Vận dụng hành lang pháp lý - Luật bảo vệ môi trường trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn ở An Giang

Tài liệu Vận dụng hành lang pháp lý - Luật bảo vệ môi trường trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn ở An Giang: 538 VẬN DỤNG HÀNH LANG PHÁP LÝ - LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN Ở AN GIANG Th.S Nguyễn Minh Diễm Quỳnh 1. Đặc điểm tình hình An Giang là một trong những tỉnh có tiềm lực kinh tế lớn ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long cùng những yếu tố thuận lợi về điểu kiện tự nhiên, địa hình, tài nguyên thiên nhiên và vị trí phân bố lãnh thổ. Đây được xem là một trong những địa phương giàu tiểm năng phát triển kinh tế, nông nghiệp thủy sản, bên cạnh khu kinh tế cửa khẩu, công nghiệp chế biến, sản xuất vật liệu xây dựng và dịch vụ du lịch. Bản đồ hành chính tỉnh An Giang 1 Bên cạnh diện tích đất sản xuất nông nghiệp của tỉnh là 84,4% , An Giang ưu tiên tập trung xây dựng, củng cố các công trình thủy lợi, bảo đảm nước sản xuất, sinh hoạt, gắn với triển khai các biện pháp nhằm giảm thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh gây ra. Thực hiện mục tiêu của Tỉnh ủy, năm 2017, An Giang đã khảo sát xác định 28 điểm kênh, rạch, sông có nguy c...

pdf10 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 285 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vận dụng hành lang pháp lý - Luật bảo vệ môi trường trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn ở An Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
538 VẬN DỤNG HÀNH LANG PHÁP LÝ - LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN Ở AN GIANG Th.S Nguyễn Minh Diễm Quỳnh 1. Đặc điểm tình hình An Giang là một trong những tỉnh có tiềm lực kinh tế lớn ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long cùng những yếu tố thuận lợi về điểu kiện tự nhiên, địa hình, tài nguyên thiên nhiên và vị trí phân bố lãnh thổ. Đây được xem là một trong những địa phương giàu tiểm năng phát triển kinh tế, nông nghiệp thủy sản, bên cạnh khu kinh tế cửa khẩu, công nghiệp chế biến, sản xuất vật liệu xây dựng và dịch vụ du lịch. Bản đồ hành chính tỉnh An Giang 1 Bên cạnh diện tích đất sản xuất nông nghiệp của tỉnh là 84,4% , An Giang ưu tiên tập trung xây dựng, củng cố các công trình thủy lợi, bảo đảm nước sản xuất, sinh hoạt, gắn với triển khai các biện pháp nhằm giảm thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh gây ra. Thực hiện mục tiêu của Tỉnh ủy, năm 2017, An Giang đã khảo sát xác định 28 điểm kênh, rạch, sông có nguy cơ sạt lở, có chiều dài 2,7km, đồng thời rà soát các  GV khoa Luật- Khoa học Chính trị, trường ĐH An Giang. 539 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH vùng xâm nhập mặn, khô hạn Trên cơ sở đó, tỉnh đã chủ động nạo vét 146/159 công trình thủy lợi với chiều dài trên 233km, gia cố 83km đê bao; tu sửa, nâng cấp 195 cống, công trình thủy lợi Địa phương quản lý, khai thác công trình thủy lợi, xây dựng đề án khai thác hồ chứa nước tại huyện Tri Tôn, Tịnh Biên. Từ năm 2015 đến nay, Tỉnh ủy An Giang đã lãnh đạo triển khai 62 dự án, đề tài cấp tỉnh, 67 mô hình, giải pháp khoa học cấp cơ sở. Các công trình thủy lợi đều hướng đến mục tiêu tạo thuận lợi chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp và tích tụ ruộng đất. Những vấn đề chính liên quan đến môi trường và tài nguyên ở An Giang có thể kể đến như: cơ sở hạ tầng kỹ thuật môi trường đô thị (đường sá, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống