Vấn đề khái niệm và định hướng dạy học văn bản thông tin trong chương trình Ngữ văn của một số nước trên thế giới

Tài liệu Vấn đề khái niệm và định hướng dạy học văn bản thông tin trong chương trình Ngữ văn của một số nước trên thế giới: TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 62 (02/2019) No. 62 (02/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 26 VẤN ĐỀ KHÁI NIỆM VÀ ĐỊNH HƯỚNG DẠY HỌC VĂN BẢN THÔNG TIN TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI The issue of concept and orientation in teaching informational texts in language arts and literature curricula of some countries in the world ThS. Nguyễn Thị Ngọc Thúy Trường Đại học Sư phạm TP.HCM Tóm tắt Năng lực đọc hiểu văn bản thông tin đóng một vai trò rất quan trọng, hỗ trợ cho sự thành công của người học trong tương lai. Bài viết này, trên cơ sở tìm hiểu dạy học văn bản thông tin trong chương trình Ngữ văn của một số nước trên thế giới đã xác định lại đặc điểm của văn bản thông tin và những định hướng dạy học loại văn bản này trong chương trình của các nước; từ đó đưa ra một số gợi ý cho việc dạy học loại văn bản...

pdf11 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 461 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vấn đề khái niệm và định hướng dạy học văn bản thông tin trong chương trình Ngữ văn của một số nước trên thế giới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 62 (02/2019) No. 62 (02/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 26 VẤN ĐỀ KHÁI NIỆM VÀ ĐỊNH HƯỚNG DẠY HỌC VĂN BẢN THÔNG TIN TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI The issue of concept and orientation in teaching informational texts in language arts and literature curricula of some countries in the world ThS. Nguyễn Thị Ngọc Thúy Trường Đại học Sư phạm TP.HCM Tóm tắt Năng lực đọc hiểu văn bản thông tin đóng một vai trò rất quan trọng, hỗ trợ cho sự thành công của người học trong tương lai. Bài viết này, trên cơ sở tìm hiểu dạy học văn bản thông tin trong chương trình Ngữ văn của một số nước trên thế giới đã xác định lại đặc điểm của văn bản thông tin và những định hướng dạy học loại văn bản này trong chương trình của các nước; từ đó đưa ra một số gợi ý cho việc dạy học loại văn bản này trong chương trình Ngữ văn của nước ta sau năm 2018. Từ khóa: Văn bản thông tin, chương trình Ngữ văn, năng lực đọc hiểu. Abstract Informational text reading comprehension competency has an extremely important role, supporting students to succeed in the future. Therefore, on the basis of studying the teaching of informational texts in Language Arts and Literature curricula of some countries in the world, this paper redefines the characteristics of informational texts, orientations of teaching these texts in these curricula; and offers some suggestions for teaching this type of text in our Language Arts and Literature curriculum after 2018. Keywords: informational text, Language Arts and Literature curriculum, reading comprehension competency. 1. Đặt vấn đề Trong bối cảnh xã hội bùng nổ thông tin như hiện nay, năng lực tiếp cận và làm chủ thông tin đóng vai trò rất quan trọng, quyết định sự thành công của mỗi cá nhân trong công việc và cuộc sống. Vì vậy, trong chương trình dạy học Ngữ văn của một số nước trên thế giới, bên cạnh văn bản (VB) văn chương, học sinh còn được học đọc hiểu một hệ thống VB khác có nội dung liên quan trực tiếp đến thế giới hiện thực, không sử dụng những yếu tố hư cấu, tưởng tượng, thực hiện chức năng chủ yếu là cung cấp thông tin. Đó chính là văn bản thông tin (VBTT). Trong Chương trình Ngữ văn được ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT, VBTT cũng được đề cập đến với tư cách là một trong Email: thuyntn@hcmue.edu.vn NGUYỄN THỊ NGỌC THÚY TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 27 ba loại VB mà học sinh cần phải đọc hiểu. Vì vậy, qua bài viết này, chúng tôi muốn trình bày cách hiểu và những định hướng dạy học loại VB này trong chương trình Ngữ văn của một số nước trên thế giới, từ đó đưa ra gợi ý đối với việc dạy học kiểu VB này trong chương trình Ngữ văn ở nước ta sau năm 2018. 