Tài liệu Vận động hội thoại trong thi vấn đáp tốt nghiệp ở trường Sĩ quan lục quân 1 - Nguyễn Thị Dung: 109KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
TRAO ĐỔI v
NGUYỄN THỊ DUNG*
*Trường Sĩ quan Lục quân 1, ngoctoan175@gmail.com
Ngày nhận bài: 05/11/2018; ngày sửa chữa: 27/02/2019; ngày duyệt đăng: 28/02/2019
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Giao tiếp (communication) là sự tiếp xúc giữa
các cá thể trong một cộng đồng để truyền đạt một
thông tin nào đó. Xã hội loài người có thể giao tiếp
với nhau bằng nhiều phương tiện, trong đó, ngôn
ngữ (bao gồm cả ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết)
là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất. Giao tiếp
bằng ngôn ngữ là đối tượng thu hút sự chú ý của
các nhà nghiên cứu với những mối quan tâm khác
nhau. Berge cho rằng: “Hiểu theo cách đơn giản và
chung nhất, giao tiếp là quá trình thông tin diễn ra
giữa ít nhất hai người giao tiếp trao đổi với nhau,
gắn với một ngữ cảnh và một tình huống nhất định.
Cách định nghĩa này phù hợp với các cuộc trao
VẬN ĐỘNG HỘI THOẠI
TRONG THI VẤN ĐÁP TỐT NGHIỆP
Ở TRƯỜNG SĨ QUAN LỤC QUÂN 1
TÓM TẮT
Trong phạm vi bài...
8 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 427 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vận động hội thoại trong thi vấn đáp tốt nghiệp ở trường Sĩ quan lục quân 1 - Nguyễn Thị Dung, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
109KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
TRAO ĐỔI v
NGUYỄN THỊ DUNG*
*Trường Sĩ quan Lục quân 1, ngoctoan175@gmail.com
Ngày nhận bài: 05/11/2018; ngày sửa chữa: 27/02/2019; ngày duyệt đăng: 28/02/2019
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Giao tiếp (communication) là sự tiếp xúc giữa
các cá thể trong một cộng đồng để truyền đạt một
thông tin nào đó. Xã hội loài người có thể giao tiếp
với nhau bằng nhiều phương tiện, trong đó, ngôn
ngữ (bao gồm cả ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết)
là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất. Giao tiếp
bằng ngôn ngữ là đối tượng thu hút sự chú ý của
các nhà nghiên cứu với những mối quan tâm khác
nhau. Berge cho rằng: “Hiểu theo cách đơn giản và
chung nhất, giao tiếp là quá trình thông tin diễn ra
giữa ít nhất hai người giao tiếp trao đổi với nhau,
gắn với một ngữ cảnh và một tình huống nhất định.
Cách định nghĩa này phù hợp với các cuộc trao
VẬN ĐỘNG HỘI THOẠI
TRONG THI VẤN ĐÁP TỐT NGHIỆP
Ở TRƯỜNG SĨ QUAN LỤC QUÂN 1
TÓM TẮT
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi bước đầu phân tích, miêu tả một vài đặc điểm riêng, khác
biệt khá thú vị của vận động hội thoại trong thi vấn đáp tốt nghiệp ở trường Sĩ quan Lục quân 1.
Dựa vào nguồn ngữ liệu khảo sát 50 hội thoại của giảng viên và học viên trong thi vấn đáp tốt
nghiệp, chúng tôi nhận thấy những điểm riêng, khác biệt trong hội thoại ấy giúp giảng viên và học
viên đạt được mục đích giao tiếp mà cả hai cùng hướng tới. Điều đó cho thấy rằng, hội thoại thi
vấn đáp tốt nghiệp ở Trường Sĩ quan Lục quân 1 mang đặc điểm hành chính Quân sự. Tính trường
quy trong hội thoại thi vấn đáp tốt nghiệp thể hiện ở việc giảng viên và học viên trong hoạt động
giao tiếp sử dụng lớp từ ngữ, thuật ngữ quân sự. Điều này phù hợp Quy định “Điều lệnh Quản lý
Bộ đội Quân đội Nhân dân Việt Nam (2011)” cũng như “Quy chế Giáo dục - Đào tạo Trường Sĩ
quan Lục quân 1 (2016)”.
Từ khóa: giảng viên, giao tiếp, học viên, hội thoại, thi vấn đáp, vận động
đổi bằng lời trong cuộc sống thường nhật của con
người, do đó nó liên quan đến xã hội học” (Dẫn
theo Nguyễn Thị Tố Ninh, 2004, tr.18) . Hay quan
điểm khác cho rằng giao tiếp là: “Sự trao đổi tư
tưởng, thông tin,.. giữa hai hoặc hơn hai người.
