Tài liệu Vấn đề giảng dạy văn học địa phương trong nhà trường Phổ thông - Lê Trà My: 83
HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2018-0064
Educational Sciences, 2018, Volume 63, Issue 5, pp. 83-92
This paper is available online at
VẤN ĐỀ GIẢNG DẠY VĂN HỌC ĐỊA PHƯƠNG
TRONG NHÀ TRƯỜNG PHỔ THÔNG
Lê Trà My1 và Đỗ Thị Bích Thủy2
1Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
2 Khoa Xã hội và Du lịch, Trường Đại học Hoa Lư, Ninh Bình
Tóm tắt. Xuất phát từ mục tiêu của chương trình giáo dục và môn Ngữ văn, văn học địa
phương đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường phổ thông. Từ việc tìm hiểu trực trạng,
những vấn đề đặt ra khi dạy học văn học địa phương và trên cơ sở chương trình địa phương
và văn học địa phương trong định hướng chương trình sách giáo khoa mới, bài viết đã đề xuất
những cách thức giảng dạy văn học địa phương ở trường phổ thông, đó là: Thiết kế bài giảng
theo chủ đề; Dạy tích hợp, liên môn; Cho học sinh tiếp nhận văn học địa phương qua các hoạt
động trải nghiệm, sáng tạo.
Từ khóa: Văn học địa phương, giảng dạy văn học đ...
10 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 405 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vấn đề giảng dạy văn học địa phương trong nhà trường Phổ thông - Lê Trà My, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
83
HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2018-0064
Educational Sciences, 2018, Volume 63, Issue 5, pp. 83-92
This paper is available online at
VẤN ĐỀ GIẢNG DẠY VĂN HỌC ĐỊA PHƯƠNG
TRONG NHÀ TRƯỜNG PHỔ THÔNG
Lê Trà My1 và Đỗ Thị Bích Thủy2
1Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
2 Khoa Xã hội và Du lịch, Trường Đại học Hoa Lư, Ninh Bình
Tóm tắt. Xuất phát từ mục tiêu của chương trình giáo dục và môn Ngữ văn, văn học địa
phương đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường phổ thông. Từ việc tìm hiểu trực trạng,
những vấn đề đặt ra khi dạy học văn học địa phương và trên cơ sở chương trình địa phương
và văn học địa phương trong định hướng chương trình sách giáo khoa mới, bài viết đã đề xuất
những cách thức giảng dạy văn học địa phương ở trường phổ thông, đó là: Thiết kế bài giảng
theo chủ đề; Dạy tích hợp, liên môn; Cho học sinh tiếp nhận văn học địa phương qua các hoạt
động trải nghiệm, sáng tạo.
Từ khóa: Văn học địa phương, giảng dạy văn học địa phương, giáo dục phổ thông
1. Mở đầu
Trong dòng chảy của văn học nói chung, văn học địa phương (VHĐP) giữ một vai trò hết sức
quan trọng. Với “những nét kết tinh nhất, như là đặc trưng bền vững của con người và cuộc sống
xứ sở qua nhiều thời đại” [3;tr72], văn học địa phương giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về truyền
thống văn hóa, lịch sử và con người nơi mình đang sinh sống; khơi gợi tình yêu, niềm tự hào về
quê hương, xứ sở. Từ đó, mỗi cá nhân biết giữ gìn và phát huy những giá trị bản sắc tốt đẹp của
địa phương, bồi đắp bề dày văn hóa dân tộc. Từ tầm quan trọng của văn học địa phương, môn
Ngữ văn của chương trình Trung học cơ sở (THCS) đã triển khai một số tiết giới thiệu nội dung
địa phương. Điều này giúp học sinh gắn kiến thức nhà trường với những vấn đề thực tiễn –
“những vấn đề đang đặt ra cho toàn bộ cộng đồng (dân tộc và nhân loại) cũng như cho mỗi địa
phương, nơi các em đang sinh sống”; đồng thời giúp học sinh “hiểu biết và hòa nhập hơn với môi
trường mà mình đang sống, có ý thức tìm hiểu, góp phần giữ gìn và bảo vệ các giá trị văn hóa của
quê hương” [13;tr230]. Trên tinh thần đó, việc nâng cao chất lượng dạy và học VHĐP là một vấn
đề cần được quan tâm.
Đề tìm hiểu thực trạng giảng dạy VHĐP ở nhà trường phổ thông hiện nay, chúng tôi đã chọn
và tiến hành lập phiếu điều tra, phỏng vấn, trao đổi với giáo viên và học sinh THCS tại Ninh Bình.
Chúng tôi chưa có điều kiện tìm hiểu trên diện rộng thực trạng giảng dạy văn học địa phương ở
các tỉnh thành, chỉ lấy kết quả điều tra ở một số trường THCS của tỉnh Ninh Bình để ghi nhận
những vấn đề thực tế, từ đó có những đánh giá và đề xuất phù hợp. Phạm vi khảo sát bao gồm các
trường: THCS Lê Hồng Phong, THCS Trương Hán Siêu, THCS Ninh Tiến (Thành phố Ninh
Bình); THCS Quang Trung (Thành phố Tam Điệp); THCS Ninh Mỹ (Huyện Hoa Lư).
Ngày nhận bài: 19/2/2018. Ngày sửa bài: 19/3/2018. Ngày nhận đăng: 20/3/2018.
