaching civic education at high schools in thai nguyen city these days 79 Nguyen Van Dung, Dao Ngoc Anh - Physical status of non-sports students at Thai Nguyen University of Education 85 Tran Bao Ngoc, Le Ngoc Uyen, Bui Thanh Thuy et al - The reality of degree classification in non- examination students at University of Medicine and Pharmacy – Thai Nguyen University in the period from 2013 to 2017 91 Nguyen Thuc Canh - The need for buiding an exercise system with practical content to teach mechanics to high school 97 Ha Thi Kim Linh, Chu Thi Bich Hue - Educate legal knowledge for ethnic minority women in Vo Nhai district, Thai Nguyen province 105 Nguyen Thi Thanh Hong, Nguyen Thi Khanh Ly, Vu Kieu Hanh - Improve students’ participation in English learning activities in large mixed ability classes of the freshman students at Thai Nguyen University of Medicine and Pharmacy 111 Pham Thi Huyen, Vu Thi Thuy - Manipulate exemplary style according to the President Ho Chi Minh’s thought in building work style for key caders at present period 117 Dam Quang Hung - Science lesson planning for grade 4, 5 according to experimental research 123 Hoang Thi Thu Hoai - Difficulties in teaching and learning ESP vocabulary for nursing students at Thai Nguyen Medical College and some solutions 129 Nguyen Lan Huong, Van Thi Quynh Hoa - Determinants affecting English speaking performance of the first- year students at Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry 135 Journal of Science and Technology 183(07) N¨m 2018 Vu Kieu Hanh - Determinants to the reading comprehension performance level of the second- year students at Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry 141 Nguyen Thi Que, Hoang Thi Nhung - Asking the right question for successful self-studying and cooperative learning - towards independent language learners in the context of ASEAN community and global integration 147 Ngo Thi Thu Ha, Nguyen Thi Hoai Thu - Apply interactive teaching methods to improve the quality of teaching and learning Vietnamese to international students at Military Technical Academy 153 Duong Van Tan - An assessment of the effectiveness in application of games in general physical development for students at Thai Nguyen University of Technology 159 Bui Thi Huong Giang - Improving intercultural communicative competence in foreign language teaching and learning 165 Tran Hoang Tinh, Nong La Duy, Pham Van Tuan - Building self-managed platoon in disciplinary education for students at the center for defense and security education in the current phase 171 Tran Thi Yen, Khong Thi Thanh Huyen - Improving academic writing performance for english majors through intensive reading 177 Do Thi Hong Hanh, Hoang Mai Phuong - Vocational training for rural workers in Cho Moi district, Bac Kan province 183 Tran Thuy Linh, Tran Luong Duc, Nguyen Thi Thuy Trang - European union competition law approach on exploitative abuses 189 Nguyen Thi Thanh Ha, Pham Viet Huong - Setting up an appropriate set of economic criteria and indicators for evaluating sustainable forest management in Dinh Hoa district 195 Dinh Thi Hoai - Marketing promotion for information - library product and service at the Learning Resource Center of Thai Nguyen University 201 Nguyen Thi Thanh Xuan - Factors affecting customer satisfaction in hotels at Thanh Hoa province, Vietnam 207 Duong Thi Tinh - Contributions of goods export to the economic growth of Yen Bai province 213 Le Minh Hai, Tran Viet Khanh - Tourism space organization of Thai Nguyen province 219 Ha Van Vuong - Apply the ergonomics theory in working environment organization at the office of Song Cong grarment branch II – TNG Investment and Trading Joint Stock Company 227 Mai Anh Linh, Nguyen Thi Minh Anh - Assessing service quality and customer satisfaction: an empirical study at Lan Chi supermarket, Thai Nguyen city 233 Dinh Hong Linh, Nguyen Thu Nga, Nguyen Thu Hang - Applying logarithmic function to evaluate the business efficiency of Vietnam banks 239

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf355_383_1_pb_8549_2127107.pdf
Tài liệu liên quan