Trong mỗi hành động giao tiếp thường có ít nhất
một người nói hoặc người gửi một thông điệp
được truyền đạt đến một người hoặc nhiều người
tiếp nhận” (Nguyễn Thiện Giáp, 2010, tr.195).
Kế thừa quan điểm của các tác giả đi trước,
chúng tôi tiếp cận vấn đề theo hướng nghiên cứu
miêu tả, phân tích dựa vào nguồn ngữ liệu là 50
cuộc thoại trong thi vấn đáp tốt nghiệp (VĐTN),
bằng phương pháp phân tích diễn ngôn, phân tích
110 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
v TRAO ĐỔI
hội thoại để từ đó bước đầu rút ra đặc điểm riêng,
khác biệt của vận động hội thoại thi VĐTN tại
trường Sĩ quan Lục quân 1.
2. VẬN ĐỘNG HỘI THOẠI
Vận động hội thoại trong bất cứ cuộc hội thoại
nào cũng có ba vận động chủ yếu, đó là trao lời,
trao đáp và tương tác.
2.1. Sự trao lời
Sự trao lời (allocution): “Chuỗi đơn vị ngôn
ngữ được nhân vật hội thoại nói ra, kể từ lúc bắt
đầu đến lúc chấm dứt để cho nhân vật hội thoại kia
nói chuỗi của mình là một lượt lời (turn at talk),
chúng ta đã dùng ký hiệu SP để chỉ người tham
gia vào hội thoại, SP1 là vai nói, SP2 là vai nghe,
SP1, SP2 và SPn là các đối tác hội thoại” (Đỗ Hữu
Châu, 2007, tr.205).
Hoạt động trao lời trong hội thoại thi VĐTN ở
trường Sĩ quan Lục quân 1 diễn ra khi giảng viên
(GV) nói lượt lời của mình ra và hướng lượt lời
ấy về phía học viên (HV) nhằm mục đích cho HV
nhận biết lượt lời được nói ra đó của GV là dành
cho HV: Theo quan điểm của Đỗ Hữu Châu (2007,
tr.205-206): “Trong một song thoại, vấn đề xác
định SP2 không đặt ra bởi vì chỉ có một người nói
và một người nghe. Nhưng đối với những cuộc đa
thoại thì vận động trao lời có khi hướng vào toàn
thể người nghe trong cuộc hội thoại, nhưng cũng
có khi chỉ nhằm vào một (hoặc một số) người trong
toàn bộ người nghe đương trường (chúng tôi phân
biệt đương trường với đương diện: đương diện có
nghĩa là đang có mặt còn đương trường có nghĩa
là đang tham gia vào hội thoại dù không có mặt)”.
Các thoại nhân khi tham gia hội thoại thi VĐTN
100% đương diện (phân biệt đương trường thoại
nhân không có mặt nhưng vẫn tham gia hội thoại
còn đương diện thoại nhân có mặt khi tham gia
hội thoại).
GV trong hỏi thi VĐTN thường đứng nghiêm
ở vị trí quy định với tư cách là Trưởng ban hoặc Ủy
viên coi chấm thi gọi HV: ví dụ, GV gọi: “Đồng
chí Chu Thế Cư”. Khi nghe GV gọi tên mình, HV
trả lời: “Có”, tiếp đến GV ra mệnh lệnh cho HV:
“Vào vị trí nhận câu hỏi”, HV trả lời: “Rõ”
Để thực hiện mệnh lệnh của GV ngay tức thì,
HV đi đều hoặc chạy đều vào vị trí, đứng nghiêm
thực hiện động tác chào – báo cáo với GV theo
quy định của “Điều lệnh” và nói “Tôi Chu Thế Cư,
học viên tiểu đội 3, trung đội 10, báo cáo đồng chí
trưởng tiểu ban coi chấm thi, tôi có mặt bốc câu
hỏi. Hết”. Trong ngữ cảnh giao tiếp ở trên GV thực
hiện động tác chào theo “Điều lệnh” với HV và
nói: “Đồng chí vào bốc câu hỏi”.
Ngoài dấu hiệu kèm lời như trên, HV ở vai
người nghe, thực hiện mệnh lệnh, trả lời câu hỏi
của GV chứng minh rằng GV và HV đương diện
thực hiện hoạt động giao tiếp. Đồng thời GV, HV
có mặt trong lượt lời SP1, SP2 qua những yếu tố
ngôn ngữ tường minh như những lời hô gọi, chỉ
định, những yếu tố hàm ẩn như những tiền giả định
trong giao tiếp, những hiểu biết mà GV và HV đã
có chung, sự hứng thú đối với đề tài, tâm lý giao
tiếp mà GV và HV nhận biết được trước khi trao lời.