Tác giả liên hệ: Lê Trà My. Địa chỉ e-mail: tramyle2311@gmail.com
Lê Trà My và Đỗ Thị Bích Thủy
84
Việc nghiên cứu VHĐP theo hướng ứng dụng giảng dạy trong chương trình phổ thông, đến
nay, mới chỉ dành được sự quan tâm của một số ít nhà nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu vấn
đề này cũng còn rất thưa thớt. Có thể kể đến một số công trình của Nguyễn Đức Hạnh [7], Cao
Thị Hảo [8], nghiên cứu tổng quát về VHĐP các tỉnh miền núi phía Bắc và ứng dụng giảng dạy
trong các cấp học. Bài viết của chúng tôi khảo sát thực trạng cùng các vấn đề liên quan đến việc
giảng dạy VHĐP, đề xuất những hình thức dạy – học VHĐP đáp ứng những yêu cầu giáo dục con
người trong giai đoạn đổi mới tổng thể chương trình sách giáo khoa phổ thông.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Văn học địa phương trong chương trình giáo dục phổ
2.1.1. Chương trình Ngữ văn địa phương ở trường phổ thông hiện nay
Với sứ mệnh quan trọng trong việc “hình thành nhân cách và phát triển năng lực của người
học ở các địa phương”, VHĐP có một “vị trí nhất định không thể thiếu trong chương trình giảng
dạy ở các địa phương” [8]. Với chủ trương đổi mới giáo dục theo hướng “phát triển các năng lực
chung và các năng lực đặc thù môn học liên quan đến từng lĩnh vực giáo dục/ môn học/ hoạt động
trải nghiệm sáng tạo mà mọi học sinh cần có trong cuộc sống, đồng thời tạo điều kiện phát triển
tốt nhất mọi tiềm năng của học sinh hướng tới hình thành cho học sinh năng lực tự học, sáng
tạo, phát hiện và giải quyết vấn đề, giao tiếp và hợp tác, sử dụng công nghệ thông tin và truyền
thông” [10], từ năm học 1999 – 2000, cùng với Lịch sử, Địa lí, chương trình Ngữ văn phổ thông
đã đưa vào thực hiện nội dung địa phương. Việc giảng dạy chương trình Ngữ văn địa phương
(NVĐP) có vai trò quan trọng, bởi vì nó không chỉ “bổ sung, hoàn chỉnh chương trình tổng thể mà
nó còn thể hiện một cách rõ nhất, cụ thể nhất các xu hướng tích hợp liên môn, thực hiện chủ
trương tự chủ trong xây dựng chương trình nhà trường” [10].
Hiện nay, ở cấp THCS, chương trình NVĐP được bố trí ở cả ba phân môn: Văn học, Tiếng
Việt và Tập làm văn với thời lượng theo quy định (từ lớp 6 đến lớp 9) nhằm mục đích: “Liên hệ
chặt chẽ những kiến thức đã học được với những hiểu biết về quê hương và văn học, văn hóa quê
hương. Khai thác, bổ sung và phát huy vốn hiểu biết về văn học địa phương, làm phong phú và
sáng tỏ thêm chương trình chính khóa. Gắn kết những kiến thức học sinh đã học được trong nhà
trường với những vấn đề đang đặt ra cho toàn bộ cộng đồng (dân tộc và nhân loại) cũng như cho
mỗi địa phương, nơi các em đang sinh sống” [13; tr.230].
Trước yêu cầu của việc thực hiện chương trình địa phương, các Sở Giáo dục và Đào tạo đã
biên soạn tài liệu Ngữ văn địa phương để kịp thời đáp ứng mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục trong nhà
trường phổ thông. Cấu trúc chương trình Ngữ văn địa phương gồm ba phần: Văn học, Tiếng Việt
và Tập làm văn. Phần Tiếng Việt chủ yếu là rèn luyện chính tả: phát hiện và khắc phục, sửa chữa
các lỗi chính tả mà người địa phương thường mắc phải (lớp 6, 7); tìm hiểu từ ngữ địa phương (từ
ngữ chỉ quan hệ gia đình, từ ngữ xưng hô) (lớp 8, 9). Phần Tập làm văn tập trung ở các vấn đề:
tập kể chuyện dân gian, viết văn bản thuyết minh về lễ hội, di tích lich sử, danh thắng, nhân vật
lịch sử hoặc văn bản nhật dụng về những vấn đề thực tế đang diễn ra ở địa phương Như vậy, từ
những nội dung trên, quá trình tổ chức dạy học phần Tiếng Việt và Tập làm văn tương đối thuận
lợi. Phần VHĐP, các tác phẩm thuộc nhiều thể loại như: thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, tục
ngữ, ca dao, chèo (văn học dân gian); thơ, truyện ngắn, tiếu thuyết (trích đoạn), kí. Các kiểu văn
bản được sử dụng gồm miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, nhật dụng đã có tác dụng đa dạng hóa hoạt
động tiếp nhận của người học. Tuy nhiên, quá trình giảng dạy VHĐP còn gặp một số khó khăn.
Trong bài viết, chúng tôi tập trung vào phần VHĐP để nghiên cứu thực trạng, đề xuất những cách
thức tiếp cận góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy VHĐP trong nhà trường.
Vấn đề giảng dạy văn học địa phương trong nhà trường phổ thông
85
2.1.2. Thực trạng giáo dục VHĐP ở trường phổ thông hiện nay
Dựa trên sự quan sát, tìm hiểu và các tài liệu có được, chúng tôi nhận ra một số vấn đề lớn từ
chương trình đến thực tiễn giảng dạy văn học địa phương.
Thứ nhất, về tài liệu giảng dạy và học tập: Dựa trên khung chương trình của Bộ, Sở Giáo dục
và Đào tạo biên soạn lựa chọn tác giả, văn bản tác phẩm VHĐP để đưa vào dạy học trong chương
trình phổ thông, nên chưa có sự đồng bộ, thống nhất. Sách hướng dẫn, tài liệu tham khảo còn ít ỏi,
sơ lược, mới chỉ đáp ứng được phần nào nhu cầu tìm hiểu của người dạy và người học.
Hiện nay, chúng ta thấy các tác phẩm VHĐP được giới thiệu trong chương trình giáo dục phổ
thông thường được sắp xếp theo trật tự thời gian: văn học dân gian, văn học trung đại và văn học
hiện đại. Việc sắp xếp như vậy có ưu điểm là học sinh nhận thấy được những bước chuyển mình
của văn học, của đời sống con người qua thời gian lịch sử nhưng khó nắm bắt được những đặc
trưng văn hóa của khu vực, địa phương mình sinh sống cũng như sự liên hệ lớn hơn là vùng miền
và so với các vùng miền khác trong cả nước.
Thứ hai, về phía người dạy: Đối với giáo viên, việc tiến hành dạy học VHĐP trong chương
trình phổ thông là việc làm hết sức cần thiết và thiết thực. Nó đáp ứng được mục tiêu giảng dạy,
tăng sự liên hệ giữa kiến thức nhà trường với các vấn đề ở địa phương, tránh được tình trạng của
một bộ phận học sinh học lệch hoặc chỉ biết đến kiến thức lí thuyết mà không có năng lực nhìn
nhận, giải quyết những vấn đề đang đặt ra ngay tại nơi mình đang sinh sống, học tập. Nhận thấy rõ
vai trò quan trọng đó, các thầy cô rất tâm huyết, nhiệt tình, tận tâm đối với bài giảng VHĐP, mong
muốn vừa truyền đạt kiến thức vừa giúp học sinh hình thành các năng lực, phẩm chất cần thiết cho
chính cuộc sống của các em. Tuy nhiên, một số giáo viên cũng cho biết, khi tiến hành bài học
VHĐP cũng gặp không ít khó khăn. Khi tiếp cận và biên soạn tài liệu giảng dạy VHĐP, các thầy
cô chủ yếu vẫn dựa trên tài liệu chung do Sở Giáo dục và Đào tạo cung cấp sau đó tự tìm tòi để
soạn giáo án nên bài giảng còn sơ sài. Theo kết quả từ phiếu điều tra, phương pháp được các thầy
cô sử dụng nhiều nhất vẫn là thuyết trình, vấn đáp nên giờ học còn khô khan, nặng nề.