2. Phương pháp nghiên cứu Để tìm hiểu việc dạy học VBTT trong chương trình Ngữ văn của một số nước, chúng tôi chủ yếu sử dụng nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết, cụ thể như sau: - Phân tích và tổng hợp lí thuyết: Phương pháp phân tích được sử dụng để nghiên cứu VB chương trình Ngữ văn của các nước ở khía cạnh dạy học đọc hiểu VBTT theo cách phân tích chúng thành từng bộ phận nhằm tìm hiểu vấn đề một cách toàn diện. Còn phương pháp phân tích tổng hợp được dùng để liên kết, sắp xếp các tài liệu thành một hệ thống lí thuyết đầy đủ, sâu sắc về vấn đề nghiên cứu. - Phân loại và hệ thống hóa lí thuyết: Phương pháp phân loại được sử dụng để sắp xếp các tài liệu khoa học thành một hệ thống logic chặt chẽ theo từng vấn đề. Còn phương pháp tổng hợp lại được dùng để sắp xếp các tri thức khoa học thành một hệ thống trên cơ sở các kiểu loại VBTT và chuẩn đầu ra của việc dạy học loại VB này trong chương trình Ngữ văn của một số nước nhằm làm cho sự hiểu biết về vấn đề nghiên cứu được toàn diện và sâu sắc hơn. Cơ sở dữ liệu được thu thập, khảo sát là VB chương trình Ngữ văn của một số nước như Australia, NewZealand, Mỹ, Anh, Singapore, đó là những nước có nền giáo dục tiên tiến đại diện cho một số châu lục trên thế giới. Hầu hết các VB chương trình được khảo sát đều là những VB mới nhất của những nền giáo dục ấy. 3. Nội dung nghiên cứu 3.1. Khái niệm văn bản thông tin 3.1.1. Vấn đề tên gọi văn bản thông tin trong chương trình Ngữ văn của một số nước Chương trình Ngữ văn của một số nước đã dùng những tên gọi khác nhau để chỉ loại VB có nội dung liên quan trực tiếp đến thế giới hiện thực, không sử dụng những yếu tố hư cấu, tưởng tượng, thực hiện chức năng chủ yếu là cung cấp thông tin. Chẳng hạn như: - Trong khung chuẩn cơ bản chương trình Tiếng Anh của liên bang ở Mỹ (sau đây xin gọi là chương trình Ngữ văn của Mỹ), khái niệm văn bản thông tin (informational text) được sử dụng trong tương quan với khái niệm văn bản văn chương (literary text) để tạo thành hệ thống VB hoàn chỉnh. - Chương trình Ngữ văn Tiểu học và Trung học của Singapore xác định rõ hai loại VB chính được dạy là VB văn học (literary text) và VB thông tin (informational text)/ VB chức năng (functional text)1. - Ở Úc, chương trình Ngữ văn của quốc gia sử dụng khái niệm VB tưởng tượng, hư cấu (imaginative text), VB thông tin (informative text), VB thuyết phục (persuasive text) trong cấu trúc hệ thống VB của chương trình2. Trong đó, VB thông tin và VB thuyết phục có nội dung liên quan trực tiếp đến thế giới hiện thực và không sử dụng các yếu tố hư cấu. - Còn trong chương trình Ngữ văn của Anh thì “tất cả học sinh đều được khuyến khích đọc rộng ở cả hai loại VB: VB hư cấu (fiction) và VB phi hư cấu (non- fiction) để phát triển kiến thức của họ cũng SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019) 28 như những hiểu biết về thế giới mà họ đang sống, để thiết lập một nhận thức đúng đắn cùng tình yêu đối với việc đọc và cũng để tích lũy kiến thức thông qua chương trình.” [7, tr.14]. - Chuẩn cơ bản của chương trình đọc – viết cho trẻ từ 1 đến 8 tuổi của New Zealand cũng quy định rõ hệ thống VB sử dụng trong chương trình là VB hư cấu (fiction text) và VB phi hư cấu (non-fiction text). Từ việc điểm qua hệ thống khái niệm VB được sử dụng trong chương trình Ngữ văn của một số nước trên thế giới, chúng tôi nhận thấy ở các nước, chương trình Ngữ văn đều sử dụng đa dạng loại VB trong dạy học. Ít nhất là có hai hệ thống VB cùng tồn tại trong chương trình, một hệ thống liên quan đến tác phẩm văn chương, tạm gọi là VB văn học và một hệ thống khác có nhiệm vụ cung cấp và truyền tải thông tin, tạm gọi là VB thông tin. Trong đó tên gọi của hệ thống VB cung cấp và truyền tải thông tin thay đổi tùy theo từng nước, ví dụ như informational text trong chương trình của Mỹ và Singapore, informative text và persuasive text trong chương trình của Úc và non-fiction text trong chương trình của Anh và New Zealand. Đó là điểm khác biệt giữa các chương trình. Tuy nhiên trong chương trình của bang California (Mỹ), bên cạnh khái niệm informational text còn một khái niệm khác được nhắc tới với ý nghĩa tương đương, đó là expository text, tạm dịch là VB trình bày, bình luận 3.1.2. Các khái niệm có liên quan đến văn bản thông tin Trong chương trình Ngữ văn của các nước, hệ thống VBTT được sử dụng với nhiều tên gọi khác nhau. Vấn đề đặt ra là nên hiểu các khái niệm này như thế nào. 3.1.2.1. Khái niệm văn bản phi hư cấu Theo Wikipedia, VB chủ yếu được phân chia thành hai loại phổ biến là VB phi hư cấu (non-fiction) và VB hư cấu (fiction). “VB phi hư cấu là một câu chuyện được xây dựng dựa trên sự kiện và thông tin có thật. VB phi hư cấu có thể là một câu chuyện kể, một VB miêu tả lại