HV trong thi VĐTN ở vai người nghe trước
khi đáp lời, nghĩa là thực hiện sự trao lời của mình
với GV thì HV được đưa vào lượt lời của GV giúp
cho GV thường xuyên kiểm tra và điều hành sự
trao lời của HV.
2.2. Sự trao đáp
Diễn ngôn là sản phẩm của các hành vi ngôn
ngữ. Sự trao đáp (exchange) hay còn gọi là sự hồi
đáp là SP2 sử dụng các hành vi ngôn ngữ tương
thích với hành vi dẫn nhập tạo thành cặp như chào-
báo cáo; chào-chào; hỏi-trả lời; cầu khiến-nhận
lời/từ chối; cảm ơn-đáp lời; xin lỗi-đáp lời Cũng
có thể hành vi hồi đáp được thực hiện bằng những
hành vi bất kỳ, không tương thích với hành vi dẫn
nhập. Ngay cả với những hành vi tự thân không
đòi hỏi sự hồi đáp như hành vi cảm thán hay khảo
nghiệm vẫn cần được hồi đáp. Thực tế giao tiếp
cảm thán là hành vi SP1 bộc lộ một cách tự phát
một cảm xúc mạnh mẽ trong tâm trạng của họ. Vì
thế, hành vi cảm thán thường vì mình hơn là vì
111KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
TRAO ĐỔI v
người đối thoại với mình. Ví dụ, chị B nhìn thấy cô
hoa hậu X, chị B thốt lên: “Cô ấy xinh đẹp quá!”.
Trong tình huống ấy chị B cũng muốn được SP2
chia sẻ cảm xúc với chị. Còn mỗi lời khảo nghiệm
vốn ngầm ẩn một câu hỏi đặt ra cho SP2, câu hỏi
hỏi ý kiến của SP2 về độ tin cậy, về tính hấp dẫn,
tầm quan trọng của nội dung khảo nghiệm. Theo
cách nói của Baktine thì: “Không có gì đáng sợ
bằng sự thiếu vắng lời hồi đáp” (Dẫn theo Đỗ
Hữu Châu, 2007, tr.208). Khảo sát 50 cuộc thoại
thi VĐTN tại Trường Sĩ quan Lục quân 1 cho kết
quả 100% hành vi ngôn ngữ của SP1 đều được
SP2 hồi đáp.
Ví dụ: Đoạn thoại mở thoại:
GV: Đồng chí Vũ Văn Phong!
HV: Có!
GV: Vào vị trí nhận câu hỏi!
HV: Rõ!
HV: Tôi Vũ Văn Phong, báo cáo đồng chí
giảng viên, tôi có mặt để bốc câu hỏi.
GV: Đồng chí vào vị trí bốc câu hỏ!.
HV: Rõ!
GV: Đồng chí nhận được phiếu số mấy?
HV: Báo cáo, tôi nhận được phiếu số 15.
GV: Đồng chí nghiên cứu câu hỏi trả lời được
không?
HV: Báo cáo, tôi trả lời được.
GV: Đồng chí ra vị trí chuẩn bị thời gian 10
phút, khi nào có lệnh gọi, đồng chí vào vị trí trả
lời câu hỏi.
HV: Rõ!
Hội thoại thi VĐTN được bắt đầu khi HV nói
lượt lời đáp lại lượt lời của GV. Vận động trao
đáp là cốt lõi của hội thoại nó diễn ra liên tục, lúc
nhịp nhàng, lúc khúc mắc, lúc nhanh, lúc chậm
với sự thay đổi liên tục vai nghe, vai nói. Trong
thi VĐTN, sự đáp lời của GV hay HV được thực
hiện bằng sự đồng hành của hai yếu tố có lời và
kèm lời.
Vị trí chuyển giao lượt lời của các đối tác,
nghĩa là chỗ mà người đang nói (current speaker)
ngừng, nhường lời cho người sau mình nói (next
speaker) được gọi là vị trí chuyển giao quan yếu
(transition releance place, viết tắt là TRP).
Sự liên hòa phối giữa các lượt lời của GV và
HV cuộc thoại thi VĐTN có dấu hiệu hình thức là
liên hòa phối các chỗ ngừng. 50 cuộc thoại trong
thi VĐTN về cơ bản là những cuộc hội thoại liên
hòa phối lượt lời tốt, bởi lẽ các hội thoại ấy chỗ
ngừng có thời lượng bình thường.
Ví dụ: Đoạn thoại thân thoại:
GV: Đồng chí Vũ Phong vào vị trí trả lời câu hỏi!
