Tài liệu Vấn đề nữ quyền trong tiểu thuyết Nguyễn Triệu Luật nhìn từ phương diện nội dung: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 25 (50) - Thaùng 02/2017
108
Vấn đề nữ quyền trong tiểu thuyết Nguyễn Triệu Luật
nhìn từ phương diện nội dung
Feminist issues in Nguyen Trieu Luat’s novels viewed from their content
CN. Bùi Thị Hoàng Phúc
Trường Đại học Sài Gòn
Bui Thi Hoang Phuc, B.A.
Saigon University
Tóm tắt
Trong những năm qua, phê bình nữ quyền đã được vận dụng vào việc nghiên cứu văn học ở Việt Nam
và thu được những thành quả bước đầu. Cho đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu về thế giới
nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Triệu Luật nhưng chưa có công trình nào tập trung đi sâu khảo sát hệ
thống nhân vật người phụ nữ và vấn đề nữ quyền trong tiểu thuyết của nhà văn. Bài báo với mong muốn
dưới góc nhìn phê bình nữ quyền tìm hiểu nội dung tư tưởng của Nguyễn Triệu Luật khi thể hiện những
vấn đề nữ quyền trong các tiểu thuyết của nhà văn, góp phần vào việc đánh giá những đóng góp của nhà
văn đối với một vấn đề có ý nghĩa xã hội.
Từ kh...
8 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 661 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vấn đề nữ quyền trong tiểu thuyết Nguyễn Triệu Luật nhìn từ phương diện nội dung, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 25 (50) - Thaùng 02/2017
108
Vấn đề nữ quyền trong tiểu thuyết Nguyễn Triệu Luật
nhìn từ phương diện nội dung
Feminist issues in Nguyen Trieu Luat’s novels viewed from their content
CN. Bùi Thị Hoàng Phúc
Trường Đại học Sài Gòn
Bui Thi Hoang Phuc, B.A.
Saigon University
Tóm tắt
Trong những năm qua, phê bình nữ quyền đã được vận dụng vào việc nghiên cứu văn học ở Việt Nam
và thu được những thành quả bước đầu. Cho đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu về thế giới
nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Triệu Luật nhưng chưa có công trình nào tập trung đi sâu khảo sát hệ
thống nhân vật người phụ nữ và vấn đề nữ quyền trong tiểu thuyết của nhà văn. Bài báo với mong muốn
dưới góc nhìn phê bình nữ quyền tìm hiểu nội dung tư tưởng của Nguyễn Triệu Luật khi thể hiện những
vấn đề nữ quyền trong các tiểu thuyết của nhà văn, góp phần vào việc đánh giá những đóng góp của nhà
văn đối với một vấn đề có ý nghĩa xã hội.
Từ khóa: Nguyễn Triệu Luật, nữ quyền, phê bình nữ quyền, tiểu thuyết, tiểu thuyết lịch sử.
Abstract
Feminism being adapted to literary criticism in Vietnam has gained some achievements in recent years.
Novels by writer Nguyen Trieu Luat have drawn much attention from readers and critiques, but the
female characters and issues of feminism in his novels have not received any comprehensive analysis so
far. This article, from the view of feminist criticism, studies Nguyen Trieu Luat’ thought concerning
feminist issues, which helps to evaluate his contribution as a writer to social issues.
Keywords: Nguyen Trieu Luat, feminism, feminist literary criticism, novel, historical novel.
1. Lí thuyết nữ quyền và các vấn đề
nữ quyền trong văn học Việt Nam
1.1. Vấn đề nữ quyền và phê bình
nữ quyền
1.1.1. Vấn đề nữ quyền
Nói đến vấn đề nữ quyền, không thể
nói đâu khác ngoài cái nôi của phong trào
này – Pháp và ba làn sóng thể hiện sự
hình thành cho đến phát triển mạnh mẽ
của những người phụ nữ tiêu biểu nơi
đây. Cụ thể:
Làn sóng thứ nhất là từ thế kỉ XVIII
đến nửa đầu thế kỉ XX được xem như giai
đoạn của nữ quyền khởi thủy với mục đích
tôn chỉ “bình đẳng giới trên các phương
diện: chính trị, xã hội và hôn nhân gia
đình” [6, tr.19-20]. Tên tuổi tiêu biểu cho
làn sóng này là nhà nữ quyền Marie-
Olympe de Rouges – tác giả của Bản tuyên
ngôn về quyền của phụ nữ và công dân,
được xem là bản tuyên ngôn về nhân quyền
của phụ nữ.