sự việc đã xảy ra, hoặc là một sản phẩm giao tiếp khác mà tác giả của nó tin rằng sự khẳng định và miêu tả là có thật. Những sự khẳng định và miêu tả này có thể chính xác hoặc không, có thể mô tả đúng hoặc sai về đối tượng. Tuy nhiên, người ta cho rằng tác giả của những VB ấy tin rằng chúng đúng sự thật tại thời điểm mà họ soạn thảo, hoặc ít nhất đã khiến người tiếp nhận VB tin rằng chúng đúng về phương diện lịch sử hoặc theo kinh nghiệm. Việc báo cáo về niềm tin của mọi người đối với những VB loại này không nhất thiết là sự chứng thực về tính chân thực của chúng, chỉ đơn giản nó đúng sự thật khi mọi người tin nó. () VB phi hư cấu không nhất thiết chỉ là VB viết, vì tranh ảnh và phim cũng có nội dung miêu tả sự thật về một đề tài, vấn đề nào đó” [12]. Từ định nghĩa trên, Wikipedia đã xác định những kiểu VB cụ thể thuộc loại VB này: “bài tiểu luận, bài báo, ký sự, nhật ký, các tài liệu, VB khoa học, tranh ảnh, tiểu sử, sách giáo khoa, sách hướng dẫn du lịch, bản vẽ chi tiết, tài liệu kỹ thuật, sách hướng dẫn sử dụng, biểu đồ” [12]. Tuy nhiên sự phân loại này chỉ có ý nghĩa tương đối vì có những VB mang đặc điểm của cả hai loại VB ấy, chẳng hạn như VB tự biểu hiện, thư từ, tạp chí và VB có yếu tố tưởng tượng, hư cấu. Một số VB hư cấu có thể bao hàm những yếu tố phi hư NGUYỄN THỊ NGỌC THÚY TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 29 cấu. Trong khi đó, một số VB phi hư cấu lại chứa đựng những yếu tố tiền giả định, sự suy diễn hoặc điều tưởng tượng không thể xác minh, kiểm chứng. Điều đó có thể khiến người đọc hiểu sai bản chất của VB phi hư cấu. Vì thế thuật ngữ VB phi hư cấu có tính văn chương (literary non-fiction) được sử dụng trong quan hệ đối lập với khái niệm VB phi hư cấu thuần túy, để chỉ những VB phi hư cấu có sử dụng yếu tố văn chương. Những yếu tố có tính sáng tạo và văn chương thường được cho là không phù hợp với VB phi hư cấu nhưng vẫn xuất hiện và thường không làm mờ đi thông tin của VB. Sự đơn giản, sáng rõ và trực tiếp là những yêu cầu được đặt ra với VB phi hư cấu. Khái niệm này cũng được nhắc đến trong chương trình Tiếng Anh của Mỹ. 3.1.2.2. Khái niệm văn bản thông tin Duke3 đã từng đưa ra định nghĩa về VBTT (informational text/ informative text) như sau: “Mục đích chính của VBTT là truyền tải thông tin về thế giới tự nhiên và xã hội, điển hình là từ những người được cho là biết thông tin đến những người được cho là không biết.” [6, tr.16]. Từ định nghĩa trên, Duke cho rằng VB tiểu sử, VB miêu tả các quy trình hay hướng dẫn các thao tác đều là VB phi hư cấu, không phải là VBTT vì mục đích chính của chúng là truyền tải thông tin về cuộc đời của một cá nhân hoặc hướng dẫn thao tác chứ không phải chuyển tải thông tin về một điều gì đó. Do đó “những VB phi hư cấu có tính chất kể chuyện hoặc là “những câu chuyện kể về sự thật” cũng là VB phi hư cấu chứ không phải là VBTT vì mục đích chính là kể về một sự kiện hoặc một chuỗi các sự kiện đã xảy ra.” [6, tr.16]. Từ đó, Duke đã khẳng định VBTT trình bày toàn bộ các phân lớp của sự vật (khác với tiểu sử, chỉ tập trung vào một cá thể, một cá nhân) và nhìn đối tượng theo cách phi thời gian (khác với tiểu sử, chỉ tập trung vào những điểm thời gian đặc biệt). Do đó, VBTT có nội dung bao quát hơn. Trên cơ sở ấy, nhóm nghiên cứu của Duke đã xác định các đặc điểm cơ bản của VBTT gồm: VB có sự trình bày và lặp lại của đề tài, chủ đề; miêu tả những thuộc tính và những sự kiện đặc thù; sử dụng cấu trúc so sánh/ tương phản và phân loại; sử dụng từ ngữ kỹ thuật; minh họa bằng thực tế hoặc hình ảnh; các chương mục; giúp đỡ, hỗ trợ, định hướng cho người đọc bằng mục lục, số trang, đề mục và những phương tiện hình ảnh đa dạng như biểu đồ, bảng biểu và sơ đồ. Vì vậy, việc đọc hiểu VBTT không đơn giản chỉ là đọc lần lượt theo từng dòng; mà còn phải đọc những sơ đồ, bảng biểu và suy nghĩ, tính toán; rồi tiếp tục đọc VB và xem xét lại sơ đồ, bảng biểu hoặc tính toán. Việc đọc cứ trở đi trở lại nhưng không theo đường thẳng; mà có thể tiến về phía trước rồi lại đọc lùi về sau và khai thác tối đa hiệu quả thông tin từ những phương tiện thể hiện đặc thù của loại VB này để giúp cho việc đọc hiểu sâu hơn, rõ ràng hơn. Chẳng hạn như trong VBTT, việc sử dụng hình ảnh, bảng biểu, sơ đồ hỗ trợ tích cực cho người đọc trong quá trình giải mã thông tin. Do vậy, người đọc cần được trang bị kỹ năng đọc hiểu loại công cụ này để có thể sẵn sàng giải mã chúng chứ không phải là bỏ qua chúng trong quá trình đọc. Về hình thức thể hiện của VBTT, theo Duke, có nhiều loại khác nhau. Có loại VB là sách (Vd: sách tham khảo, sách giáo khoa, sách chuyên ngành, sách viết về những thông tin mang tính quá trình) và những loại VB không phải là sách (Vd: tạp chí, báo, áp phích quảng cáo, trang web và SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019) 30 CD-ROM ). 