HV: Rõ!
HV: Tôi xin phép trả lời câu hỏi 1 như sau:
Động tác đi đều đứng lại:
* Ý nghĩa: Thực hiện khi di chuyển đội hình,
di chuyển vị trí, có trật tự biểu hiện sự thống nhất,
hùng mạnh, trang nghiêm của Quân đội.
* Động tác: nghe điều lệnh bước làm 2 cử động.
+ Cử động 1: chân trái bước lên cách chân
phải 75cm, đặt gót chân rồi đặt cả bàn chân xuống
đất, sức nặng toàn thân dồn vào chân trái
+ Cử động 2: chân phải bước lên cách chân
trái 75cm, tay trái đánh ra phía trước như tay
phải, tay phải đánh ra phía sau như tay trái.
GV: Được. Đồng chí nghe tôi hỏi thêm? Khi đi
đều tốc độ đi thẳng bao nhiêu bước trong 1 phút?
HV: Tôi xin phép trả lời vấn đề đồng chí nêu ra
như sau: Động tác đi đều tốc độ đi bằng 106 bước
trong 1 phút.
112 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
v TRAO ĐỔI
GV: Đồng chí trả lời xong câu hỏi, đồng chí ra
ngoài chờ tiểu ban hội ý.
HV: Rõ!
Trong hội thoại thi VĐTN, các thoại nhân
chuyển giao lượt lời cho nhau một cách nhịp
nhàng. GV hay HV trong hội thoại thi VĐTN dù
ai là người nói trước luôn dự đoán rằng người nói
sau sẽ nhận ra chỗ ngừng, tức là TRP mà mình sắp
thực hiện còn người nói sau – người nghe phải
đoán được trước chỗ kết thúc của lượt lời mà mình
đang nghe, nghĩa là qua lượt lời SP1 sẽ nhận ra
khi nào TRP sẽ xuất hiện. Có như vậy, người nói
sau mới nói được lượt lời của mình chỉ sau 5/10s
hoặc 3/10s, có khi nhanh hơn nữa khi người nói
vừa ngừng lời. Để xác định TRP trong hội thoại thi
VĐTN tại Trường Sĩ quan Lục quân 1, chúng ta
dựa vào các nhân tố sau đây:
Kiểu hội thoại
Về cơ bản mỗi kiểu hội thoại có cách ngừng
lời riêng.Ví dụ: Kiểu hội thoại “thuận mua – vừa
bán” ở chợ khác với kiểu hội thoại “mua – bán”
trong trung tâm thương mại hay siêu thị nhỏ, vừa.
Kiểu hội thoại thi VĐTN đặc trưng hội thoại sư
phạm, nó có cách ngừng lời khác với kiểu hội
thoại tham luận,
Cấu trúc của hội thoại
Cấu trúc của 50 cuộc thoại thi VĐTN ở trường
Sĩ quan Lục quân 1 được xét đến bao gồm: đoạn
thoại, cặp thoại và tham thoại. Cuộc thoại là đơn
vị hội thoại lớn nhất. Đó là cuộc tương tác bằng
lời, tính từ khi các thoại nhân (GV và HV) gặp
nhau, khởi đầu nói và nghe cho đến khi kết thúc
quá trình này. Trong thi VĐTN các thoại nhân có
thể thay đổi nhiều vấn đề khác nhau, nhưng bao
giờ cũng có mở đầu và kết thúc, đó chính là ranh
giới của cuộc thoại. Thời điểm bắt đầu được gọi là
“mở thoại” và thời điểm kết thúc được gọi là “kết
thoại”. Phần trung tâm cuộc thoại gọi là “thân
thoại”. Nhìn chung, các cuộc thoại thi VĐTN ở
trường Sĩ quan Lục quân 1 đáp ứng được các yêu
cầu về lý thuyết “Hội thoại”.
Ví dụ: Đoạn thoại kết thoại:
GV: Đồng chí Vũ Văn Phong vào vị trí nghe
nhận xét và công bố điểm.
HV: Rõ!
GV: Qua phần trình bày của đồng chí, thay
mặt tiểu ban tôi nhận xét như sau: Vừa rồi đồng
chí trả lời được câu hỏi khẩu khí to, rõ; tác phong
dứt khoát; nội dung trả lời đầy đủ; động tác tương
đối chính xác. Tồn tại: Khi phân tích giữa nói và
làm chưa kết hợp chính xác. Kết luận: Đồng chí
đạt 7,0 điểm. Vừa rồi là kết quả thi của đồng chí,
đồng chí có ý kiến gì không?
HV: Báo cáo, tôi không có ý kiến gì.