BÙI THỊ HOÀNG PHÚC
109
Làn sóng thứ hai là những thập niên 60
– 70 giữa thế kỉ XX “hướng cuộc đấu tranh
vào những phương diện cá nhân của phụ
nữ như: quyền thân thể, vấn đề tình dục,
sinh sản, nạo thai” [6, tr.30]. Nổi bật nhất
phải kể đến là tác giả của tác phẩm được
xem như bản tuyên ngôn nữ quyền – Giới
thứ hai – Simone de Beauvoir.
Làn sóng thứ ba là quá trình diễn ra từ
đầu những năm 80 cho đến nay. Những tên
tuổi hoạt động vì quyền lợi của phụ nữ
xuất hiện ngày càng nhiều và hoạt động sôi
nổi trong hầu hết lĩnh vực mà họ tham gia
như: nhà nữ quyền Hélène Cixous – tác giả
cuốn Tiếng cười của nàng Méduse, nhà phê
bình nữ quyền Julia Kristeva với tác phẩm
Nữ thiên tài...
Nhìn chung, tinh thần cốt lõi của
phong trào nữ quyền chính là “tinh thần
hiện sinh và chịu trách nhiệm hiện sinh của
nhân loại nói chung và phụ nữ nói riêng là
vấn đề đáng lưu tâm nhất: dám sống, dấn
thân, nhưng phải chịu trách nhiệm về hành
động của mình trước xã hội” [6, tr.45].
Phong trào tại Pháp lan tỏa, phụ nữ trên
toàn thế giới như tìm được tiếng nói chung
dù có sự khác biệt về văn hóa; tất cả cộng
hưởng, góp phần đẩy phong trào lên một
tầm cao mới, mạnh mẽ hơn, sâu rộng hơn,
ý nghĩa hơn, tất cả đều hướng đến quyền tự
do hạnh phúc của phụ nữ trên toàn thế giới
nói riêng và con người nói chung.
1.1.2. Trường phái phê bình văn học
nữ quyền
Vào những năm 60, theo quan niệm
của Simone de Beauvoir về một trong ba
phương diện phụ nữ được quyền hoạt
đồng là văn học thì sáng tạo nghệ thuật
vẫn có thể là của phụ nữ nếu họ có đam
mê sáng tạo nghệ thuật. Riêng “Phê bình
nữ quyền là một hướng nghiên cứu mở,
cho phép chúng ta kết hợp các khuynh
hướng nghiên cứu khác như: Trần thuật
học nữ quyền, phân tâm học nữ quyền, nữ
quyền hậu thuộc địa. Sự kết hợp này sẽ
mở ra những biên độ khác nhau cho việc
nghiên cứu nữ quyền trong văn học”
[6, tr.272]. Trên thế giới, tiêu biểu nhất là
hai trường phái phê bình văn học: phê
bình văn học nữ quyền Pháp và phê bình
văn học nữ quyền Anh – Mĩ.
1.2. Vấn đề nữ quyền trong văn học
Việt Nam
1.2.1. Nữ quyền trong văn học truyền thống
Trong văn học dân gian, đặc biệt trong
tình cảm, nữ quyền nếu có chỉ dừng ở mức
độ những tâm tư, tình cảm buồn, nhớ,
thương, đợi chờ của thân phận người phụ
nữ, thường ít khi táo bạo như nam giới mà
ý nhị và đôi khi là giấu ngôi. Tuy nhiên,
đôi khi, vẫn có những trường hợp cá biệt,
người con gái thể hiện rất mạnh mẽ sự
quyết tâm của mình trong tình cảm, một
điều mà ngày xưa được xem là “lạ lùng”
trong xã hội: “Đi đâu cho thiếp đi
cùng/Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp
cam” [4, tr.55].
Trong văn học trung đại Việt Nam,
họa hoằn ta thấy có một vài tác giả nam
đứng ngoài luồng tư tưởng Nho giáo, trân
quý những gì người phụ nữ trong xã hội đã
làm và xót thương cho số phận của họ.