kỹ thuật quản lý chất thải rắn, nhà vệ sinh công cộng, cây xanh, nghĩa địa) phát triển không đồng bộ và không theo kịp quá trình đô thị hóa; Hệ thống thu gom và xử lý chất thải rắn còn nhiều bất cập; Chất thải và ô nhiễm môi trường do hoạt động sản xuất công nghiệp (khói thải từ các lò gạch, bụi từ các hoạt động khai thác đá, xay xát lúa gạo, vật liệu xây dựng, xi măng và chế biến thức ăn gia súc chưa được xử lý tốt); Nước thải và bùn thải từ các ao, hổ, hầm nuôi thủy sản; chất thải và thức ăn thừa từ các bè cá; dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong đất, trong nước ảnh hưởng đến môi trường. Nhiều khu vực nông thôn của tỉnh còn thiếu nước sạch và không đảm bảo các điều kiện vệ sinh môi trường; tình trạng sạt lỡ bờ sông, khai thác cát trái phép trên bờ sông Tiền và sông hậu vẫn còn diễn biến phức tạp; vấn đề mô nhiễm xuyên biên giới Camphuchua- Việt Nam do sự tác động của nhiều nguên nhân; Tình hình môi trường càng trở nên phức tạp và khó kiểm soát trong mùa lũ, đặc biệt là ở các bãi rác.2 Liên quan đến vấn đề môi trường và ô nhiễm môi trường, nhà nước ta đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật như luật bảo vệ môi trường, luật bảo vệ và phát triển rừng, luật thủy sản, luật thủy lợi, pháp lệnh giống câu trồng và pháp lệnh giống vật nuôi. Trong đó, phạm vi điều chỉnh của luật bảo vệ môi trường mang tính chi phối, gồm các quy định về hoạt động bảo vệ môi trường, chính sách, biện pháp và nguồn lực đề bảo vệ môi trường, quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong bảo vệ môi trường. Với đặc trưng thế mạnh của An Giang là cây lúa và nguồn lợi thủy sản, tập trung chủ yếu ở các khu vực nông thôn. Như vậy, làm thế nào để sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn một cách bền vững thì bảo vệ môi trường 540 và phòng, chống, khắc phục ô nhiễm môi trường là một trong những vấn đề cấp bách đặt ra trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đó cũng chính là lý do tác giả viết nài này dưới góc độ từ thực tiễn đến việc vận dụng các chính sách của nhà nước trước vấn nạn ô nhiễm môi trường tại địa phương. 2. Hành lang pháp lý trong bảo vệ môi trường 2.1. Chính sách của Nhà nước về bảo vệ môi trường Tại Điều 5 luật Bảo vệ môi trường năm 2014 có quy định chính sách của nhà nước về bảo vệ môi trường là tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân tham gia hoạt động bảo vệ môi trường; kiểm tra , giám sát việc thực hiện hoạt động bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật; Tuyên truyền, giáo dục kết hợp với biện pháp hành chính, kinh tế và biện pháp khác để xây dựng kỷ cương và văn hóa bảo vệ môi trường; Bảo tồn đa dạng sinh học; khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; phát triển năng lượng sạch và năng lượng tái tạo; đẩy mạnh tái chế, tái sử dụng và giảm thiểu chất thải; Ưu tiên xử lý vấn đề môi trường bức xúc, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ô nhiễm môi trường nguồn nước; chú trọng bảo vệ môi trường khu dân cư; phát triển hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường; Đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cho bảo vệ môi trường; bố trí khoản chi riêng cho bảo vệ môi trường trong ngân sách với tỷ lệ tăng dần theo tăng trưởng chung; các nguồn kinh phí bảo vệ môi trường được quản lý thống nhất và ưu tiên sử dụng cho các lĩnh vực trọng điểm trong bảo vệ môi trường. Ưu đãi, hỗ trợ về tài chính, đất đai cho hoạt động bảo vệ môi