GV: Đồng chí ký vào biên bản thi!
HV: Rõ!
GV: Đồng chí đã hoàn thành nhiệm vụ.
HV: Báo cáo đồng chí trưởng tiểu ban, tôi đã
hoàn thành xong nhiệm vụ thi. Hết.
GV: Đồng chí về vị trí nghỉ ngơi!
HV: Rõ!
Cấu trúc lượt lời
Cấu trúc lượt lời hay còn gọi là cấu trúc ngữ vi
quyết định bản chất của lượt lời. Ví dụ, lượt lời do
GV hỏi HV: “Đồng chí nghiên cứu câu hỏi xem có
trả lời được không?”. HV trả lời GV: “Báo cáo tôi
trả lời được”. Quan sát ví dụ trên cho thấy, lượt
lời do HV nói là phát ngôn ngữ vi “cam kết” trong
câu trả lời của HV. Nghe lượt lời có phát ngôn hỏi
làm nòng cốt, người nghe dễ dàng đoán được trước
TRP của nó. Dựa vào cấu trúc phát ngôn ngữ vi tạo
nên lượt lời, SP2 còn dự tính được độ dài lượt lời
phải nói của mình.
Cấu trúc ngữ pháp
Phát ngôn lượt lời phải được tạo ra theo một
kiểu cấu trúc ngữ pháp nào đó. Mà cấu trúc ngữ
pháp thì có cách mở đầu và kết thúc đặc trưng. Cấu
113KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
TRAO ĐỔI v
trúc ngữ pháp trong phát ngôn lượt lời cuộc thoại
giao tiếp, GV trong thi VĐTN chứa đựng những
tín hiệu trực tiếp TRP trong phát ngôn của SP1
như sau:
- Ánh mắt, vận động cơ thể, cử chỉ,
- Ngữ điệu, âm lượng, cường độ của giọng nói.
- Sự kéo dài một vài âm tiết cuối lượt lời,
Ví dụ, GV hỏi HV: “Trong chiến đấu có phải
bảo đảm an toàn không?”. HV trả lời: “Dạ, thưa
thầy, không ạ”. GV nhắc nhở: “Anh Lê ạ, Tôi chưa
nghe ai nói trong chiến đấu, không phải bảo đảm
an toàn cả”. HV phân trần: “Dạ, thưa thầy, em
nhầm ạ”.
Nhờ các tín hiệu dẫn trên ta có thể kết luận sự
chuyển giao lượt lời, tức sự liên hòa phối các lượt
lời được báo trước một cách tối đa và được thực
hiện bởi cả SP1 và SP2.
Ví dụ, GV ra mệnh lệnh: “Đồng chí Nguyễn
Văn Chất vào vị trí trả lời câu hỏi”. HV nhận lệnh
nói: “Rõ”, rồi đi đều hoặc chạy đều vào vị trí qui
định, HV nói “Tôi xin phép trả lời câu hỏi 1 như
sau: Động tác đi đều chuyển thành đi nghiêm,
chào và thôi chào.
- Ý nghĩa: Thực hiện khi duyệt đội ngũ, duyệt
binh, diễu binh để biểu thị phong cách quân nhân
hùng mạnh, trang nghiêm, thống nhất của quân
đội chính quy.
- Động tác: đang đi đều, khi nghe dứt động
lệnh chào, làm hai cử động.
+ Cử động 1: Chân phải bước lên, chân trái
bước lên bước thứ nhất (vẫn đi đều), khi bàn chân
trái vừa chạm đất, mặt đánh lên 15 độ.
+ Cử động 2: Chân phải tiếp tục bước lên,
chân trái bước lên bước thứ 2 chuyển thành đi
nghiêm”. (HV vừa trả lời câu hỏi vừa kết hợp thực
hành động tác).
Thực tế cho thấy, trong hội thoại thi VĐTN,
lời trao của GV thì GV luôn dự tính đến sự hồi đáp
của HV để những chủ đề hỏi thi sao cho HV không
thể phản bác được nếu trường hợp HV muốn phản
bác. Kết quả khảo sát số lượng lời trao – lời đáp 50
cuộc thoại thi VĐTN của GV và HV là 1700 lời (tỷ
lệ 100%) trong đó lượt lời của GV, HV bằng nhau
là 850 lượt lời. (xem bảng 1)
2.3. Sự tương tác
Tương tác (interaction) là kiểu quan hệ xã
hội giữa người với người. Nhà xã hội học người
Mỹ Erving Goffman định nghĩa: “Tương tác có
nghĩa là tác động lại mà những người trong cuộc
gây ra đến hành động của nhau khi họ đối mặt
với nhau” (dẫn theo Đỗ Hữu Châu, 2007, tr.218).