Thứ ba, về phía người học: Hầu hết học sinh đều nhận thức được tầm quan trọng và có sự
yêu thích đối với VHĐP. Theo các em, học VHĐP, học sinh sẽ được mở mang hiểu biết, kiến thức
thực tế, được bồi đắp thêm tình yêu, niềm tự hào đối với truyền thống lịch sử - văn hóa của địa
phương (Hầu hết các em học sinh THCS Ninh Bình khi được hỏi đều kể được tên các nhân vật
lịch sử, di tích, danh lam thắng cảnh của tỉnh). Trong số các ngữ liệu được đưa vào chương trình
VHĐP, học sinh có hứng thú hơn với các sáng tác văn học dân gian (thần thoại, truyền thuyết, cổ
tích). Một thực trạng nữa mà chúng tôi thấy đó là, hiện nay, hình thức tổ chức dạy học VHĐP
chủ yếu được diễn ra trên lớp với thời lượng chủ yếu là các tiết lí thuyết, nên các em học sinh có
biểu hiện chán nản, học với tính chất đối phó, học để đạt điểm kiểm tra mà không xuất phát từ
hứng thú thực sự. Phương thức lĩnh hội của học sinh chủ yếu vẫn là nghe và ghi nhớ nên các em
thụ động trong việc tiếp nhận kiến thức, chưa phát huy được tính chủ động, tích cực. Các em đều
có mong muốn thay đổi hình thức dạy học, có sự kết hợp giữa học tập với các hoạt động giao lưu,
ngoại khóa và trải nghiệm thực tế.
Như vậy, việc giảng dạy VHĐP trong nhà trường phổ thông hiện nay còn gặp nhiều khó khăn
về nội dung dạy học, phương pháp dạy học, hình thức tổ chức dạy học, tài liệu dạy học Hoạt
động giảng dạy và học tập VHĐP còn nặng về vấn đề truyền đạt kiến thức lí thuyết trên lớp, đáp
ứng mục tiêu, kiến thức được đề ra mà chưa thực sự khơi gợi được hứng thú, say mê học tập của
học sinh. Thực trạng dạy và học VHĐP hiện nay đã đặt ra yêu cầu tìm ra nội dung, hình thức tổ
chức dạy học phù hợp để phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh cũng như nâng cao mục
tiêu, hiệu quả giảng dạy môn học.
Lê Trà My và Đỗ Thị Bích Thủy
86
2.1.3. Chương trình địa phương và VHĐP trong định hướng chương trình sách giáo khoa mới
Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông, chương trình tổng thể của Bộ Giáo dục và Đào tạo
(7/2017) xây dựng trên tinh thần thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội và Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ theo định hướng “phát triển phẩm chất và năng lực của người học, tạo môi
trường học tập và rèn luyện giúp học sinh phát triển hài hoà về thể chất và tinh thần; trở thành
người học tích cực, tự tin, có ý thức lựa chọn nghề nghiệp và học tập suốt đời; có những phẩm
chất tốt đẹp và năng lực cần thiết để trở thành người công dân có trách nhiệm, người lao động có
văn hóa, cần cù, sáng tạo, đáp ứng nhu cầu phát triển của cá nhân và yêu cầu của sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ đất nước trong thời đại toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp mới” [1]. Dựa trên
mục tiêu và yêu cầu cần đạt, chương trình giáo dục phổ thông được Bộ Giáo dục và đào tạo định
hướng gồm hai giai đoạn: giai đoạn giáo dục cơ bản (lớp 1 đến lớp 9) và giai đoạn giáo dục định
hướng nghề nghiệp (lớp 10 đến lớp 12). Chương trình các môn học được định hướng xây dựng có
các môn học, hoạt động giáo dục bắt buộc và các môn học tự chọn. Trong đó, giai đoạn giáo dục
cơ bản ở THCS, các môn học bắt buộc và hoạt động giáo dục bắt buộc gồm: Ngữ văn, Toán,
Ngoại ngữ 1, Giáo dục công dân, Lịch sử và Địa lí, Khoa học tự nhiên, Công nghệ, Tin học, Giáo
dục thể chất, Nghệ thuật; Hoạt động trải nghiệm; Nội dung giáo dục địa phương. Giai đoạn giáo
dục định hướng nghề nghiệp có 5 môn học bắt buộc (Ngữ văn, Toán, Ngoại ngữ 1, Giáo dục thể
chất và Giáo dục Quốc phòng và an ninh); Hoạt động trải nghiệm; Chuyên đề học tập; Nội dung
giáo dục địa phương.
Như vậy, nhìn vào tổng thể chương trình giáo dục phổ thông, chương trình địa phương là
hoạt động quan trọng, bắt buộc, xuyên suốt trong các giai đoạn giáo dục. Thời lượng của chương
trình địa phương trong giáo dục cấp THCS, THPT là 35 tiết/ năm học (140 tiết/ 4 năm học). Theo
định hướng nội dung giáo dục của từng môn học, hoạt động giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo
đưa ra, nội dung giáo dục của địa phương là “những vấn đề cơ bản hoặc thời sự về văn hóa, lịch
sử, địa lí, kinh tế, xã hội, môi trường, hướng nghiệp... của địa phương bổ sung cho nội dung giáo
dục bắt buộc chung thống nhất trong cả nước, nhằm trang bị cho học sinh những hiểu biết về nơi
sinh sống, bồi dưỡng cho học sinh tình yêu quê hương, ý thức tìm hiểu và vận dụng những điều đã
học để góp phần giải quyết những vấn đề của quê hương” [1;tr30]. Nội dung địa phương được
giảng dạy đảm bảo sự phù hợp với từng cấp học. Ở tiểu học, nội dung giáo dục của địa phương
được tích hợp với hoạt động trải nghiệm. Ở trung học cơ sở, trung học phổ thông, nội dung giáo
dục của địa phương được tổ chức dưới hình thức chuyên đề. Chương trình giáo dục địa phương sẽ
được các Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức xây dựng chương trình, thẩm định nội dung giáo dục
của địa phương phù hợp với điều kiện của từng vùng miền, cơ sở đào tạo để đưa vào chương trình
giáo dục phổ thông sau khi được Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt, thông qua. Như vậy, chương
trình địa phương đã thể hiện quyền tự chủ, tính linh hoạt của địa phương, nhà trường.