trường, cơ sở sản xuất, kinh doanh thân thiện với môi trường; Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực về bảo vệ môi trường; Phát triển khoa học, công nghệ môi trường; ưu tiên nghiên cứu, chuyển giao và áp dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ thân thiện với môi trường; áp dụng tiêu chuẩn môi trường đáp ứng yêu cầu tốt hơn về bảo vệ môi trường; Gắn kết các hoạt động bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên với ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh môi trường; Nhà nước ghi nhận, tôn vinh cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân có đóng góp tích cực trong hoạt động bảo vệ môi trường; Mở rộng, tăng cường hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường; thực hiện đầy đủ cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường. 541 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH 2.2. Những hoạt động bảo vệ môi trường được khuyến khích. Những hoạt động bảo vệ môi trường cũng được khuyến khích cũng đã được ghi nhận tại điều 6 như sau: Truyền thông, giáo dục và vận động mọi người tham gia bảo vệ môi trường, giữ gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và đa dạng sinh học; Bảo vệ, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; Giảm thiểu, thu gom, tái sử dụng và tái chế chất thải; Hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu; phát triển, sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; giảm thiểu phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính, phá hủy tầng ô-zôn; Đăng ký cơ sở, sản phẩm thân thiện với môi trường; sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng sản phẩm thân thiện với môi trường. Nghiên cứu khoa học, chuyển giao, ứng dụng công nghệ xử lý, tái chế chất thải, công nghệ thân thiện với môi trường; Đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất thiết bị, dụng cụ bảo vệ môi trường; cung cấp dịch vụ bảo vệ môi trường; thực hiện kiểm toán môi trường; tín dụng xanh; đầu tư xanh; Bảo tồn và phát triển nguồn gen bản địa; lai tạo, nhập nội các nguồn gen có giá trị kinh tế và có lợi cho môi trường; Xây dựng thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, khu dân cư thân thiện với môi trường; Phát triển các hình thức tự quản và tổ chức hoạt động dịch vụ giữ gìn vệ sinh môi trường của cộng đồng dân cư; Hình thành nếp sống, thói quen giữ gìn vệ sinh môi trường, xóa bỏ hủ tục gây hại đến môi trường; Đóng góp kiến thức, công sức, tài chính cho hoạt động bảo vệ môi trường; thực hiện hợp tác công tư về bảo vệ môi trường. 2.3. Những hành vi bị nghiêm cấm Phá hoại, khai thác trái phép nguồn tài nguyên thiên nhiên; Khai thác nguồn tài nguyên sinh vật bằng phương tiện, công cụ, phương pháp hủy diệt, không đúng thời vụ và sản lượng theo quy định của pháp luật; Khai thác, kinh doanh, tiêu thụ các loài thực vật, động vật hoang dã thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định; Vận chuyển, chôn lấp chất độc, chất phóng xạ, chất thải và chất nguy hại khác không đúng quy trình kỹ thuật về bảo vệ môi trường; Thải chất thải chưa được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường; các chất độc, chất phóng xạ và chất nguy hại khác vào đất, nguồn nước và không khí; Đưa vào nguồn nước hóa chất độc hại, chất thải, vi sinh vật chưa được kiểm định và tác nhân độc hại khác đối với con người và sinh vật. Thải khói, bụi, khí có chất hoặc mùi độc hại vào không khí; phát tán bức 542 xạ, phóng xạ, các chất ion hóa vượt quá