Lời GV Số lượng Tỷ lệ Lời HV Số lượng Tỷ lệ
Gọi 100 5.7 Đáp 100 5.7
Mệnh lệnh 300 17.8 Thực hiện mệnh lệnh 300 17.8
Chào 100 5.8 Chào báo cáo 100 5.8
Hỏi 150 8.8 Trả lời 150 8.8
Yêu cầu 50 3.0 Thực hiện yêu cầu 50 3.0
Nhận báo cáo 100 5.8 Báo cáo 100 5.8
Nhận xét 50 3.0 Nghe nhận xét 50 3.0
Bảng 1: Lời trao – lời đáp trong thi vấn đáp tốt nghiệp
114 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
v TRAO ĐỔI
Theo quan điểm của Đỗ Hữu Châu (2007,
tr.209): “Trong hội thoại, nhân vật hội thoại cũng
là nhân vật liên tương tác (interactants). Họ tác
động lẫn nhau về mọi phương diện, đối với ngữ
dụng học, quan trọng nhất là tác động đến lời nói
(và ngôn ngữ của nhau). Liên tương tác trong hội
thoại trước hết là liên tương tác giữa các lượt lời
của SP1 và SP2 Như thế, lượt lời vừa là cái chịu
tác động vừa là phương tiện mà SP1, SP2 sử dụng
để gây ra tác động đối với lời nói và qua lời nói mà
tác động đến tâm lý, sinh lý, vật lý của nhau”.
Khảo sát hội thoại thi VĐTN ở Trường Sĩ quan
Lục quân 1 cho thấy, hội thoại ở cực điều hòa,
nhịp nhàng, nghĩa là hội thoại có sự hòa phối các
hoạt động giao tiếp giữa GV và HV một cách hoàn
hảo mà trước hết là sự hòa phối lượt lời. Trong thi
VĐTN, quá trình hòa phối GV và HV thực hiện
sự tự hòa phối bằng việc tự mình điều chỉnh hành
động, thái độ lượt lời của mình theo từng bước của
hội thoại, sự điều chỉnh đó phù hợp tình huống mà
hội thoại diễn ra.
Ví dụ:
GV: Đồng chí Nguyễn Văn Bảo!
HV: Có!
GV: Vào vị trí nhận câu hỏi!
HV: Rõ!
HV: Tôi Nguyễn Văn Bảo, học viên tiểu đội 1,
báo cáo đồng chí ủy viên, tôi có mặt nhận câu hỏi.
GV: Đồng chí vào nhận câu hỏi!
HV: Rõ!
GV: Đồng chí nhận được phiếu số mấy?
HV: Báo cáo, tôi nhận được phiếu số 15.
GV: Đồng chí nghiên cứu câu hỏi trả lời được
không?
HV: Báo cáo, tôi trả lời được.
GV: Đồng chí ra vị trí chuẩn bị thời gian 10
phút, khi nào có lệnh gọi, đồng chí vào vị trí trả
lời câu hỏi.
HV: Rõ!
GV: Đồng chí Nguyễn Văn Bảo vào vị trí trả
lời câu hỏi!
HV: Rõ!
HV: Tôi xin phép trả lời câu hỏi 1 như sau:
Động tác dậm chân:
- Ý nghĩa: Để điều chỉnh đội hình trong khi đi
được nhanh chóng và trật tự.
- Động tác: Khi nghe hết động lệnh dậm làm
2 cử động.
+ Cử động 1: Chân trái co lên, mũi chân cách
mặt đất 30cm, rồi đặt xuống, đồng thời tay phải
đánh về trước, tay trái đánh về sau như đi đều.
+ Cử động 2: Chân phải nhấc lên rồi đặt
xuống như chân trái, đồng thời tay trái đánh về
phía trước
GV: Được. Đồng chí nghe tôi hỏi thêm. Khi dậm
chân mũi chân cách mặt đất 30cm hay cả bàn chân?
HV: Tôi xin phép trả lời vấn đề đồng chí nêu ra
như sau: Khi dậm chân, mũi chân cách mặt đất 30cm.
GV: Đồng chí đã trả lời xong câu hỏi, đồng chí
ra ngoài chờ tiểu ban hội ý!
HV: Rõ!
GV: Đồng chí Nguyễn Văn Bảo vào vị trí nghe
nhận xét và công bố điểm!
HV: Rõ!
GV: Qua phần trả lời câu hỏi của đồng chí,
thay mặt tiểu ban tôi nhận xét như sau: Về điểm
mạnh: Đồng chí trả lời khẩu khí to, rõ. Nội dung
trả lời đầy đủ. Kết hợp nói và làm, động tác chính
xác. Động tác chuẩn, đẹp, đều. Về điểm hạn chế:
Khi trả lời động tác đứng nghiêm chưa chính xác.