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục hiện nay, việc đưa môn VHĐP vào trong
chương trình giáo dục phổ thông là cần thiết. Được coi là “bảo tàng” lưu giữ những giá trị văn hóa
tinh thần quý báu của mỗi địa phương, dân tộc, bài học VHĐP sẽ bồi đắp cho học sinh vốn hiểu
biết về truyền thống văn hóa của quê hương, quý trọng môi trường mình đang sống. Hơn nữa,
những tiết học VHĐP mang tính liên hệ thực tiễn với cuộc sống của địa phương, cộng đồng giúp
các em hòa nhập với đời sống địa bàn cư trú. Việc xác định nội dung dạy học, hình thức dạy học
VHĐP trong nhà trường phổ thông như thế nào để đáp ứng mục tiêu, yêu cầu của giáo dục trong
thời kì đổi mới đặt ra nhiều vấn đề cần được giải quyết. Hiện nay, chương trình và sách giáo khoa
phổ thông mới đang được khẩn trương triển khai xây dựng, việc xây dựng và thực hiện hiệu quả
chương trình địa phương và VHĐP sẽ góp phần không nhỏ vào công cuộc đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục Việt Nam từ năm 2020.
Vấn đề giảng dạy văn học địa phương trong nhà trường phổ thông
87
2.2. Đề xuất những cách thức giảng dạy VHĐP ở trường phổ thông
Dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể (năm 2017) ở Việt Nam đã khẳng định:
phát triển năng lực người học là một định hướng quan trọng. Mục tiêu của giáo dục không đơn
thuần chỉ trang bị kiến thức, kĩ năng cho học sinh mà chú trọng phát triển năng lực người học.
Năng lực người học là “khả năng làm chủ những hệ thống kiến thức, kĩ năng, thái độ phù hợp
với lứa tuổi và vận hành (kết nối) chúng một cách hợp lí vào thực hiện thành công nhiệm vụ học
tập, giải quyết hiệu quả những vấn đề đặt ra cho chính các em trong cuộc sống” [16;tr8]. Chương
trình giáo dục theo định hướng phát triển năng lực với các năng lực của học sinh được hình thành
và phát triển sau khi kết thúc chương trình giáo dục phổ thông gồm: năng lực chung (năng lực tự
chủ và tự học; năng lực giao tiếp và hợp tác; năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo) và năng lực
chuyên môn (năng lực ngôn ngữ; năng lực tính toán; năng lực tìm hiểu tự nhiên và xã hội; năng
lực công nghệ; năng lực tin học; năng lực thẩm mĩ; năng lực thể chất). Thông qua các môn học và
chương trình giáo dục, các năng lực cần thiết trên của học sinh, từ đó, trang bị cho các em khả
năng giải quyết các vấn đề, tình huống phức hợp trong học tập và thực tiễn đời sống.
Từ những vấn đề trên, chúng tôi xin đề xuất một số hình thức dạy – học VHĐP để góp phần
nâng cao hiệu quả giáo dục địa phương trong nhà trường phổ thông theo định hướng phát triển
năng lực, đáp ứng chủ trương đổi mới của chương trình giáo dục phổ thông mới.
2.2.1. Thiết kế bài giảng theo chủ đề
Dạy học theo chủ đề được hiểu là quá trình tìm tòi những khái niệm, tư tưởng, chủ đề dựa
trên sự giao thoa, tương đồng của các đơn vị kiến thức (lí luận và thực tiễn) của các môn học hoặc
các phần của môn học để xây dựng nội dung bài học có nội dung phong phú hơn, thực tế hơn.
Trên cơ sở đảm bảo nội dung, chương trình dạy học, giáo viên có thể chọn những bài học có sự
liên quan về kiến thức, định hình chủ đề, sau đó, thiết kế hoạt động dạy học theo chủ đề mà không
nhất thiết phải theo trình tự bài/ tiết trong sách giáo khoa, qua đó, tính tích cực, chủ động của cả
giáo viên và học sinh đều được phát huy. Thiết kế bài giảng theo chủ đề sẽ giúp học sinh phát
triển năng lực thẩm mĩ (giúp học sinh bồi đắp tình yêu, tự hào về quê hương bản quán; cảm thụ
cái hay, cái đẹp của tác phẩm VHĐP); năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo (học sinh có cái nhìn
bao quát về chủ đề, có sự huy động, liên hệ kiến thức, phát triển tư duy liền mạch, logic, kết nối
các sáng tác thuộc về các giai đoạn khác nhau để làm sáng tỏ chủ đề dạy học); năng lực tự chủ và
tự học (trên cơ sở cùng chủ đề, học sinh tự mở rộng so sánh với một số sáng tác VHĐP khác, vừa
làm phong phú kiến thức, vừa nâng cao kĩ năng vận dụng tri thức linh hoạt, sáng tạo của học sinh).
Dựa trên nội dung các sáng tác VHĐP, có thể xây dựng chủ đề dạy học VHĐP dựa trên một
số cách thức như: dựa trên hệ thống các sáng tác VHĐP có sự tương đồng về nội dung, đề tài, chủ
đề; xây dựng chủ đề chung cho cả ba phần văn, tiếng Việt, tập làm văn; lựa chọn các môn học xã
hội có sự tương đồng về kiến thức như lịch sử, địa lí, giáo dục công dân để hình thành chủ đề
Trong quá trình dạy học, tùy vào tình hình thực tế, người giáo viên có thể lựa chọn chủ đề, các tác
phẩm, cách thức tiến hành chủ để dạy học giúp học sinh nâng cao hiệu quả tiếp nhận.