quy chuẩn kỹ thuật môi trường; Gây tiếng ồn, độ rung vượt quá quy chuẩn kỹ thuật môi trường; Nhập khẩu, quá cảnh chất thải từ nước ngoài dưới mọi hình thức; Nhập khẩu, quá cảnh động vật, thực vật chưa qua kiểm dịch; vi sinh vật ngoài danh mục cho phép; Sản xuất, kinh doanh sản phẩm gây nguy hại cho con người, sinh vật và hệ sinh thái; sản xuất, sử dụng nguyên liệu, vật liệu xây dựng chứa yếu tố độc hại vượt quá quy chuẩn kỹ thuật môi trường. Phá hoại, xâm chiếm trái phép di sản thiên nhiên, khu bảo tồn thiên nhiên; Xâm hại công trình, thiết bị, phương tiện phục vụ hoạt động bảo vệ môi trường; Hoạt động trái phép, sinh sống ở khu vực được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định là khu vực cấm do mức độ đặc biệt nguy hiểm về môi trường đối với con người; Che giấu hành vi hủy hoại môi trường, cản trở hoạt động bảo vệ môi trường, làm sai lệch thông tin dẫn đến gây hậu quả xấu đối với môi trường; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vượt quá quyền hạn hoặc thiếu trách nhiệm của người có thẩm quyền để làm trái quy định về quản lý môi trường3. 3. Thực trạng vấn đề môi trường và ô nhiễm môi trường tại An Giang Đối chiếu các quy định của pháp luật dựa trên thực tiễn nông thôn Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi, kèm theo đó là tình trạng ô nhiễm môi trường do ý thức con người trong bảo vệ môi trường còn bị hạn chế - chỉ thấy được những cái lợi trước mắt mà chưa quan tâm đến bệnh tật, sức khỏe hay yếu tố bền vững của sự phát triển khu vực ở nông thôn. Từ đặc trưng cơ bản của một tỉnh phát triển về nông nghiệp với dư lượng phân bón, thuốc trừ sâu cùng các chất thải của làng nghề truyền thống; sự quan tâm chưa triệt để của các cấp, các ngành; cách xử lý chưa kịp thời của cơ quan chức năng; chế tài pháp luật chưa đủ sức răn đe đã gây nên hiện tượng ô nhiễm mỗi lúc một nhiều, không chỉ riêng An Giang hay các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long mà trên phạm vi cả nước. Đây là một trong những vấn đề nan giải đòi hỏi phải có hướng đi riêng, cách xử lý thích hợp gắn tiêu chí bảo vệ môi trường cần được đặt ở vị trí hàng đầu trong hoạch định các chính sách kinh tế- xã hội tại địa phương. Trên cơ sở giới hạn và phạm vi của tham luận khi nghiên cứu vấn đề môi trường và ô nhiễm môi trường trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông 543 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH thôn ở An Giang, tác giả sẽ đi sâu phân tích thực trạng của vấn đề này tại địa phương như sau: Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh An Giang nhiệm kỳ 2015-2020 đã xác định: "Nông nghiệp là ngành kinh tế mũi nhọn, xây dựng An Giang trở thành trung tâm nông nghiệp của Đồng bằng Sông Cửu Long; phấn đấu tăng giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân đạt 192 triệu đồng/ha vào năm 2020, sử dụng hiệu quả nguồn vốn, tài nguyên, sức lao động, công nghệ”. Theo đó, Tỉnh ủy An Giang tập trung lãnh đạo huy động nhiều nguồn lực phát triển nông nghiệp theo chiều sâu, không ngừng gia tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần người nông dân... Trong tổ chức lại sản xuất, chuyển đổi tư duy của cán bộ, nông dân từ phát triển theo diện tích, năng suất, sản lượng sang tư duy tăng giá trị, hiệu quả trên một đơn vị diện tích. Các địa phương chủ động cơ cấu sản phẩm nông nghiệp lợi thế so sánh trên thị trường, xác định bốn loại sản phẩm chủ lực, gồm: lúa, cá, rau màu, cây dược liệu; tập trung phát triển các loại