Như Tú Xương thương vợ vì mình vất vả
và tự trách thân: “Có chồng hờ hững cũng
như không!” [8, tr.111]. Dù ít nhưng không
phải không có những tác giả nữ thực thụ
góp phần làm đa dạng văn chương trung
đại Việt Nam. Và tuy ít, nhưng những tác
giả này lại vô cùng xuất chúng với những
cá tính riêng và để lại cho đời những tác
phẩm văn học xuất sắc, giá trị nội dung lẫn
nghê thuật cao. Những tên tuổi nổi bật phải
kể đến là Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân
Hương, Bà Huyện Thanh Quan... Tuy
VẤN ĐỀ NỮ QUYỀN TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN TRI U LUẬT NHÌN TỪ PHƯƠNG DI N N I DUNG
110
nhiên, không phải tác giả nữ nào cũng sáng
tác về số phận người phụ nữ. Nếu như nói
người khởi xướng cho phong trào nữ quyền
Việt Nam, thì có thể khẳng định rằng Hồ
Xuân Hương là đại diện tiêu biểu. Vì dù
sống trong một xã hội phong kiến hà khắc
chỉ coi trọng nam giới, tác giả vẫn xuất sắc
thể hiện tài năng và bản lĩnh của mình, tạo
nên một giá trị thời sự không chỉ trong văn
học mà còn có ý nghĩa xã hội to lớn. Ta
không thể quên sự khẳng định tài năng và
giá trị bản thân nếu không phải sống trong
một xã hội bất công, thiên về nam giới
trong bài thơ Đề đền Sầm Nghi: “Ví đây
đổi phận làm trai được,/ Thì sự anh hùng
há bấy nhiêu!” [7, tr.409].
1.2.2. Nữ quyền trong văn học hiện đại
Kể từ khi hình thành nên nền văn học
hiện đại, với sự xuất hiện của chữ Quốc
ngữ và các học thuyết, tư tưởng sáng tác
của phương Tây, nữ quyền trong văn học
hiện đại Việt Nam như một người khát tìm
được nguồn nước mát. Trong hoạt động
văn học, từ nền tảng thành tựu của nữ
quyền trong văn học Việt Nam hiện đại
trước năm 1986, những nhà văn nữ sinh
trưởng trong giai đoạn sau chiến tranh và
sau Đổi mới, với ảnh hưởng sâu sắc từ
phương Tây, thể hiện nhiều bứt phá chưa
từng có hoặc khá tạo bạo về nội dung và
nghệ thuật để thể hiện hết cái tôi, tinh thần
nữ quyền mạnh mẽ của mình qua các tác
phẩm như: “Tại sao cái cảm xúc này lại
luôn bị che giấu. Một người có thể nói to
trước đám đông, tôi căm thù tội ác dã man,
tôi yêu thương con trẻ, tôi đau xót đồng
bào tôi bị thiên tai. Chẳng có người nào
dám nói trước đám đông rằng, tôi ngủ với
chồng tôi rất khoái... Tất nhiên đó là cảm
xúc riêng tư không cần phải nói trước đám
đông. Nhưng cũng không thể nói rằng đó là
cảm xúc xấu xa, tội lỗi được chứ. Qua rồi
cái thời ăn ngon mặc đẹp là xấu xa, ngủ với
chồng thấy thích là tội lỗi” [1, tr.246]. Tuy
nhiên, bên cạnh những thành tựu thì còn có
những vấn đề được đặt ra, trên con đường
tiếp thu và phát triển, hòa nhập nhưng
không hòa tan, nên có sự cảm thụ sâu sắc
tinh thần nữ quyền từ phương Tây, cộng
với sự tỉnh táo trong tư duy và đặt trong
bối cảnh nền văn hóa xã hội Việt Nam thì
nhiệt huyết của tinh thần nữ quyền trong
văn học Việt Nam sẽ được thể hiện chín
chắn hơn, tránh sự công kích quá đà, phủ
nhận nam giới hoặc lệch lạc theo một xu
hướng phản cảm nào đó.
1.2.3. Thành tựu nghiên cứu của
phê bình nữ quyền ở Việt Nam
Nhìn chung, so với nền văn học Pháp,
phê bình nữ quyền ở Việt Nam chỉ dừng ở
mức manh nha và mới phát triển, chưa thật
sự được quan tâm sâu sắc và đúng mực, về
phạm vi lẫn chiều sâu nghiên cứu: “phạm
trù mỹ học tính dục – từ góc nhìn nữ giới
chưa được các tác giả tường minh sâu sắc”
[6, tr.12] và “Ở Việt Nam, việc nghiên cứu
nữ quyền chỉ mới đóng khung ở “làn sóng
thứ hai”. Đặc biệt, vấn đề diễn ngôn chấn
thương trong mối hệ lụy với phạm trù trinh
tiết và phẩm tiết chưa được giới nghiên cứu
quan tâm” [6, tr.276].
1.3. Nguyễn Triệu Luật và các
tiểu thuyết
Nguyễn Triệu Luật sinh năm 1903 và
mất năm 1946, quê ở làng Du Lâm, huyện
Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh (nay
thuộc Đông Anh, Hà Nội); được đánh giá
là một nhà giáo tận tâm, một nhà yêu nước
hiện đại và một nhà sử học viết tiểu thuyết.