Dưới đây, chúng tôi xin đưa ra một ví dụ về dạy học chủ đề VHĐP dựa trên hệ thống các
sáng tác VHĐP có sự tương đồng về nội dung, đề tài, chủ đề trong trương trình NVĐP của tỉnh
Quảng Ninh. Khi triển khai chủ đề dạy học: “Cảnh đẹp di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh” (lớp
6 - 7), giáo viên có thể lựa chọn, triển khai chủ đề trên hệ thống các sáng tác sau:
- Văn học dân gian: Sự tích vịnh Hạ Long, Bái Tử Long; Sự tích đảo Trà Cổ [17]; một số câu
tục ngữ, cao dao dân ca nói về các di tích, danh thắng của Quảng Ninh (ví dụ: “Bạch Đằng giang
là sông cửa ải/ Tổng Hà Nam là bãi chiến trường” (di tích); “Hạ Long có núi Bài Thơ/ Có hang
Đầu Gỗ, có chùa Long Tiên” (thắng cảnh); )
- Văn học trung đại: Vân Đồn [17]
Lê Trà My và Đỗ Thị Bích Thủy
88
- Văn học hiện đại: Thăm vịnh Hạ Long, Bình Ngọc (đọc thêm), Ngự chế Thiên Nam động
chủ đế (đọc thêm) [17].
Cũng với chủ đề đó, NVĐP Thái Bình có thể triển khai chủ đề trên hệ thống tác phẩm như:
- Văn học dân gian: Sự tích đền Tiên La, Miền đất và con người địa phương trong ca dao
Thái Bình, Tục ngữ Thái Bình [4].
- Văn học trung đại: Chiều xuân ở thôn Trừng Mại [4]
- Văn học hiện đại: Chùa Keo ở Thái Bình, Chiều chùa Keo [4]
2.2.2. Dạy tích hợp, liên môn
Dạy học tích hợp là “hành động liên kết một cách hữu cơ, có hệ thống các đối tượng nghiên
cứu, học tập của một vài lĩnh vực môn học khác nhau thành nội dung thống nhất, dựa trên cơ sở
các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập trong các môn học đó nhằm hình thành ở học
sinh các năng lực cần thiết” [16; tr13]. Giáo trình Phương pháp dạy học ngữ văn ở trường trung
học cơ sở cũng đã nêu ra định nghĩa, dạy học tích hợp trong dạy học ngữ văn là “phương hướng
phối hợp (integrate – combination) một cách tốt nhất các quá trình học tập của nhiều môn học
cũng như các phần môn như Văn, tiếng Việt, Làm văn trong một môn như Ngữ văn” [9; tr15].
Hoạt động dạy học tích hợp sẽ giúp học sinh vận dụng sáng tạo, biết phối hợp những kiến thức, kĩ
năng, phương pháp của nhiều môn học để giải quyết vấn đề. Từ đó, tạo cho các em tâm thế chủ
động, sáng tạo trong việc lĩnh hội, xử lí các tri thức phù hợp với tầm đón (khối lượng kiến thức
văn hóa đã học, hiểu biết về vấn đề đời sống) của mình. Vì thế, dạy học tích hợp, liên môn sẽ là
hình thức dạy học phù hợp cho việc dạy học theo hướng tiếp cận năng lực. Trong quá trình học
tập, để giải quyết vấn đề, học sinh phải sử dụng nhiều thao tác như giải thích, phân tích, lập luận,
so sánh từ đó tạo điều kiện phát triển các năng lực: năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng
lực giao tiếp và hợp tác, năng lực thẩm mĩ Để tạo nên sự liên kết kiến thức trong quá trình dạy
học, cả giáo viên và học sinh phải có sự chuẩn bị từ tích lũy kiến thức, người giáo viên phải tìm ra
được sự tương đồng về kiến thức giữa các môn, phân môn để khai thác, so sánh. Ở đây, chúng tôi
đưa ra một số cách thức tích hợp vào dạy học VHĐP nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo, hứng
thú của người học.
Tích hợp với chương trình ngữ văn chính khóa: Chương trình NVĐP do các Sở Giáo dục và
Đào tạo của mỗi địa phương biên soạn nhưng “các nội dung địa phương phải gắn chặt với các vấn
đề, các nội dung đã học trong chương trình chính khóa của mỗi lớp, mỗi cấp học và góp phần bổ
sung, làm phong phú, sáng tỏ hơn, sâu sắc hơn cho các nội dung chính khóa” [14; tr8], bởi thế,
dạy học phần VHĐP, giáo viên có thể tích hợp với văn học chính khóa để làm sáng tỏ các vấn đề
như: đề tài, nội dung, kiểu nhân vật, thể loại văn học Từ đó, học sinh biết cách xác lập mối
quan hệ giữa các tác phẩm, tìm ra được sự tương quan giữa các vấn đề được phản ánh trong tác
phẩm VHĐP với văn học chính khóa. Khi dạy bài “Tìm hiểu sưu tầm ca dao, dân ca Ninh Bình” [12]
người giáo viên có thể gợi mở học sinh tích hợp với bài “Những câu hát về tình yêu quê hương,
đất nước, con người” trong SGK phần văn học chính khóa để tìm hiểu thêm về những câu ca dao
– dân ca ngợi ca vẻ đẹp của quê hương đất nước, con người Việt Nam; từ đó mở rộng thêm tri
thức của học sinh trong việc tìm ra những nét chung của ca dao – dân ca Việt Nam và nét riêng
của ca dao – dân ca Ninh Bình. Khi dạy bài Cô Tô (SGK lớp 6), giáo viên có thể lựa chọn, tích
hợp các bài VHĐP phù hợp để học sinh không chỉ yêu mến, tự hào về quần đảo Cô Tô mà còn
còn những vùng biển đảo thiêng liêng khác của Tổ quốc như Đồ Sơn, điểm du lịch bốn mùa, Kì
thú Cát Bà [11]; Sự tích vịnh Hạ Long, Bái Tử Long [17]. Ngay trong phần luyện tập giáo viên có
thể cho học sinh sưu tầm, giới thiệu, thuyết trình, viết đoạn văn liên hệ với những món ăn đặc sản
của địa phương Tùy vào nội dung bài học, giáo viên có thể chủ động, linh hoạt trong việc lựa
chọn tác phẩm, cách thức tích hợp để nâng cao hiệu quả giảng dạy.