3.1.2.3. Khái niệm văn bản trình bày, bình luận Trong chương trình của một số quốc gia, khái niệm VB trình bày, bình luận (expository text) được sử dụng để thay thế cho khái niệm VB phi hư cấu hay VBTT. Khái niệm này xuất hiện trong cách nhìn nhị phân của một số tác giả về các loại VB, bao gồm narrative text (tạm dịch là VB trần thuật) và expository text (tạm dịch là VB trình bày, bình luận). Moss đã đưa ra cách định nghĩa expository text như sau: “Trong khi mục đích của “narrative text” là kể chuyện, thì mục đích của “expository text” là thông báo, miêu tả hoặc báo cáo, tường thuật. Trong “narrative text” thì tác giả sẽ tưởng tượng, hình dung ra nhân vật, sự kiện và sử dụng cấu trúc của một câu chuyện kể để tạo ra câu chuyện. Còn khi viết VBTT, tác giả sẽ tổ chức bài viết của mình theo hướng đạt đến những thông tin về chủ đề mà họ muốn hướng đến. Họ sẽ tổ chức, sắp xếp thông tin sao cho hợp lý và hấp dẫn bằng cách sử dụng các cấu trúc khác nhau của “expository text”. [] Những VB dạng “expository text” cũng có cấu trúc riêng của nó. Những cấu trúc này sẽ cung cấp cho người học một sơ đồ chỉ dẫn họ khám phá, tìm hiểu nội dung VB. Sự nhận thức của người học về cấu trúc và cách thức tổ chức của VB “expository text” càng lớn bao nhiêu thì việc họ nắm bắt thông tin của người viết sẽ càng nhanh hơn ấy nhiêu.”. [10, tr.712] 3.1.2.4. Điểm thống nhất và khác biệt giữa các khái niệm Từ định nghĩa về các khái niệm, người viết nhận thấy tuy chương trình của các nước sử dụng những tên gọi khác nhau để định danh cho loại VB ấy nhưng nhìn chung các tên gọi đều được dùng để chỉ một loại VB có nội dung liên quan trực tiếp đến thế giới thực (không chứa những yếu tố hư cấu, tưởng tượng). Trong đó được sử dụng rộng rãi nhất là hai khái niệm VB phi hư cấu (non-fiction) và VB thông tin (informational text). Cả hai loại VB này đều được tạo lập từ những thông tin có thật. Có tác giả cho rằng hai khái niệm này đồng nhất với nhau, vậy nên họ thường dùng hai khái niệm này thay thế cho nhau. Nhưng cũng có một số nhà nghiên cứu như nhóm của Duke (2003) lại cho rằng hai khái niệm này không hoàn toàn đồng nhất với nhau, VBTT chỉ là một loại rất quan trọng của VB phi hư cấu vì VB phi hư cấu bao gồm tất cả các VB viết về những sự việc có thật. Theo Duke “VBTT khác với các loại khác của VB phi hư cấu ở mục đích, đặc điểm và hình thức” [6, tr.16]. Vì vậy một số tiểu loại của VB phi hư cấu lại không được nhóm của Duke xếp vào loại VBTT, chẳng hạn như tiểu sử, tự truyện và những VB thuyết minh về quy trình hoặc thao tác thực hiện. Sự phức tạp trong việc xác định khái niệm và phân loại VBTT là một minh chứng cho thấy ranh giới giữa các loại VB là hết sức mong manh. Vì vậy, việc xác định, lựa chọn những kiểu cụ thể của loại VB này trong CT Ngữ văn của một số nước cũng rất khác nhau tùy theo quan điểm của mỗi quốc gia nhưng nhìn chung vẫn phải bảo đảm được những đặc trưng cơ bản của VBTT. Còn khái niệm VB trình bày, bình luận, liên quan như thế nào với hai khái niệm trên để có thể được dùng tương đương với khái niệm VBTT? Các nhà nghiên cứu thường có khuynh hướng nhị phân các loại VB theo hai hướng như sau: hướng thứ nhất chia các loại VB thành NGUYỄN THỊ NGỌC THÚY TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 31 fiction (VB hư cấu) và non-fiction (VB phi hư cấu); hướng thứ hai chia các loại VB thành narrative text (VB trần thuật) và expository text (VB tình bày, bình luận). Hướng phân loại thứ nhất chủ yếu căn cứ vào nội dung của VB, còn hướng thứ hai chủ yếu dựa vào cách thức tổ chức của VB. Mục đích của VB trần thuật là kể chuyện nên thường được tổ chức theo kết cấu một câu chuyện với mở đầu, phát triển và kết thúc, do đó loại VB này thường có nhân vật, bối cảnh, mâu thuẫn và đề tài. Còn VB trình bày, bình luận thường được tổ chức theo những dạng cấu trúc như: miêu tả, nguyên nhân – kết quả, tiến trình thời gian, so sánh – tương phản, nêu vấn đề – giải quyết vấn đề để giải thích thông tin. Từ đó có thể thấy mục đích của VBTT và VB trình bày, bình luận là giống nhau. Thật ra, hai