Trong quá trình sáng tác tác, Nguyễn
Triệu Luật để lại cho nền văn học hiện đại
Việt Nam tám tiểu thuyết, đó là: m đựng
người, à h a ch , h a Trịnh hải,
oạn kiêu binh, gược đường Trường thi,
BÙI THỊ HOÀNG PHÚC
111
n báo oán, Thiếp chàng đôi ngả, ốn
con yêu và hai ông đồ cùng một số công
trình văn học và sử học, báo chí các đề tài
khoa học xã hội, ngôn ngữ, dịch thuật...
Riêng về tám tiểu thuyết được phổ
biến nhất hiện nay của Nguyễn Triệu Luật,
được gọi là tiểu thuyết lịch sử. Quan niệm
của nhà văn: “Viết “lịch sử tiểu thuyết”
(roman historique) không cần theo phép
của sử học, không cần có sự thật. Tác giả
chỉ phải tưởng tượng ra một chuyện “có thể
có” ở một thời đại, rồi đem chuyện ấy lờng
vào khung thời đại ấy. Mục đích là lấy một
chuyện không đâu mà làm sống một thời
đại. Những tiểu thuyết “Notre-Dame de
Paris”, “Quatre-vingt-treize” của Victor
Hugo, “Les filles d’autrefois” của Léon
Daudet, đều là bịa đặt, nhưng đọc truyện
đó, ta thấy cả thời đại hồi vua Louis và hồi
Đại Cách Mệnh sống lại” [3, tr.5].
Nguyễn Triệu Luật đã chọn một thể
loại văn học tương đối khó, lại chọn những
giai đoạn không mấy êm đẹp trong lịch sử
Việt Nam làm đề tài, và chọn một trong
những vấn đề ít ai nói đến vào thời kì lịch
sử mà ông viết hay vào chính giai đoạn mà
ông sống là vấn đề về người phụ nữ để tạo
nên những tiểu thuyết vĩ đại. Nữ quyền
trong các tiểu thuyết Nguyễn Triệu Luật
trong phạm vi bài báo này được nghiên cứu
trên phương diện nội dung. Thông qua các
tác phẩm, Nguyễn Triệu Luật chọn những
đề tài nói lên số phận của người phụ nữ từ
chốn cung đình, cung cấm đến nơi làng
quê, thôn dã và trong những biến động lịch
sử. Bên cạnh đó, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp
thể chất, tâm hồn, nghị lực, trí tuệ và bản
lĩnh của họ. Từ đó, nhà văn tố cáo, lên án
xã hội đen tối, bất công chà đạp người phụ
nữ, cất lên tiếng nói đòi quyền bình đẳng
trong tình yêu, hôn nhân và trong đời sống,
xã hội cho họ.
2. Nội dung
2.1. Những đề tài về số phận của
người phụ nữ
Trước hết, tinh thần nữ quyền được thể
hiện qua đề tài về số phận người phụ nữ.
Số phận người phụ nữ phong kiến trải dài
từ chốn cung đình cung cấm cho đến nơi
làng quê thôn dã hay trong những biến
động lịch sử, đều mang một màu trầm buồn
cay đắng.
Tiểu thuyết m đựng người, một tiểu
thuyết gần như là tấn bi kịch số phận người
phụ nữ trong chốn cung đình cung cấm.
Nhà văn mỉa mai cho cái ý tưởng xây lăng
để hưởng cuộc sống sung sướng khi về bên
kia thế giới của các vị vua, ngọc vàng cung
điện không kể mà ngay cả cung tần mĩ nữ
đang sống cũng phải đi theo hầu hạ, đấy có
khác gì là “chôn sống”. Nguyễn Triệu Luật
không tránh né, mà nói thẳng, nói thật
những vấn đề mà mình suy nghĩ. Mỉa mai
xong, nhà văn quay sang chua xót cho thân
phận những cung tần mĩ nữ ấy, già có, trẻ
có, thậm chí cả rất trẻ, người đã hưởng
phúc cả tuổi xuân, người chỉ vừa bỡ ngỡ,
người chưa hề biết được mặt vua... Tất cả
tề tựu về chốn này với cùng một kết thúc:
“Dưới những cây cao ngất, bóng tối che hồ
khắp các đài tạ, ở một nơi tĩnh mịch đầy
khí chết, lũ cung nữ, trắng toát cúi đầu sắp
hàng từ từ tiến bước, nom tựa một lũ oan
hồn hiện lên muốn đến tận nhà mồ kêu oan
cùng ông vua nằm dưới kia, xác thịt đã sắp
tiêu mà còn dìu đến Sơn lăng một đoàn
cung nga thể nữ” [3, tr.15]. Những cung nữ
tuổi xế chiều có, tuổi xuân sắc có, đều ít
nhiều là những hương sắc được tuyển
chọn, dù còn sống nhưng lại được tác giả
miêu tả như những hồn ma di động vật vờ
trong Sơn lăng. Tên chương II “Đã tội tình
gì?” và sự uất ức tưởng như muốn “đến tận
nhà mồ kêu oan” như một câu hỏi lớn mà
VẤN ĐỀ NỮ QUYỀN TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN TRI U LUẬT NHÌN TỪ PHƯƠNG DI N N I DUNG
112
không có câu trả lời về số phận của những
người cung tần mĩ nữ chốn nội cung ấy nói
riêng và của những người phụ nữ trong xã
hội bấy giờ nói chung tại sao lại chịu đựng
nhiều bất công như vậy! Phải chăng chỉ vì
sinh ra trót là phụ nữ!