Vấn đề giảng dạy văn học địa phương trong nhà trường phổ thông
89
Tích hợp ba phần Văn, Tiếng việt, Tập làm văn: Trong chương trình NVĐP, cả ba phần
VHĐP là Văn, Tiếng Việt và Tập làm văn đều có mối liên hệ mật thiết, gắn bó với nhau. Giáo
viên trong quá trình giảng dạy có thể hướng dẫn cho học sinh tích hợp các phần này với nhau một
cách linh hoạt, nâng cao hiệu quả tiếp nhận. Giáo viên có thể sử dụng một văn bản VHĐP làm đối
tượng nghiên cứu trong giờ học văn, sau đó khai thác ngữ liệu trong văn bản đó để dạy tiếng Việt,
đồng thời giúp học sinh phân tích chất văn chương trong tác phẩm định hướng cho học sinh viết
tập làm văn. Ví dụ khi dạy bài Tập làm văn Luyện tập viết một đoạn văn biểu cảm về một phong
cảnh đẹp ở địa phương [17] giáo viên có thể tích hợp đến các tác phẩm VHĐP như Thăm vịnh Hạ
Long, Bình Ngọc [17] hoặc sưu tầm thêm các văn bản khác ngoài tài liệu trong sách Ngữ văn địa
phương phù hợp với nội dung giảng dạy, tầm đón nhận của học sinh như tản văn Hải Phòng vào
thu của Lê Trung Cường; Thành phố của sắc đỏ mùa hè – Dương Thị Nhụn (đăng trên Tạp chí
Cửa biển của Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Hải Phòng – www.cuabien.vn) để các em vừa có
thêm sự tưởng tượng, cách dùng từ ngữ nghệ thuật làm bài viết văn trở nên sinh động, hấp dẫn;
vừa có thêm hiểu biết về những tác giả, tác phẩm VHĐP hiện đại.
Tích hợp liên môn (với các môn khoa học xã hội): Dạy học tích hợp liên môn được dựa trên
cơ sở sự tương đồng, giao thoa kiến thức giữa hai hay nhiều môn học. Hoạt động dạy học này có
ưu điểm tránh được sự trùng lặp kiến thức, tiết kiệm thời gian học, tăng cường tính chủ động, sáng
tạo của học sinh trong việc lĩnh hội tri thức, vận dụng tri thức để giải quyết vấn đề thực tiễn.
Trong bài giảng VHĐP có thể tích hợp với văn hóa, lịch sử địa phương, địa lí địa phương, giáo
dục công dân và lồng ghép các vấn đề của địa phương như môi trường, giáo dục đạo đức thanh
thiếu niên Ở đây, chúng tôi xin nêu ví dụ về tích hợp giữa VHĐP và lịch sử địa phương. Khi
dạy truyền thuyết Sự tích đền Tiên La [4] giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh liên hệ, tìm
hiểu lịch sử hình thành đền Tiên La và lễ hội Tiên La – một trong những lễ hội văn hóa lớn của
Thái Bình, từ đó, thấy được vị trí, mối liên hệ của truyền thuyết với những giá trị lịch sử văn hóa,
lễ hội của địa phương Thái Bình. Đồng thời qua những kiến thức lịch sử, học sinh sẽ hiểu sâu sắc
hơn về văn học, về nội dung cũng như phương thức phản ánh của truyền thuyết trong việc lí giải
và phản ánh lịch sử. Ngay trong một bài dạy, giáo viên có thể vận dụng kiến thức nhiều môn học
để giờ học thêm phong phú, tăng hứng thú cho học sinh và hiệu quả môn học. Để học sinh có thể
hiểu được vẻ đẹp độc đáo của chùa Keo - Thái Bình, trong hoạt động tìm hiểu danh lam thắng
cảnh Thái Bình, ngoài văn bản thuyết minh Chùa Keo ở Thái Bình, Chiều chùa Keo [4] giáo viên
vận dụng tích hợp nội dung liên môn khác như lịch sử (lịch sử hình thành và phát triển của chùa
Keo), kiến trúc (cho học sinh xem video, tranh ảnh về ngôi chùa, giới thiệu kiến trúc độc đáo
trong cách kiến thiết, xây dựng chùa), văn hóa (ý nghĩa của chùa Keo đối với người dân Thái
Bình, với vùng đồng bằng Bắc bộ), giáo dục công dân (trong ý thức, trách nhiệm bảo vệ những
giá trị quý báu của quê hương)
2.2.3. Cho học sinh tiếp nhận VHĐP qua các hoạt động trải nghiệm, sáng tạo
Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học nói chung và dạy học Ngữ văn nói
riêng là hoạt động phù hợp với chủ trương đổi mới chương trình giáo dục và sách giáo khoa theo
định hướng phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh hiện nay. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo
là hoạt động học tập “dựa trên sự huy động tổng hợp kiến thức và kĩ năng từ nhiều lĩnh vực giáo
dục khác nhau để trải nghiệm thực tiễn đời sống nhà trường, gia đình, xã hội, tham gia hoạt động
hướng nghiệp và hoạt động phục vụ cộng đồng dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục,
qua đó hình thành những phẩm chất chủ yếu, năng lực chung và một số năng lực thành phần đặc
thù của hoạt động này như: năng lực thiết kế và tổ chức hoạt động, năng lực định hướng nghề
nghiệp, năng lực thích ứng với những biến động trong cuộc sống và các kĩ năng sống khác” [1;tr29];
là quá trình người học tham gia vào việc “xây dựng kiến thức, hình thành kĩ năng, năng lực qua
các thao tác, hoạt động, hành động của cá nhân với môi trường xã hội, môi trường sống, môi
trường tự nhiên bằng sự nhận thức và cảm xúc của chính mình” [6; tr7]. Đặc trưng cơ bản của
Lê Trà My và Đỗ Thị Bích Thủy
90
hoạt động trải nghiệm sáng tạo là “đặt học sinh trong môi trường hoạt động học tập đa dạng, học
đi đôi với hành, học từ chính hành động của bản thân, học trong nhà trường gắn với giải quyết các
vấn đề thực tiễn của cộng đồng”, dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh được trực tiếp tham
gia các hoạt động trong hoặc ngoài nhà trường [6; tr7]. Hoạt động học tập dựa trên sự trải nghiệm
của học sinh chính là sợi dậy gắn kết giữa đào tạo của nhà trường với cuộc sống. Ưu điểm của
hoạt động trải nghiệm, sáng tạo là khắc phục tâm lí nhàm chán của học sinh khi học những giờ lí
thuyết căng thẳng, kiến thức được các em rút ra từ chính cái mà các em trực tiếp trải nghiệm, trực
tiếp thực hiện. Điều này góp phần giúp học sinh đối mặt, giải quyết với những tình huống thực
tiễn đời sống ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Phương pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm
sáng tạo dựa trên “các phương pháp dạy học tích cực và huy động cảm xúc, kinh nghiệm của cá
nhân người học theo bối cảnh hoạt động, trong suốt quá trình đó, người học thể hiện cảm xúc và
giá trị của mình qua các thách thức, thử thách, đam mê, so sánh, thỏa mãn, kích thích, xác nhận,
khẳng định để chia sẻ các ấn tượng của mình” [6; tr9]. Giáo viên phải chú ý đến điều kiện cụ thể
của lớp, trường, địa phương và có sự phù hợp với lứa tuổi, nhu cầu, đối tượng học sinh để lựa
chọn hình thức phù hợp.