Kết luận: Đồng chí đạt 7,8 điểm. Vừa rồi là kết
quả thi của đồng chí, đồng chí có ý kiến gì không?
HV: Báo cáo, tôi không có ý kiến gì.
GV: Đồng chí ký vào biên bản thi.
HV: Rõ!
GV: Đồng chí đã hoàn thành nhiệm vụ.
115KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
TRAO ĐỔI v
HV: Báo cáo đồng chí trưởng tiểu ban, tôi đã
hoàn thành xong nhiệm vụ thi. Hết.
GV: Đồng chí về vị trí nghỉ ngơi!
HV: Rõ!
Quá trình tương tác hội thoại thi VĐTN, GV và
HV có sự liên hòa phối (inter – syn – chronisation)
có nghĩa là phối hợp sự tự hòa phối của GV và
HV. Theo Đỗ Hữu Châu (2007, tr.211): “Không
dễ dàng gì nắm bắt và phân loại các tín hiệu phát
ngôn liên hòa phối này, bởi chúng vừa có tính
ngôn ngữ vừa có tính kèm lời, phi lời. Chúng tôi
tạm chia các tín hiệu phát ngôn liên hòa phối các
lượt lời thành hai nhóm. Thứ nhất là nhóm các tín
hiệu điều hành vận động trao đáp, chi phối sự nói
ra các lượt lời của các nhân vật liên tương tác. Thứ
hai là những tín hiệu chi phối sự liên hòa phối các
lượt lời”.
Các tín hiệu điều hành vận động trao lời
Hội thoại thi VĐTN giữ vai trò làm tín hiệu chi
phối phát ngôn là những lời giới thiệu, những nghi
thức tạo lập, duy trì, củng cố quan hệ hội thoại,
chúng thường xuất hiện ở giai đoạn mở đầu các
hội thoại. Quan trọng nhất là những tín hiệu khơi
gợi, kiểm tra sự chú ý của SP2 do SP1 thực hiện,
đó là phát ngôn chi phối sự nói năng được sử dụng
trong vận động hội thoại thi VĐTN. Ví dụ, khi HV
được GV gọi vào vị trí thực hiện nhiệm vụ “thi”,
HV thực hiện động tác chào – báo cáo, giới thiệu
sự có mặt của mình theo mệnh lệnh GV, HV nói:
“Tôi, Nguyễn Văn Hòa, học viên tiểu đội 1 báo
cáo đồng chí ủy viên tôi có mặt nhận câu hỏi”. GV
ra mệnh lệnh: “Đồng chí vào vị trí nhận câu hỏi”,
HV đáp: “Rõ”.
Bảng 2: Tín hiệu điều hành vận động trao -
đáp trong thi VĐTN
Hội thoại thi VĐTN hoạt động tương tác giữa
GV và HV còn sử dụng tín hiệu đưa đẩy và phản
hồi không tách rời nhau, ngược lại chúng phối kết
hợp với nhau chặt chẽ. Ví dụ, sau khi HV trả lời
xong câu hỏi thi bốc thăm được, GV nói với HV:
“Được. Đồng chí nghe tôi hỏi thêm. Khi đi đều
chuyển thành đi nghiêm chào, mặt đánh sang phải
(trái) bằng bao nhiêu độ”. HV đáp: “Tôi xin phép
trả lời vấn đề đồng chí nêu ra như sau: Khi đi đều
chuyển thành đi nghiêm chào, mặt đánh sang phải
(trái) bằng 45 độ”.
Tín hiệu chi phối sự liên hòa phối lượt lời
Hội thoại thi VĐTN lời nói thường ngắt hơi
giữa chừng, đó chính là chỗ ngừng. Chỗ ngừng
được thể hiện bằng trường độ im lặng. Sự liên hòa
phối giữa lượt lời GV hay HV có dấu hiệu hình
thức là liên hòa phối chỗ ngừng.
Ví dụ, Sau khi HV trả lời xong câu hỏi, GV ra
mệnh lệnh: “Đồng chí về vị trí nghỉ ngơi!” (ngừng
2 giây). HV nhận lệnh nói: “Rõ”. Hành động kèm
lời của HV là HV chạy đều hoặc đi đều về vị trí
theo quy định.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy, trong hội thoại
thi VĐTN ở trường Sĩ quan Lục quân 1, sự tương
tác giữa GV và HV là tương tác có chủ đích, chúng
thỏa mãn quyền lợi, mang lại lợi ích chung mà các
thoại nhân hướng đến. Ví dụ, nghe xong phần trả
lời câu hỏi của HV, GV nhận xét: “Qua phần trả
lời câu hỏi của đồng chí, thay mặt tiểu ban tôi
nhận xét như sau:
Về điểm mạnh: nội dung trả lời cơ bản đầy đủ,
động tác chuẩn xác, kết hợp nói và làm tương đối tốt.