Hình ảnh xuất phát điểm của Bà Chúa
chè Đặng Thị Huệ trong tiểu thuyết Bà
Chúa chè là hình ảnh rõ ràng nhất cho
những người phụ nữ nơi làng quê, thôn dã
thời vua Lê chúa Trịnh: “- Trời ơi! Tôi mới
mười lăm tuổi đầu, sao trời đã đày cơ cực
đến thế này? Nhưng cơ cực thế nào thì
cũng phải gánh hàng về, gánh nhà còn nữa
nặng nề hai vai” [3, tr. 111]. Nàng còn nhỏ
lại gia đình nghèo không có đất để làm
ruộng thì đi làm thuê bằng công việc phù
hợp là hái chè. Để có thêm thu nhập, nàng
nghĩ đến chuyện mang chè đi bán. Người
phụ nữ nơi thôn quê, trong nghèo khó, bản
thân rất linh hoạt và tần tảo, xông xáo, tất
cả vì họ vì gia đình họ và vì số phận đã
buộc họ phải như thế. Và từ lúc suy nghĩ
cho tới những hành động cụ thể là cả một
quá trình năm năm, của một cô bé mười
tuổi lên cô gái mười lăm tuổi. Hình ảnh của
nàng Huệ “gánh nhà còn nữa nặng nề hai
vai” [3, tr.111] thật thê lương, tạo sự cảm
thông sâu sắc cho hình mẫu số phận một
người phụ nữ điển hình sớm tần tảo nơi
làng quê, thôn dã.
Trong những biến động lịch sử, nội
cung là một trong những nơi chịu ảnh
hưởng rất lớn, bởi như đã nói, những con
người ở đấy, muốn có được nhiều thì phải
đánh đổi nhiều. Đặng Thị Huệ để đạt như
vị trí Tuyên Phi như lúc bấy giờ là cả một
quá trình đấu đá, tranh giành và toan tính.
Dĩ nhiên, người yêu thương thì ít, kẻ ganh
ghét nàng thì nhiều. Trong việc này, tất
phân ai đúng hay ai sai mà trở thành việc dĩ
lẽ trong chốn nội cung. Khi chúa Trịnh
bệnh nặng, cuộc sống xa hoa sung sướng
không bằng những nỗi âu lo trong nàng:
“Là vợ con thường dân thì dễ” [3, tr.145].
Câu nói như một sự đúc rút mà họ – những
người trong chốn nội cung ý thức được và
chấp nhận đánh đổi hoặc như ngỡ ngàng
nhận ra trong sự muộn màng. Và cuộc đời
họ mong manh theo sự biến động của chế
độ xã hội, theo các triều đại vua chúa: “Là
vợ con thường dân thì dễ, chứ là vợ con
vua thì chỉ có: một là mẹ thái phi, con là
vua; hai là mẹ con đều chết oan chết
uổng...” [3, tr.145].
2.2. Ca ngợi vẻ đẹp thể chất,
tinh thần của người phụ nữ
Trong những tiểu thuyết lịch sử của
mình, Nguyễn Triệu Luật không chỉ nêu
lên số phận của những người phụ nữ mà
còn ca ngợi vẻ đẹp của họ thông qua những
mô tả tinh tế về thể chất, tinh thần cũng
như nghị lực, trí tuệ, bản lĩnh của họ.
Nói về một trong những nhan sắc nổi
bật trong các tiểu thuyết của Nguyễn Triệu
Luật, không thể không nói đến nhan sắc
nổi trội của Đặng Thị Huệ trong tiểu thuyết
Bà Chúa chè. “Mặt nàng trái xoan, đôi mắt
hỏi xếch điểm bộ lòng đen đen ngời. Cái vẻ
sáng như gương, sắc như dao của khóe mắt
được cái sắc đen thẫm của lòng đen làm
dịu lại. Thật là sáng như tia chớp mà êm
đềm như nước hồ thu. Nàng cúi gầm mặt
xuống, thì như đem cả làn thu ba chìm tận
đáy lòng mà khi nàng ngước mắt nhìn lên
thì như đem hết tinh hoa bật lên một tia
sáng làm chóa mắt người xem.” [3, tr.115].