Thông qua một số hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo như: nhóm hình thức
hoạt động thực tiễn (các hoạt động tình nguyện, cắm trại, bảo vệ môi trường); nhóm hình thức
nghệ thuật/ giải trí (thi vẽ tranh, nhiếp ảnh, đóng kịch); nhóm hình thức khám phá/ nghiên cứu
khoa học (tham quan, viết báo cáo điều tra); nhóm hình thức diễn đàn (tọa đàm, thuyết trình,
thảo luận), mỗi học sinh vừa là người trực tiếp tham gia, vừa tự chủ trong việc kiến thiết và xây
dựng các hoạt động cho chính mình, do đó năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp
tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo sẽ được phát huy. Ngoài ra, việc thu nhận những kiến
thức VHĐP từ hoạt động trải nghiệm, sáng tạo sẽ giúp học sinh hình thành các năng lực tìm hiểu
tự nhiên và xã hội (tìm hiểu môi trường, hoàn cảnh sống, hoàn cảnh sáng tác tác phẩm của nhà
văn); năng lực thẩm mĩ (tự cảm nhận vẻ đẹp của địa phương, của tác phẩm văn học qua sự trải
nghiệm cá nhân), năng lực thể chất (các trò chơi sắm vai, diễn kịch). Như vậy, hoạt động trải
nghiệm sáng tạo đã cho thấy ưu thế trong việc dạy học định hướng phát triển năng lực học sinh.
Dạy học VHĐP trong nhà trường phổ thông theo hình thức trải nghiệm sáng tạo phải thông
qua chính hành động thực tế của học sinh. Học sinh sẽ cảm thấy bổ ích, lí thú, hiểu biết thêm về
nhà văn, yêu thích thêm các tác phẩm VHĐP qua các buổi gặp gỡ, giao lưu với các nhà văn địa
phương. Được nghe các nhà văn nói chuyện về cuộc đời, về hoàn cảnh sáng tác, những nội dung,
cảm xúc tác giả gửi gắm trong sáng tác đó tâm hồn các em sẽ được bồi đắp những tình cảm thẩm
mĩ tốt đẹp, hứng thú, say mê trong tiếp nhận, cảm nhận những giá trị đích thực của tác phẩm. Qua
buổi gặp gỡ, các em học sinh có được tâm thế thoải mái, hào hứng khi được trò chuyện, đặt câu
hỏi và nhận được những lời hồi đáp, giảng giải của các nhà văn về những điều liên quan đến tác
phẩm. Kiến thức về tác giả, tác phẩm VHĐP sẽ được các em tự tích lũy, thu thập, ghi chép theo
những cách cảm nhận riêng của mình. Kết thúc buổi giao lưu, gặp gỡ, giáo viên sẽ kiểm tra hiệu
quả tiếp nhận kiến thức của các em (các hình thức như: báo cáo thu hoạch, thuyết trình nhóm),
sau đó, gợi mở, định hướng cho các hoạt động tiếp theo đạt hiệu quả cao hơn.
Các buổi ngoại khóa, dã ngoại tham quan quê hương nhà văn, các di tích lịch sử, danh lam
thắng cảnh được miêu tả trong tác phẩm cũng là một hoạt động trải nghiệm sáng tạo đạt được
nhiều hiệu quả trong giảng dạy VHĐP. Thông qua các buổi thực tế tại địa phương, những kiến
thức lí thuyết trừu tượng được thầy cô truyền dạy trên lớp sẽ được hiện lên sinh động bằng chính
những hình ảnh thực tế, cảm xúc thực do chính các em khám phá, cảm nhận. Từ đó, trí tưởng
tượng, óc sáng tạo, khả năng quan sát; những tình cảm tự hào, khát vọng sống tốt đẹp để tiếp nối
truyền thống lịch sử của địa phương, quê hương của các em được bồi đắp và phát triển. Chẳng hạn
chương trình NVĐP Quảng Ninh, khi dạy bài “Sự tích vịnh Hạ Long, bái Tử Long” [17] giáo viên
có thể cho học sinh tham quan vịnh Hạ Long để các em có thể quan sát, tưởng tượng về sự hóa
Vấn đề giảng dạy văn học địa phương trong nhà trường phổ thông
91
thân của những con rồng làm nên vẻ đẹp kì lạ, hấp dẫn của vịnh Hạ Long, Bái Tử Long; cũng như
những giá trị của kì quan này đối với Quảng Ninh nói riêng và đất nước Việt Nam nói chung. Từ
đó, các em thêm yêu quý, trân trọng, giữ gìn và phát huy vẻ đẹp quý giá của kì quan thiên nhiên
thế giới này.
Hoạt động đóng kịch, sắm vai, sân khấu hóa tác phẩm văn học cũng là hoạt động trải nghiệm
sáng tạo được các em học sinh yêu thích. Hiện nay, mô hình giáo dục nước ta là lấy người học
làm trung tâm, tức là phát huy vai trò chủ thể của học sinh trong hoạt động học tập. Trong tiếp
nhận tác phẩm văn học nói chung, vai trò của người thầy là “thiết kế” còn học sinh chính là những
người “thi công”, nói một cách khác “thầy mở đường cho học sinh bước vào văn bản để học sinh
sống, thể nghiệm, tìm hiểu, nhận định, rút ra kết luận về tư tưởng, tình cảm của tác phẩm” [15].
Chính vì vậy, hoạt động sắm vai, sân khấu hóa tác phẩm văn học làm cho học sinh được trải
nghiệm bằng chính sự nhập vai của mình vào ngoại hình, tính cách, tâm lí của các nhân vật. Từ
thể nghiệm đó, các em rút ra được những hiểu biết về tư tưởng, tình cảm của tác phẩm; được sống
trong thế giới sáng tạo, vừa học vừa chơi nên tạo ra được những giờ học vui nhộn, hào hứng. Sau
mỗi hoạt động trải nghiệm, giáo viên nên có sự tổng hợp, đánh giá kết quả học sinh đã đạt được.