loại VB này chỉ là một, sở dĩ có hai tên gọi như vậy là do tiêu chí định danh khác nhau, một số nhà nghiên cứu gọi VBTT vì căn cứ định danh là nội dung của VB, còn nếu gọi là VB trình bày, bình luận thì căn cứ định danh lại dựa vào cấu trúc của VB. Vậy có thể thấy vấn đề tên gọi của loại VB này khá phức tạp. Nhìn chung trong chương trình của các nước, loại VB này có thể được gọi với nhiều khái niệm khác nhau nhưng đều phản ánh những sự việc, sự kiện có thật trong thế giới hiện thực. Khác với VB văn học là sản phẩm của hư cấu, tưởng tượng. Từ việc tìm hiểu những khái niệm trên, chúng tôi cho rằng trong chương trình Ngữ văn của nước ta sau năm 2018 hệ thống những VB có nội dung liên quan đến người thật, việc thật; không sử dụng các yếu tố hư cấu, tưởng tượng và mục đích chính là cung cấp thông tin nên được gọi là VB thông tin. Tên gọi ấy khái quát được nhiều kiểu loại VB. Nếu xác định như thế thì trong chương trình Ngữ văn của chúng ta, tiểu sử và tự truyện sẽ không thuộc loại VB này và tất cả những kiểu VB thuộc VB trình bày, bình luận (expository text) và VB thuyết phục (persuasive texts) trong chương trình của Singapore và Úc nên được xếp vào loại VB này vì chúng vẫn mang những đặc điểm của VBTT. 3.2. Định hướng dạy học văn bản thông tin trong chương trình Ngữ văn của một số nước trên thế giới Qua khảo sát việc dạy học VBTT trong chương trình của một số nước, chúng tôi nhận thấy chương trình Ngữ văn của nước ta sau năm 2018 có thể tham khảo một số định hướng sau: 3.2.1. Định hướng về thời lượng dạy học văn bản thông tin Trong chương trình Ngữ văn của một số nước trên thế giới, VBTT đóng vai trò rất quan trọng. Chương trình Ngữ văn của Mỹ đã chỉ ra rằng trong chương trình đọc hiểu của trường phổ thông tỷ lệ VBTT được giảng dạy ngày một tăng lên theo cấp lớp: Lớp VB văn học VB thông tin 4 50% 50% 8 45% 55% 12 30% 70% [5, tr.5] Theo chương trình Ngữ văn của Mỹ: “Phần lớn chương trình đọc hiểu bắt buộc trong những trường cao đẳng và chương trình đào tạo nhân lực là những VB được viết theo cấu trúc VBTT và chứa đựng nhiều thử thách về nội dung” [5, tr.4]. Do đó chương trình giáo dục phổ thông phải quan tâm đến VBTT trong việc rèn luyện SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019) 32 kỹ năng đọc hiểu để học sinh được chuẩn bị đầy đủ hơn trước khi bước vào những bậc học cao hơn trong tương lai. Vì vậy, theo chương trình của Mỹ, tỷ lệ đọc hiểu VB văn học sẽ giảm dần, còn tỷ lệ của VBTT sẽ tăng dần theo cấp lớp và chiếm khối lượng đáng kể trong chương trình đọc hiểu đế đáp ứng nhu cầu nghề nghiệp và cuộc sống của người học trong tương lai. 3.2.2. Định hướng về sự đa dạng kiểu loại văn bản thông tin - Chương trình Ngữ văn của Singapore đã chia VBTT (informational text)/ VB chức năng (functional text) thành hai tiểu loại: “VBTT (informational text) (chẳng hạn như VB hành chính, VB kể lại sự thật việc thật, VB tường thuật thông tin và VB giải thích) thường trình bày các ý chính và có những ý chi tiết hỗ trợ; còn VB trình bày, bình luận (exposition) lại trình bày mối liên hệ giữa các lập luận (chẳng hạn như tiểu sử, các bài báo, tạp chí, tập san)” [9, tr.34]. - Chương trình Ngữ văn của Mỹ xác định VBTT (informational texts) được dạy với những loại cụ thể như: Trong chương trình từ mẫu giáo đến lớp 5, VBTT được xác định với những loại cụ thể như: “VB phi hư cấu có tính văn chương (Literacy Nonfiction) gồm tiểu sử và tự truyện; VB về lịch sử, khoa học (Historical, Scientific Texts) gồm sách viết về lịch sử, khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và nghệ thuật; VB thuộc lĩnh vực kỹ thuật (Technical Texts) gồm những VB hướng dẫn, những mẫu đơn và những VB trình bày về nhiều lĩnh vực được thể hiện dưới dạng đồ thị, biểu đồ, sơ đồ hoặc dữ liệu thông tin đã được số hóa, v.v.” [5, tr.31]. Trong chương trình từ lớp 6 đến lớp 12, VBTT chỉ còn được giảng dạy với một loại là VB phi hư cấu có tính văn chương (Literacy Nonfiction) được chia thành những tiểu loại cụ thể như: “những kiểu VB giải thích; VB thể hiện sự tranh luận; VB chức năng dưới hình thức những bài tiểu luận, những bài phát biểu, nói chuyện, những mẩu ý kiến cá nhân; bài tiểu luận về nghệ thuật hay văn học; tiểu sử; tự truyện; bài báo; VB miêu tả; báo cáo về các vấn đề lịch sử, khoa học, kỹ thuật hoặc kinh tế (bao gồm cả những nguồn tư liệu đã được số hóa) dành cho đại chúng.” [5, tr.57] - Chương trình Ngữ văn của Úc quy định các kiểu loại cụ thể của