hình kinh tế trang trại, gia trại, mở rộng hạn điền, tích tụ ruộng lớn, ưu tiên chuyển đổi mục đích sử dụng ruộng đất làm kinh tế trang trại theo mô hình, công ty cổ phần, vận động người dân góp vốn bằng đất cùng sản xuất kinh doanh, chia cổ tức. Các địa phương cũng chủ động chuyển đổi vùng trồng lúa kém hiệu quả sang trồng hoa màu, cây ăn trái, chăn nuôi. Hiện, tỉnh chuyển dịch 9.316ha trồng xoài, rau dưa gần 22.000ha Năm 2017, An Giang có 45 doanh nghiệp ký kết chuỗi sản xuất, tiêu thụ sản phẩm với nông dân, qua mô hình 19 hợp tác xã, 32 tổ hợp tác, tích tụ 20.586ha đất sản xuất theo mô hình “cánh đồng mẫu lớn”. Tỉnh xây dựng được 24 mô hình sản xuất hiệu quả, như “nuôi tôm trên đất lúa tại huyện Thoại Sơn”, lợi nhuận 100 triệu đồng/ha, tăng gấp 5 lần lợi nhuận trồng lúa; mô hình “Rau VietGap, rau hữu cơ”, có gần 20ha tại TP Long Xuyên; “trồng nấm rơm comport”; “Nuôi cá tra thương phẩm”, có 336ha, sản lượng hơn 98.000 tấn; “Mô hình trồng chuối, xoài công nghệ cao” nâng giá trị sản xuất đạt hơn 165 triệu đồng/ha đất nông nghiệp. Tại huyện Chợ Mới, một trong những địa phương chuyển đổi mô hình sản xuất hiệu quả, từ năm 2016 đến nay, huyện chuyển dịch từ đất lúa kém hiệu quả sang trồng hoa màu, cây ăn trái được hơn 3.000ha, nâng tổng số diện tích cây ăn trái lên hơn 5.200ha, lợi nhuận đạt từ 57 triệu đồng đến 234 triệu đồng/ha. Là tỉnh có nhiều đồng bào Khmer, Chăm, An Giang chủ động tăng cường cán bộ xuống cơ sở, phát hành tài liệu bằng tiếng Khmer, Chăm, hướng dẫn bà con trồng thốt nốt, thu nhập tăng thêm hơn 300.000 đồng/tháng. An Giang cũng xây dựng “Trung tâm Giống công 544 nghệ cao” bảo đảm cung cấp giống cho yêu cầu sản xuất trong tỉnh và các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long với mức đầu tư 10 triệu euro. UBND tỉnh đã có kế hoạch, xác định rõ cơ chế, vốn, chính sách, mô hình sản xuất, lực lượng cụ thể. Cấp ủy các cấp luôn chú trọng phát huy vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Địa phương chọn đơn vị làm điểm, đẩy mạnh tuyên truyền, nhân rộng gương điển hình tiên tiến. Các ban, ngành chủ động đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, có chuyên môn phục vụ yêu cầu kinh tế hợp tác, hợp tác sản xuất và có nội dung bồi dưỡng cho nông dân cụ thể, sát từng đề án, dự án, chương trình, liên kết chuỗi sản xuất, ứng dụng công nghệ, làm thay đổi nhận thức, hành động. Năm 2017, An Giang đã tổ chức 223 cuộc hội thảo, trình diễn trên 1.500 điểm khoa học kỹ thuật cho hơn 100.000 lượt nông dân. Tỉnh ủy còn chỉ đạo rà soát, bổ sung thêm chức năng, nhiệm vụ một số ban, ngành, nhưng không tăng biên chế, đáp ứng yêu cầu sản xuất nông nghiệp; chủ động liên kết vùng, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, dự báo, xác định sản lượng tiềm năng sát thực tiễn theo kinh tế thị trường, có sự can thiệp của ngành chức năng, khắc phục tình trạng lúc thiếu, lúc thừa, được mùa mất giá4 Các làng nghề thủ công truyền thống có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và giải quyết việc làm ở các địa phương. Tuy nhiên, tình trạng ô nhiễm không khí đã làm ảnh hưởng không chỉ trực tiếp đến cuộc sống, sinh hoạt và sức khỏe của những người dân trong vùng mà còn ảnh hưởng đến cả những người dân sống ở vùng lân cận. Họ phải sống chung với khói bụi, uống nước từ nguồn ô nhiễm chất thải. Từ đó, gây bất bình, dẫn đến những phản ứng, đấu tranh quyết liệt của người dân đối với những hoạt động gây ô nhiễm môi trường. Nghề đặc trưng gắn với nông