Vừa có sự miêu tả chi tiết vừa có sự so
sánh mơ màng đủ để ta hình dung vẻ đẹp
ngời ngời mà sắc sảo của Đặng Thị Huệ
như chính con người nàng. Với điểm nhấn
là đôi mắt khóe sắc mà đen lòng cho thấy
sự sắc sảo ở con người nàng. Trong khi đó,
vẻ đằm thắm của nhan sắc lại mộng mơ từa
BÙI THỊ HOÀNG PHÚC
113
tựa như mặt nước hồ thu êm đềm, phẳng
lặng. Sự sắc sảo trong một nhan sắc đằm
thắm tạo nên sự hữu tình trong nhan sắc
một người con gái, khó có thể tả hết thành
lời! Một người con gái chốn thôn quê với
vẻ đẹp ngời ngời không bị những lấm lem
của cuộc sống vất vả làm lu mờ đã làm
khuynh đảo chốn cung trường sau này.
Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ
trong tiểu thuyết của Nguyễn Triệu Luật
đôi khi toát ra từ những suy nghĩ và hành
động của họ. Như nhân vật phu nhân của
Lan Quận Công trong tiểu thuyết gược
đường trường thi: “Nhà tôi có nghỉ buổi
học nào đâu mà tôi dám nghỉ một buổi
làm? Về chậm, thì có mất chút nào cô
hoàng đi đâu?” [3, tr.331]. Qua câu nói đơn
giản mới thấy tính cách giản dị, khiêm tốn
và tấm lòng của bà dành cho chồng. Phu
nhân xem công việc và sự vất vả của mình
là hiển nhiên để đánh đổi sự hiển vinh cho
người chồng và gia đình. Bà yêu thương và
trân trọng công việc học hành dùi mài kinh
sử của chồng và hạnh phúc khi được chăm
lo cho ông. Và dù là cô hoàng hay không
thì bà vẫn khiêm nhường biết mấy qua câu
nói ấy.
Nguyễn Triệu Luật còn ca ngợi bản
lĩnh của người phụ nữ thông qua những
nhân vật của mình với tinh thần dám làm
dám chịu, biết hi sinh, nghĩa khí, như nàng
Văn Trúc trong tiểu thuyết Thiếp chàng đôi
ngả. “Tôi thường vẫn nói với lang quân
rằng: ví ngày nghĩa cử ở đốn Sơn lang
quân không mắc bệnh mà vướng vào lưới
tội tình, thì tôi làm vợ hóa một người liệt sĩ
cũng lấy làm vui... Hóa thì không vui,
nhưng có điều này vui. Lang quân vị nghĩa
chết ngày nào thì tôi cũng làm vợ người
liệt sĩ mà chết theo. Chết theo người chồng
liệt sĩ, cái ấy vui hơn sống nhục”
[3, tr.433]. Cái không vui tâm tư riêng ấy,
nàng cất đi và để dành cho cái lớn lao hơn
là “làm vợ hóa một người liệt sĩ cũng lấy
làm vui”. Bởi theo nàng thì “cái ấy vui hơn
sống nhục”. Và nàng sẵn sàng “chết theo”
nếu chẳng may người chồng là “liệt sĩ”. Là
một người phụ nữ trong một xã hội phong
kiến bất công, thời buổi nhiễu nhương loạn
lạc mà từ nàng Văn Trúc toát lên một khí
chất mạnh mẽ, bản lĩnh phi thường không
thua kém bất kì đấng trượng phu nào. Nàng
có đủ yêu, ghét, sự nữ tính của một người
phụ nữ và lại tư thông hết những đạo lí của
thời đại và những chân lí sống của cuộc
đời. Điều đó như một sự chứng tỏ rằng
những phẩm chất ấy không chỉ có nam giới
và phụ nữ cũng có được. Đó chính là vẻ
đẹp của một người phụ nữ đầy bản lĩnh mà
Nguyễn Triệu Luật đã thổi hồn vào nhân
vật của mình.
2.3. Tiếng nói đòi quyền sống cho
người phụ nữ
Thông qua những tác phẩm và những
nhân vật trong đó, Nguyễn Triệu Luật tố
cáo, lên án xã hội đen tối, bất công chà đạp
người phụ nữ và lên tiếng đòi quyền bình
đẳng trong tình yêu, hôn nhân và trong đời
sống, xã hội cho họ.
Trong thời phong kiến, chịu tư tưởng
nặng nề từ Nho giáo, vai trò của người
đàn ông trong gia đình, xã hội là độc tôn.