VBTT (informative texts) và VB thuyết phục (persuasive texts) như sau: VB thông tin (informative text): “Loại văn bản này bao gồm những kiểu VB cụ thể như VB giải thích và miêu tả các hiện tượng tự nhiên, VB thuật lại các sự kiện, VB hướng dẫn, VB trình bày các quy tắc và luật lệ, quy định cũng như những VB tường thuật tin tức ngắn gọn.” [1, tr.200]. VB thuyết phục (persuasive text): “Loại VB này bao gồm những VB quảng cáo; những VB thể hiện sự tranh luận, thảo luận; những bài bút chiến, luận chiến; những bài luận có sức thuyết phục và cả những bài báo.” [1, tr.200]. Từ đó, có thể nhận thấy trong chương trình Ngữ văn của một số nước, VBTT được dạy với sự đa dạng về kiểu loại. Mặc dù đa dạng về kiểu loại nhưng nhìn chung đó đều là những VB có nội dung liên quan trực tiếp đến thế giới thực, không mang màu sắc hư cấu, tưởng tượng. Tuy nhiên, chương trình Ngữ văn của Mỹ đã có một số sự khác biệt khi xếp những VB thể hiện sự tranh luận vào nhóm VBTT trong khi chương trình của Úc lại gọi kiểu VB ấy là NGUYỄN THỊ NGỌC THÚY TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 33 VB thuyết phục, còn chương trình Singapore lại xếp nó vào nhóm VB trình bày, bình luận và các nước thường đặt kiểu VB này trong thế tương quan với VBTT. Chương trình Ngữ văn của Việt Nam sau năm 2018 cũng đã xác định VB nghị luận là một loại VB riêng mà người học cần phải tìm hiểu bên cạnh VB văn học, VBTT. Ngoài ra, chương trình Mỹ cũng đã xác định rõ VB không liên tục (VB có thông tin được trình bày dưới dạng đồ thị, biểu đồ, sơ đồ, số hóa) cũng là một dạng của VBTT – điều mà chương trình của một số nước chưa đề cập đến một cách tường minh. 3.2.3. Định hướng về chuẩn đầu ra của việc dạy học văn bản thông tin Trong chương trình Ngữ văn của một số nước, chuẩn đầu ra của việc dạy học VBTT được thiết kế rất chi tiết, cụ thể; chủ yếu hướng đến việc hình thành và rèn luyện năng lực tiếp nhận và tạo lập VBTT cho người học. - Chương trình Ngữ văn của Singapore đã xác định rõ những kỹ năng, chiến lược, thái độ và hành vi cần phải đạt được khi đọc và quan sát VBTT (informational texts)/ VB chức năng (functional texts) ở bậc trung học như sau: + Về bố cục VB: Xác định những đặc điểm thuộc về kỹ thuật in ấn và trực quan; xác định những đặc điểm của VB; nhận diện mô hình cấu trúc của VB. + Về sự phản hồi đối với VB: Dự đoán nội dung của VB dựa vào kiến thức nền; những đặc điểm thuộc về kỹ thuật in ấn và trực quan; mô hình và cấu trúc tổ chức VB. + Giải thích những dự đoán về nội dung của VB có thể chấp nhận được không hay phải thay đổi, điều chỉnh. Tại sao? + Trình bày lại ý tưởng chính và những chi tiết quan trọng. + Kiểm tra/ nghiên cứu những ý kiến tranh luận, trái chiều đối với một vấn đề, bao gồm cả chất lượng của những tranh luận ấy. + Xác định và đưa ra những bằng chứng chứng minh cho những tranh luận, gồm có: sự kiện; nguyên nhân; yêu cầu đặt ra đối với những người có thẩm quyền; sử dụng phương pháp logic trong tranh luận. + Nhận xét cách sử dụng ngôn ngữ của tác giả đã thay đổi như thế nào cho phù hợp với mục đích và đối tượng hướng đến của VB để đạt hiệu quả như mong muốn. [9, tr.45] - Trong chương trình Ngữ văn của Mỹ, mục tiêu cần đạt của việc dạy học VBTT chủ yếu cũng hướng đến kỹ năng đọc hiểu. Chẳng hạn, việc đọc hiểu VBTT ở lớp 9 – 10 cần phải đạt được những kết quả sau: “Về ý chính và chi tiết: trích dẫn được những chứng cứ mạnh mẽ và xuyên suốt VB để củng cố cho kết quả phân tích đã được thể hiện rõ trong VB cũng như kết quả suy luận từ VB; xác định được ý chính của VB và phân tích sự phát triển của ý chính qua diễn biến của VB, bao gồm cả việc nó hiện lên nổi bật như thế nào trong VB và được chắt lọc, định hình như thế nào qua những chi tiết cụ thể; cung cấp được một bản tóm tắt khách quan về VB; phân tích xem tác giả đã sắp xếp và phân tích hệ thống các ý kiến và sự kiện như thế nào, bao gồm cả trật tự sắp xếp, cách giới thiệu và phát triển các quan điểm cũng như sự nối kết giữa các ý kiến và sự kiện đó. Về kỹ xảo ngôn ngữ được sử dụng trong VB và cấu trúc VB: xác định được ý nghĩa của từ ngữ được sử dụng trong VB, bao gồm ý nghĩa ẩn dụ, ý nghĩa mở rộng, và cả ý nghĩa chuyên môn; phân tích được SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019) 34 những tác động cộng hưởng của việc lựa chọn từ ngữ đối với ý nghĩa và giọng điệu của VB; phân tích chi tiết những ý kiến và sự khẳng định của tác giả đã được phát triển và chắt lọc như thế nào