Từ đó đưa ra những sự khuyến khích hoặc rút kinh nghiệm cho những lần tham gia trải nghiệm
sáng tạo sau của học sinh đạt được kết quả tốt hơn.
Các hình thức trải nghiệm sáng tạo trong dạy học VHĐP kể trên sẽ góp phần đem lại cho cả
giáo viên và học sinh những hiểu biết đa dạng, sâu sắc hơn về địa phương; về những tác giả với
những sáng tác có đóng góp cho văn học của địa phương cũng như nền văn học dân tộc; bồi
dưỡng những tình cảm đạo đức, thẩm mĩ tích cực tốt đẹp cho các em: tình yêu quê hương đất
nước, trân trọng những giá trị văn hóa – lịch sử truyền thống của cha ông, biết học tập, tu dưỡng
để trở thành những cá nhân có ích đóng góp cho sự phát triển của địa phương, đất nước. Tuy
nhiên, dạy học VHĐP theo hình thức này thực tế gặp phải những khó khăn về kinh phí, thời gian,
không gian tổ chức. Vì thế, giáo viên cần đa dạng hóa cách tổ chức hoạt động học tập của học
sinh, tùy vào điều kiện của lớp, trường, địa phương đưa ra những hình thức tổ chức dạy học phù
hợp để giảm bớt sự đơn điệu của những giờ học lí thuyết, tạo tâm lí hào hứng cho học sinh trong
mỗi giờ học VHĐP.
3. Kết luận
Việc dạy VHĐP trong trường phổ thông từ chương trình hiện hành đến dự thảo chương trình
giáo dục phổ thông tổng thể cần được xem xét như một quá trình biến đổi, từ phạm vi tư liệu đến
các cách thức dạy – học mà trên hết là thay đổi quan niệm về chức năng VHĐP trong giáo dục địa
phương nói riêng và trong giáo dục nhà trường theo định hướng phát triển năng lực nói chung.
Những đề xuất của chúng tôi về các hình thức dạy – học VHĐP sẽ góp phần khơi dậy hứng thú
tiếp nhận VHĐP ở học sinh, mặt khác, sẽ kết nối hiệu quả bài học trên lớp với các hoạt động trải
nghiệm, kết nối tri thức với những kinh nghiệm sống, nhu cầu cuộc sống của học sinh, kết nối nhà
trường với các vấn đề văn hóa – xã hội – lịch sử - sinh kế của địa phương, đáp ứng những mục
tiêu giáo dục tiên tiến trong thời kì hội nhập quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2017. Chương trình giáo dục phổ thông Chương trình tổng thể,
www.moet.gov.vn.
[2] Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2017. Tài liệu tập huấn dạy học tích hợp ở trường THCS, THPT. Nxb
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
[3] Nguyễn Huệ Chi, 1983, Văn học cổ Hà Bắc và vấn đề nghiên cứu văn học địa phương. Tạp chí
Văn học, số 2.
Lê Trà My và Đỗ Thị Bích Thủy
92
[4] Trần Đình Chung – Phạm Hải Ninh – Phạm Đức Phiệt (đồng chủ biên), 2008. Hướng dẫn học
Ngữ văn địa phương Thái Bình, tập 1, 2, 3, 4 (Dùng cho học sinh lớp 6, 7, 8, 9 các trường
THCS tỉnh Thái Bình).Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
[5] Lê Xuân Đồng (chủ biên), 2013. Ngữ văn 6 - 7, 8 - 9 (Chương trình địa phương tỉnh Thanh
Hóa). Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
[6] Tưởng Duy Hải (chủ biên), 2017. Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học Ngữ
văn THCS. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[7] Nguyễn Đức Hạnh (chủ biên), 2016. Văn học địa phương miền núi phía Bắc. Nxb Đại học Thái
Nguyên, Thái Nguyên.
[8] Cao Thị Hảo, 2015. Vị thế và vai trò của văn học địa phương trong việc phát triển chương trình
đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay,
[9] Nguyễn Thanh Hùng, 2007. Giáo trình Phương pháp dạy học ngữ văn ở THCS. Nxb Đại học
sư phạm, Hà Nội.
[10] Nguyễn Việt Hùng, 2017. Nghiên cứu xây dựng chương trình địa phương trong chương trình
tổng thể môn ngữ văn, www.nguvan.hnue.edu.vn.
[11] Nguyễn Thị Kim Lan (chủ biên), 2011. Ngữ văn 6 – 7, 8 -9 (Tài liệu giáo dục địa phương Hải
Phòng). Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
[12] Phạm Thị Ánh Nguyệt, 2016. Ngữ văn 6 – 7, 8 -9 (Tài liệu giáo dục địa phương tỉnh Ninh
Bình). Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
[13] Nguyễn Khắc Phi (tổng chủ biên), 2002. Sách giáo viên Ngữ văn 6, tập 1. Nxb Giáo dục.
[14] Lê Thị Phượng, Lê Thị Lan Anh, 2015. Phương pháp dạy học ngữ văn địa phương Thanh Hóa
ở Trung học cơ sở. Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
[15] Trần Đình Sử, 2009. Trở về với văn bản văn học - con đường đổi mới căn bản phương pháp
dạy học văn,
[16] Trần Thị Thanh Thủy (chủ biên), 2016. Dạy học tích hợp phát triến năng lực học sinh, quyển 2.
Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
[17] Trương Quốc Trung – Trần Thúy Hạnh, 2011. Ngữ văn địa phương Quảng Ninh (Dành cho học
sinh lớp 6 – 7, 8 - 9). Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
ABSTRACT
The problem of teaching local literature in the school
Le Tra My1 and Do Thi Bich Thuy2
1Hanoi National University of Education , 2Hoa Lu University, Ninh Binh
Stemming from the objective of education programs and the literature subject, local literature
was taught in schools. From the real situation, the issues raised in teaching local literature and the
local curriculum and local literature in the orientation of the new textbook program, the paper
proposes ways local literacy teaching in school, which is: Design of lectures by topic; Integrate,
interdisciplinary and students receive local literature through experiential, creative activities.
Keywords: Local literature, teaching local literature, general education.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5224_9_le_tra_my_9914_2123706.pdf