thôn- vùng đồng bằng sông nước của An Giang có thể được kể đến là việc nuôi cá lồng bè và hiện tượng cá chết hàng loạt trên các khúc sông đã được phương tiện thông tin và truyền thông nhiều lần đăng tải, gây nên quá trình ô nhiễm môi trường nước rất đáng được báo động. 545 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH Cá chết hàng loạt trên đoạn sông Cái Vừng thuộc khu vực 3 xã Long Hòa, Phú Lâm và Phú Thạnh thuộc huyện Phú Tân của An Giang Thực trạng này đã được Chi cục Thủy sản tỉnh An Giang khuyến cáo, người nuôi di dời các lồng bè nuôi ra khỏi khu vực bị ảnh hưởng, tăng cường sục khí tạo ô-xy, quạt bè tạo dòng chảy hoặc cung cấp ô-xy viên tức thời cho các bè có hiện tượng thiếu ô-xy cục bộ. Những hộ nuôi cá lân cận cũng nên tiến hành sang thưa, giảm mật số cá để bảo vệ đàn cá của mình. Với các loại cá đã chết, người nuôi cá cần trục vớt, xử lý, không được đổ cá chết ra sông làm ô nhiễm môi trường nước5 Đó là điển hình một số trường hợp gây nên hiện tượng ô nhiễm môi trường trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn ở An Giang. Vì lẽ đó, các giải pháp cần được đặt ra trong thời gian tới nhằm giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường mà các ngành, các cấp, cơ quan chức năng và người dân cần quan tâm thực hiện, trong đó, sự gắn kết giữa hành lang pháp lý trong thực tiễn bảo vệ môi trường luôn được chú trọng đề cao. 4. Giải pháp bảo vệ môi trường trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn ở An Giang. Để ngăn chặn, khắc phục và xử lý có hiệu quả những hành vi gây ô nhiễm môi trường, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp chủ yếu sau: Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về môi trường trong toàn xã hội nhằm tạo sự chuyển biến và nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật bảo vệ môi trường, trách nhiệm xã hội của người dân, doanh nghiệp trong việc gìn giữ và bảo vệ môi trường; xây dựng ý thức sinh thái, làm cho mọi người nhận thức một cách tự giác về vị trí, vai trò, mối quan hệ mật thiết giữa tự nhiên, con người và xã hội. 546 Hai là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường, trong đó những chế tài xử phạt phải thực sự đủ mạnh để đủ sức răn đe các đối tượng vi phạm. Bên cạnh đó, cần xây dựng đồng bộ hệ thống quản lý môi trường trong các nhà máy, các khu công nghiệp theo các tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời tổ chức giám sát chặt chẽ nhằm hướng tới một môi trường tốt đẹp và thân thiện hơn với con người. Ba là, tăng cường công tác nắm tình hình, thanh tra, kiểm tra, giám sát về môi trường (thường xuyên, định kỳ, đột xuất); phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chuyên môn, nhất là giữa lực lượng thanh tra môi trường với lực lượng cảnh sát môi trường các cấp, nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời, triệt để những hành vi gây ô nhiễm môi trường của các tổ chức, cá nhân. Đồng thời, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác môi trường; trang bị các phương tiện kỹ thuật hiện đại để phục vụ có hiệu quả hoạt động của các lực lượng này. Bốn là, chú trọng công tác quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp, các làng nghề, các đô thị, đảm bảo tính khoa học cao, trên cơ sở tính toán kỹ lưỡng, toàn diện các xu thế phát triển, từ đó có chính sách phù hợp; tránh tình trạng quy hoạch tràn lan, thiếu đồng bộ, chồng chéo như ở nhiều địa phương thời gian vừa qua, gây khó khăn cho công tác quản lý nói chung, quản lý