qua những câu văn, đoạn văn đặc biệt hoặc là từ những bộ phận lớn hơn câu, đoạn; xác định được quan điểm hoặc mục đích của tác giả qua VB và phân tích được tác giả đã sử dụng hình thức tu từ nào để phát triển quan điểm hoặc mục đích của mình ” [5, tr.40]. - Trong chương trình Ngữ văn của Úc, VBTT được dạy chủ yếu ở phần kiến thức về ngôn ngữ (Language) và phần kỹ năng đọc viết (Literacy). Chuẩn đầu ra của việc dạy VBTT trong chương trình của Úc không được tách thành phần riêng như trong chương trình Ngữ văn của Singapore và Mỹ. Trong phần kiến thức về ngôn ngữ (Language), học sinh thường được học về VBTT qua những hiểu biết liên quan đến cấu trúc và tổ chức của VB, cách thức sử dụng ngôn ngữ để thể hiện và phát triển ý tưởng. Còn ở phần kỹ năng đọc viết (Literacy), chuẩn đầu ra đối với việc dạy học VBTT là những nội dung liên quan đến kỹ năng đọc và viết VB trong ngữ cảnh, kỹ năng sử dụng ngôn ngữ trong sự tương tác với những cá nhân khác, kỹ năng hiểu – phân tích – đánh giá các ý kiến, thông tin, vấn đề từ nhiều nguồn khác nhau và kỹ năng tạo lập VB. Ở đây, chúng tôi xin nêu ra một số ví dụ cụ thể về chuẩn đầu ra trong chương trình Ngữ văn lớp 6 của Úc mà chúng tôi cho rằng có liên quan đến việc dạy học VBTT: “Tìm hiểu đa dạng các loại VB từ VB hàng ngày, VB hành chính, VB văn học và VBTT; thảo luận về những yếu tố liên quan đến cấu trúc VB và những đặc điểm ngôn ngữ; so sánh cấu trúc tổng thể và hiệu quả sự lựa chọn của tác giả ở hai hay nhiều VB.” [1, tr.108] “Quan sát xem chuỗi các sự kiện liên tiếp được thể hiện bằng những phương tiện hình ảnh như thế nào, bao gồm cả những tranh hài hước, chuỗi hình ảnh được sắp xếp theo dòng thời gian, những biểu đồ có tính quá trình, biểu đồ phát triển, biểu đồ chu trình, chuỗi hình ảnh trong những quyển sách hình ảnh.” [1, tr.110] “So sánh nhiều VB với nhau bao gồm cả những VB đa phương tiện để tìm hiểu các cách khác nhau mà các VB đã sử dụng để trình bày ý kiến và sự kiện.” [1, tr.114] Từ việc khảo sát ấy, chúng tôi nhận thấy chuẩn đầu ra được xác định rõ là vừa cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về loại VB này, vừa phát triển cho các em những kỹ năng cụ thể để tương tác với loại VB này trong cuộc sống, đó là những kỹ năng liên quan đến việc tạo lập và tiếp nhận VB trong hoạt động giao tiếp, cụ thể là kỹ năng đọc và viết. Do đó, có thể nói chương trình dạy học VBTT ở một số nước đã hướng đến việc phát triển năng lực tạo lập và tiếp nhận loại VB này cho người học. 3.3. Một số gợi ý từ việc khảo sát chương trình dạy học văn bản thông tin của một số nước trên thế giới Thứ nhất, trong chương trình Ngữ văn của chúng ta sau năm 2018, VBTT nên được cân nhắc giảng dạy ở một mức độ phù hợp với vị trí quan trọng của loại VB này trong cuộc sống. Nếu chúng ta chỉ coi trọng VB văn học mà quên đi vai trò của VBTT trong việc chuẩn bị kỹ năng đọc hiểu cho học sinh thì các em sẽ gặp nhiều khó khăn trong công việc và cuộc sống khi VBTT là đối tượng mà các em phải tiếp NGUYỄN THỊ NGỌC THÚY TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 35 cận nhiều hơn và thường xuyên hơn. Thứ hai, khi thiết kế nội dung giảng dạy VBTT trong chương trình Ngữ văn sau năm 2018, các tác giả sách giáo khoa nên lưu ý đến tính đa dạng của kiểu loại VB này để giúp học sinh tiếp cận càng nhiều kiểu loại VBTT cụ thể càng tốt vì đây chủ yếu là những dạng VB mà các em tiếp xúc hàng ngày. Đó cũng là một trong những tiêu chí để học sinh cảm thấy môn Ngữ văn thiết thực, gắn bó chặt chẽ với cuộc sống và công việc của họ. Thứ ba, việc dạy học đọc hiểu loại VB này trong chương trình hiện hành ở nước ta tuy có được đề cập đến nhưng tỷ lệ chưa tương xứng với vai trò quan trọng của VB trong cuộc sống. Trong chương trình Ngữ văn trung học phổ thông hiện hành của nước ta, VBTT được thể hiện dưới hình thức những VB cung cấp cho người học thông tin liên quan đến lịch sử văn học, lý luận văn học và những vấn đề cấp thiết trong cuộc sống4. Theo quan niệm của chương trình hiện hành, VB nghị luận sẽ được nhìn nhận như một tiểu loại trong VB văn học. Vì vậy nếu quan niệm VBTT là những VB chủ yếu dùng để cung cấp thông tin thì tỷ lệ xuất hiện của loại VB này trong nội dung dạy học đọc hiểu của bộ sách giáo khoa Ngữ văn Cơ bản bậc trung học phổ thông được thể hiện như sau: Khối lớp Tỷ lệ VBTT (không bao gồm VB nghị luận) 10 17.4% 11 14.6% 12 17.5% Những con số thống kê cho thấy sự xuất hiện của VBTT trong chương trình