Về điểm hạn chế: khi trả lời tác phong đứng
nghiêm còn hạn chế, thực hiện động tác còn chạy
cả bàn chân. Kết luận đồng chí đạt 7,6 điểm. Vừa
rồi là kết quả thi của đồng chí, đồng chí có ý kiến
gì không?”. Nghe GV nhận xét xong HV trả lời
GV: “Báo cáo tôi không có ý kiến gì”.
Như vậy, bằng vận động trao lời, đáp lời, GV
và HV trong hội thoại thi VĐTN đã tự hòa phối
116 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
v TRAO ĐỔI
để thực hiện sự liên hòa phối đây là điểm cốt lõi
của vận động tương tác. Sự liên hòa phối khiến
cho một cuộc thoại thi VĐTN là một hoạt động
giao tiếp đặc biệt thú vị của GV và HV trong thực
hiện nhiệm vụ thi tốt nghiệp tại Trường Sĩ quan
Lục quân 1. Điều này phù hợp với cách nói của
Drechioni C.K. (1985) “Hội thoại là một vũ điệu
giữa những nhân vật tương tác” (Dẫn theo Đỗ Hữu
Châu, 2007, tr.220).
3. KẾT LUẬN
Trao lời, đáp lời, tương tác là ba vận động đặc
trưng cho hội thoại, trong đó, vận động trao lời,
trao đáp do các thoại nhân tham gia hội thoại thực
hiện nhằm phối hợp với nhau thành vận động thứ
ba tương tác. “Bởi lẽ tương tác là tác động chủ
yếu trong hội thoại. Vì vậy ngữ dụng học hội thoại
còn gọi là ngữ dụng học tương tác và lý thuyết hội
thoại còn được gọi là ngôn ngữ học tương tác. Quy
tắc, cấu trúc và chức năng trong hội thoại đều do
ba vận động trên chủ yếu là từ vận động tương tác
mà có” (Đỗ Hữu Châu, 2007, tr.220).
Kết quả khảo sát 50 hội thoại thi VĐTN tại
trường Sĩ quan Lục quân 1 thực hiện ba vận động
đặc trưng của hội thoại đó là: vận động trao lời,
trao đáp và tương tác. Vận động trao lời, trao đáp
do GV và HV thực hiện trong thi VĐTN nhằm
phối hợp với nhau thành vận động tương tác./.
Tài liệu tham khảo:
Brown G., Yule G. (2002), Phân tích diễn ngôn, NXB
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
Đỗ Hữu Châu (2007), Đại cương ngôn ngữ học tập 2,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học ( tập 1 ), NXB
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
Điều lệnh Quản lý Bộ độ Quân đội Nhân dân Việt Nam
(2011).
Nguyễn Thiện Giáp (2010), 777 khái niệm ngôn ngữ
học, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Thị Tố Ninh (2004), “Hàm ý và quan niệm hội
thoại”, Ngữ học trẻ - Diễn đàn học tập và nghiên
cứu, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, tr.18-21.
Quy chế Giáo dục – Đào tạo Trường Sĩ quan Lục quân
1 (2016).
Yule G. (2003), Dụng học, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
CONVERSATIONAL CAMPAIGN IN THE GRADUATION INTERVIEWS
IN THE INFANTRY OFFICER TRAINING COLLEGE NO 1
NGUYEN THI DUNG
Abstract: In this article, we initially analyzed and described some interesting specific
characteristics of the conversational exchanges in the graduation interviews at The Infantry
Officer Training College No 1. Based on the data collected from 50 conversations between
examiners and cadets in the graduation exam, we discovered that these conversational distinctions
played an impotant role in enabling them to achieve their communicative goals. This paper
indicates that conversational exchanges in the graduation interviews were characterized by
military administration. The military tertiary rules in Graduation Conversation are reflected by
communication activities between lecturers/examiners and cadets using military terminology.
This issue is consistent with the regulations “Order of management of the army of the People’s
Army of Vietnam in 2011”, as well as “Education and training regulations of the Infantry Officer
Training College Number 1 in 2016”.
Keywords: conversation, communication, campaign, lecturer, learner, oral examination
Received: 05/11/2018; Revised: 27/02/2019; Accepted for publication: 28/02/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khnnqs_18_3_2019_109_116_nguyen_t_dung_9681_2136265.pdf