môi trường nói riêng. Đối với các khu công nghiệp, cần có quy định bắt buộc các công ty đầu tư hạ tầng phải xây dựng hệ thống thu gom, xử lý nước thải tập trung hoàn chỉnh mới được phép hoạt động, đồng thời thường xuyên có báo cáo định kỳ về hoạt động xử lý nước thải, rác thải tại đó. Năm là, tổ chức thực hiện nghiêm túc việc thẩm định, đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư, trên cơ sở đó, cơ quan chuyên môn tham mưu chính xác cho cấp có thẩm quyền xem xét quyết định việc cấp hay không cấp giấy phép đầu tư. Việc quyết định các dự án đầu tư cần được cân nhắc kỹ lưỡng giữa lợi ích đem lại trước mắt với những ảnh hưởng của nó đến môi trường về lâu dài. Thực hiện công khai, minh bạch các quy hoạch, các dự án đầu tư và tạo điều kiện để mọi tổ chức và công dân có thể tham gia phản biện xã hội về tác động môi trường của những quy hoạch và dự án đó.6 Sáu là, chính quyền địa phương cần thường xuyên kiểm tra, rà soát các đối tượng phải lập cam kết bảo vệ môi trường trong lĩnh vực chăn nuôi có đảm bảo thực hiện nghiêm túc hay chưa để kịp thời chấn chỉnh và xửa lý thích hợp. 547 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH Từ đó, phảt thuy tinh thần thượng tôn pháp luật trong ý thức bào vệ môi trường của quần chúng nhân dân, đặc biệt là ở khu vực nông thôn ngày càng được nâng cao. Bảy là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về môi trường trong toàn xã hội nhằm tạo sự chuyển biến và nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật; BVMT, trách nhiệm xã hội của người dân, doanh nghiệp trong việc gìn giữ và BVMT; xây dựng ý thức sinh thái, làm cho mọi người nhận thức một cách tự giác về vị trí, vai trò, mối quan hệ mật thiết giữa tự nhiên - con người - xã hội. Đi đôi với công tác tuyên truyền, giáo dục cần tăng cường hơn nữa vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước về vấn đề này trên các địa bàn nông thôn, như các cấp chính quyền địa phương, các cơ quan quản lý và BVMT, các cơ sở y tế, các tổ chức đoàn thể có liên quan để đảm bảo cho công tác tuyên truyền, giáo dục và thực thi các biện pháp BVMT, bảo vệ và nâng cao sức khỏe, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông thôn có hiệu quả hơn. Tóm lại, để giảm thiểu những tác động xấu của ô nhiễm môi trường đến sức khỏe của người dân nông thôn hiện nay cần thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ từ cơ chế, chính sách, nguồn tài chính hỗ trợ đến công tác tuyên truyền cho người dân về ý thức bảo vệ chính môi trường mình đang sinh sống. Về lâu dài, cần có các giải pháp về kiểm tra, kiểm soát môi trường chặt chẽ, trong đó cần quan tâm hơn đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý môi trường tại các khu vực nông thôn hiện nay.7 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sở Tài nguyên và Môi trường An Giang, Báo cáo tỉnh An Giang 5 năm giai đoạn 2005-2009. 2. Luật Bảo vệ môi trường năm 2014- Điều 5, 6,7. 3. Nguyễn Duy Hiển, “An Giang phát triển nông nghiệp bền vững ứng phó với biến đổi khí hậu”, Báo điện tử Quân Đội nhân dân, 07-01-2018. 4. Xoa Nguyễn, “Xử lý tình trạng cá chết hàng loạt ở An Giang”, Sunflower và Tiếp Thị Gia Đình, 12/02/2016. 5. TPH, “Ô nhiễm môi trường- vấn đề cần quan tâm giải quyết”, www.angiang.gov.vn. 6. Phạm Công Nhất, “Ô nhiễm môi trường nông thôn và giải pháp khắc phục”, Đại học Quốc gia Hà Nội, Tạp chí Môi trường, số 5/2014.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf43_2749_2207260.pdf
Tài liệu liên quan