đọc hiểu hiện nay của nước ta chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn trong toàn bộ hệ thống VB bắt buộc của chương trình Ngữ văn trung học phổ thông. Hơn nữa, đây vẫn là những bài học được thiết kế trong mạch chương trình theo định hướng nội dung nên mục tiêu chủ yếu vẫn là tìm hiểu nội dung của VB chứ chưa hướng đến việc hướng dẫn người học hình thành và phát triển năng lực đọc hiểu VBTT. Chẳng hạn như mức độ cần đạt của nhóm VB liên quan đến vấn đề quá trình văn học ở lớp 10 đã được chương trình xác định như sau: “Hiểu được những nét chính về quá trình phát triển và những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam; hiểu được những nét chính về đặc trưng và giá trị của văn học dân gian Việt Nam; hiểu được những nét chính về quá trình phát triển, đặc điểm và thành tựu cơ bản” [2, tr.153]. Nhìn chung, cách tiếp cận ấy chủ yếu vẫn hướng đến nội dung của VB. Vì thế từ kinh nghiệm xây dựng chương trình dạy học VBTT của một số nước, chúng tôi hi vọng rằng chương trình của chúng ta sau năm 2018 sẽ chú ý nhiều hơn đến việc dạy loại VB này theo hướng phát triển năng lực cho người học. 4. Kết luận Trên cơ sở khảo sát việc dạy học VBTT trong chương trình Ngữ văn của một số nước trên thế giới, chúng tôi tiến hành xác lập các khái niệm liên quan đến VBTT và tìm hiểu định hướng dạy học VBTT trong chương trình của các nước ấy. Từ đó, chúng tôi đã đưa ra những gợi ý đối với việc dạy học VBTT trong chương trình Ngữ văn ở nước ta sau năm 2018. Những định hướng ấy được hi vọng góp phần làm nên những thay đổi căn bản của chương trình Ngữ văn sau năm 2018, hướng đến việc phát triển năng lực sử dụng ngôn ngữ cho học sinh. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019) 36 Chú thích: 1 Một trong hai mục tiêu quan trọng trong CT Tiếng Anh của Singapore là: “Nghe, đọc và quan sát với thái độ phê phán, đánh giá, sự chính xác; hiểu và đánh giá được những VB thuộc hai loại VB là VB văn học và VB thông tin/ VB chức năng ở cả dạng VB in và VB đa phương tiện.” [9, tr.10] 2 Khái niệm về từng loại VB được xác định dựa theo mục đích của VB, trong đó VB thông tin và VB thuyết phục được định nghĩa như sau: VB thông tin (informative text): “là những VB mà mục đích chính là cung cấp thông tin. Chúng bao gồm những VB có nội dung quan trọng về phương diện văn hóa trong xã hội và nội dung thông tin có thể được đánh giá như một kho lưu trữ tri thức hoặc chỉ là một phần của cuộc sống hàng ngày.” [1, tr.200] VB thuyết phục (persuasive text): “là những VB mà mục đích chính là đưa ra một quan điểm và thuyết phục người đọc, người xem hoặc người nghe.” [1, tr.200] 3 Theo Duke và Tower (2004), VB phi hư cấu được chia thành 5 loại như sau: VBTT, sách trình bày khái niệm, VB miêu tả quá trình, tiểu sử và những VB là tài liệu tham khảo. Cách sử dụng thuật ngữ VBTT (informational text) của họ hẹp hơn cách mà các nhà nghiên cứu khác vẫn thường sử dụng. 4 Trong chương trình Ngữ văn hiện hành (ban hành năm 2006), những VB đề cập đến những vấn đề cấp thiết trong cuộc sống được gọi là VB nhật dụng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. ACARA (2018), The English – The Australian Curriculum. 2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn. 4. California Department of Education (2007), Language Arts Framework for California Public Schools (Kindergarten Through Grade Twelve). 5. Common Core State Standards Initiative (2017), Common core standards for English language arts & literacy in history/social studies, science, and technical subjects. 6. Duke, N. K. (2003), Reading and writing informational text in the primary grades, Scholastic Teaching Resources. 7. GOV.UK (2013), The National Curriculum in England (Framework Document).. 8. Maloch, B., & Bomer, R. (2013), “Informational texts and the common core standards: What are we talking about, anyway?”, Language Arts, 90(3), 205. 9. Ministry of Education Singapore (2010), English Language Syllabus 2010 - Primary & Secondary (Express/ Normal [Academic]). 10. Moss, B. (2004), “Teaching expository text structures through information trade book retellings”, The reading teacher, 57(8), 710- 718. 11. New Zealand Ministry of Education (2013), The New Zealand Curriculum. 12. Wikipedia, the free encyclopedia. Non-fiction. Ngày nhận bài: 20/7/2016 Biên tập xong: 15/02/2019 Duyệt đăng: 20/02/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf65_4918_2214970.pdf
Tài liệu liên quan