Đời sống vợ chồng cãi nhau là chuyện
bình thường. Tuy nhiên, vấn đề ở đây như
chính nhà văn nhận định: “Ở một gia đình
nhà nho cổ, người bố người cha mà có ý
không vui vẻ là cả nhà phải sợ hãi như
bọn phạm nhân” [3, tr.497]. Tức là trong
gia đình nhà nho truyền thống, người phụ
nữ luôn tìm cách để chu toàn mọi việc,
làm hài lòng chồng và gia đình chồng.
Mọi chuyện đều xoay quanh người đàn
ông, hầu như cảm xúc của người phụ nữ
đều bị bỏ rơi, không quan tâm. Đó dần trở
VẤN ĐỀ NỮ QUYỀN TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN TRI U LUẬT NHÌN TỪ PHƯƠNG DI N N I DUNG
114
thành một tâm lí chung của những người
phụ nữ thời đó. Cuộc sống họ xoay quanh
việc làm hài lòng người khác và lo lắng
nếu nhận lại là những cử chỉ không tốt
đẹp. Thật là thiệt thòi và không công bằng
cho những người phụ nữ thời kì đó! Trong
gia đình, chính vì tư tưởng truyền thống
mà cả một xã hội vô cảm, người đàn ông
trong gia đình cũng vô cảm trước những
sự quan tâm của những người phụ nữ
trong gia đình dành cho mình.
Để cất tiếng đòi quyền bình đẳng trong
tình yêu, hôn nhân cho người phụ nữ,
Nguyễn Triệu Luật đã tinh tế thông qua sự
phản ứng nhẹ nhàng của một nhà nho cổ
trong quan niệm về tình yêu, hôn nhân. Khi
mẹ nàng Ấu Mai – con dâu của ông Hoàng
giáp Đặng Phi Hiển trong tiểu thuyết Hòm
đựng người phàn nàn: “Mỗi lần con Ấu
Mai ở trong Nội ra, ông hoàng Duy Lễ lại
đến, rồi hai... hai người cứ tự nhiên quá
như thế, con e thiên hạ họ chê cười”
[3, tr.46], ông chẳng những không đồng
thuận theo mà còn có câu trả lời vô cùng
bất ngờ: “Nó là đứa thiên tư dĩnh ngộ, mà
phải chìm vào bể thẳm không bờ, nếu cái
gì ta cũng cấm đoán nó nốt, thì ra như là ta
đây không biết thương người nữa, vào bè
với trời xanh và những thói tục hủ lậu, mà
giết chết đến cả tính tình nữa hay sao?”
[3, tr.46]. Ý tứ trong lời nói của mẹ nàng
Ấu Mai chính là tiêu biểu cho quan niệm
của một chế độ xã hội trong quan niệm về
tình yêu và về việc phụ nữ trong tình yêu
phải thế nào. Còn câu trả lời của ông
Hoàng giáp Đặng Phi Hiển khi đối đáp lại
chính là lời tố cáo những “thói tục hủ lậu”
khiến người phụ nữ như phải “chìm vào bể
thẳm không bờ” và là tiếng nói đòi quyền
bình đẳng trong tình yêu, hôn nhân dành
cho những người phụ nữ.
Nguyễn Triệu Luật và tiểu thuyết Hòm
đựng người đã góp những tiếng nói dẫu
muộn màng so với bối cảnh tác phẩm
nhưng tiên phong so với thời đại nhà văn
sinh sống cho người phụ nữ trong cuộc
sống. “- Người đàn bà con gái thường thì
mới phải giữ lối e dè thế, chứ đã là thi nhân
thì phải khoáng đạt một chút” [3, tr.42]. Dù
là trong cơn say nhưng tâm tư của chàng
Duy Lễ vẫn có phần chí lí. Thật ra, trong
lối nói của Vũ Lăng hầu vẫn thể hiện quan
điểm nho giáo truyền thống về việc giữ “lối
e dè” của “đàn bà con gái” nhưng chàng
vẫn nhấn mạnh chữ “thường”, ấy phân biệt
với những người phụ nữ tài trí như Ấu
Mai. Việc này khi kết hợp với ý tứ của câu
sau: “chứ đã là thi nhân thì phải khoáng đạt
một chút” nếu hiểu trọn vẹn không phải
đơn thuần là sự phân biệt đối xử giữa
những người phụ nữ có học và không có
học. Sở dĩ trong quan điểm truyền thống
của Vũ Lăng hầu vẫn bật lên một tư tưởng
tiến bộ đó là sự khuyến khích học hành và
tham gia nhiều mặt hoạt động xã hội, đời
sống của ngời phụ nữ. Vì khi tham gia vào
những mặt khác của đời sống, người phụ
nữ hay đàn ông chẳng cần được nhớ đến
bằng giới tính của mình, mà là bằng công
việc, chức vụ hay vị trí của họ trong xã hội.
Dưới cái nhìn của một người đàn ông theo
Nho giáo truyền thống như Vũ Lăng hầu
thì cái nhìn đó đầy tiến bộ như một tiếng
nói đòi quyền bình đẳng trong đời sống, xã
hội dành cho phụ nữ đến từ nam giới.
3. Kết luận
Thông qua các tác phẩm mới thấy hết
được sự tài tình của Nguyễn Triệu Luật khi
xây dựng nên một thế giới lịch sử vừa thực
vừa mộng, hóa thân vào các nhân vật nữ từ
ngôn ngữ, cử chỉ, hình ảnh, tâm tư, suy
nghĩ đều mang đậm nét nữ tính. Các nhân
vật nữ trong các tiểu thuyết của Nguyễn
Triệu Luật xuất hiện vừa quen, vừa lạ, vừa
BÙI THỊ HOÀNG PHÚC
115
sống động trong thế giới nội tâm và cuộc
đời mình, với những yêu thương, vui tươi,
oán hận, trăn trở... đầy nữ tính nhưng vẫn
bộc lộ rõ ràng tính cách, bản chất, quan
điểm và sự đấu tranh của bản thân. Mỗi
nhân vật mang đến những trăn trở về khát
vọng yêu thương trong một cuộc sống bất
công, những lầm than trong số phận hẩm
hiu, những lúng túng trước thời cuộc biến
động, những nhen nhóm đấu tranh cho một
sự bình đẳng trong xã hội... Tất cả tạo sự
đồng cảm dễ dàng nơi độc giả và có sự lan
tỏa nhẹ nhàng, sâu sắc những giá trị nữ
quyền mà nhà văn muốn truyền tải thông
qua câu chuyện xa xưa mà hiện đại.
Xin lấy lời nhận xét của nhà văn Phạm
Toàn thay cho lời kết: “Lại hay ở chỗ,
giọng văn nói chuyện xưa đấy mà hồn văn
lại vô cùng hiện đại. Ta thấy trong Bà
Chúa chè dường như có toát lên hương vị
cổ vũ cho nữ quyền, một sản phẩm rành
rành không thể có vào thời Lê Trịnh mà
phải là sản phẩm của tư duy Nhân quyền
sau những năm Chín mươi ba (1793) được
tác giả nhắc đến từ cuốn m đựng người.
Ta thấy trong những lối sống tự do được cổ
vũ ngầm, hoàn toàn khác với quan niệm xơ
cứng về “phong kiến” buộc trai gái thụ thụ
bất thân. Lối sống tự do “bình quyền” toát
lên trong những khát vọng của Bà Chúa
chè, trong hành xử ung dung tự tại của
nàng thơ Nguyễn Thị Lộ. Và cả lối sống có
trách nhiệm với lý tưởng trong người vợ
chàng tráng sĩ bỏ họ Trần theo họ Hồ để
bảo vệ tổ quốc trước họa xâm lăng của
phương Bắc” [3; tr.674].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Y Ban (2008), Xuân Từ Chiều, Nxb Phụ nữ,
Hà Nội.
2. Nguyễn Du (2006), Truyện Kiều (tái bản),
Nxb Văn học, Hà Nội.
3. Nguyễn Triệu Luật (2013), Tiểu thuyết lịch
sử, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
4. Nguyễn Thị Kim Ngân, “Ca dao tình yêu: Ai
buồn, ai nhớ, ai thương (Ca dao và thi pháp
nữ quyền)”, Tạp chí Khoa học Đại học Sài
Gòn, số 21 (46), tháng 10/2016.
5. Nguyễn Viết Ngoạn (2010), Văn chương Việt
Nam truyền thống với sự phản ánh con người
(Chuyên luận và tuyển chọn), Nxb ĐHQG
TP.HCM.
6. Trần Huyền Sâm (2016), Nữ quyền luận ở
Pháp và tiểu thuyết nữ Việt am đương đại,
Nxb Phụ nữ, TP.HCM.
7. Nguyễn Hữu Sơn – Vũ Thanh (Tuyển chọn và
gới thiệu) (2001), Hồ Xuân ương – Về tác
gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
8. Trung tâm Nghiên cứu Quốc học (2010), Tú
Xương toàn tập, Nxb Văn học, Hà Nội.
Ngày nhận bài: 07/01/2017 Biên tập xong: 15/02/2017 Duyệt đăng: 20/02/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 127_3129_2215179.pdf