Tài liệu Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong xây dựng nông thôn mới: Xã hội học, số 4 (116), 2011
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn
22
VẤN ĐỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
BÙI TẤT THẮNG*
I. Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn trong tiến trình
CNH, HĐH đất nước
Trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước, vấn đề
chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế khu vực nông
nghiệp, nông thôn nói riêng luôn được xem như một trong những nội dung chủ yếu, có ý
nghĩa rất quan trọng. Bởi vì, cùng với nhiều tiêu chí khác, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng tỷ trọng của khu vực nông nghiệp giảm đi đồng thời với quá trình gia tăng tỷ
trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ phản ánh mức độ thành công của CNH, HĐH.
CNH là một thời kỳ lịch sử đặc biệt, có khởi đầu và có kết thúc. Nội dung của giai
đoạn lịch sử đặc biệt ấy là: “biến nền sản xuất xã hội chủ yếu dựa trên phương thức sản
xuất nông nghiệp sang phương thức sản xuấ...
9 trang |
Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 1293 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong xây dựng nông thôn mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xã hội học, số 4 (116), 2011
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn
22
VẤN ĐỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
BÙI TẤT THẮNG*
I. Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn trong tiến trình
CNH, HĐH đất nước
Trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước, vấn đề
chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế khu vực nông
nghiệp, nông thôn nói riêng luôn được xem như một trong những nội dung chủ yếu, có ý
nghĩa rất quan trọng. Bởi vì, cùng với nhiều tiêu chí khác, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng tỷ trọng của khu vực nông nghiệp giảm đi đồng thời với quá trình gia tăng tỷ
trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ phản ánh mức độ thành công của CNH, HĐH.
CNH là một thời kỳ lịch sử đặc biệt, có khởi đầu và có kết thúc. Nội dung của giai
đoạn lịch sử đặc biệt ấy là: “biến nền sản xuất xã hội chủ yếu dựa trên phương thức sản
xuất nông nghiệp sang phương thức sản xuất công nghiệp”. Mức độ dài ngắn của quá
trình CNH ở các nước không giống nhau, do phụ thuộc vào nhiều yếu tố, cả khách quan
lẫn chủ quan. Với những nước đi tiên phong trong quá trình CNH (những nước CNH kiểu
cổ điển), quá trình CNH về cơ bản kéo dài hàng trăm năm. Lý do chủ yếu mang tính
khách quan nhiều hơn, do phải trả giá cho sự “dò đường”, xét về mọi phương diện.
Những nước đi sau phân thành nhiều loại: một số ít thành công với thời gian chỉ 2-3 thập
kỷ; nhiều nước khác mất quá nửa thế kỷ tính từ sau thế chiến thứ II, tuyên bố tiến hành
CNH, nhưng đến nay vẫn đang còn “nghèo nàn, lạc hậu”. Lý do thành công và chưa thành
công mang tính chủ quan nhiều hơn, vì về cơ bản, chính sách phát triển luôn có ý nghĩa
quyết định.
Các tiêu chí định lượng về mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế thường bao gồm tỷ
trọng các khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp (nông nghiệp và dịch vụ) trong GDP,
trong tổng lao động xã hội; tỷ trọng giá trị sản phẩm có hàm lượng khoa học công nghệ
cao, sản phẩm qua chế biến trong tổng giá trị sản phẩm hàng hóa
Lịch sử CNH của những nền kinh tế đã hoàn thành quá trình CNH cho thấy rằng,
các mô hình (cách thức tiến hành) CNH có thể khác nhau, nhưng đều có chung đặc điểm
là, lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn thường được CNH, HĐH sau cùng. CNH nông
nghiệp được hiểu là quá trình chuyển bản thân nền sản xuất nông nghiệp sang sản xuất
và kinh doanh theo lối công nghiệp (tại địa bàn nông thôn). Vì vậy, việc hoàn thành quá
trình CNH của cả nền kinh tế sẽ được ghi nhận ở thời điểm đánh dấu sự hoàn thành của
CNH nông nghiệp. Thành ra, theo nguyên lý tốc độ di chuyển của cả đoàn quân không
phải phụ thuộc vào người đi nhanh nhất, mà phụ thuộc vào người đi sau cùng; tốc độ
* PGS.TS, Viện Chiến lược phát triển.
Bùi Tất Thắng 23
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn
CNH của cả nền kinh tế không phải phụ thuộc vào sự phát triển của riêng lĩnh vực công
nghiệp, mà sẽ phụ thuộc vào tốc độ hoàn thành việc chuyển chính nền sản xuất nông
nghiệp sang sản xuất và kinh doanh theo lối công nghiệp.
Như vậy, xét ở góc độ toàn bộ nền kinh tế, quá trình CNH nói chung đã mặc nhiên
bao hàm quá trình CNH (và ngày nay là cả HĐH) nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, sự
chậm trễ của quá trình CNH nông nghiệp so với các lĩnh vực phi nông nghiệp, nông thôn
là vì tính đặc thù khách quan của bản thân lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Với tư cách
là một lĩnh vực sản xuất, đối tượng của quá trình CNH nông nghiệp khó khăn hơn, tốn
kém hơn, và vì thế, thường mất nhiều thời gian hơn. Khó khăn là vì đối tượng sản xuất
của nông nghiệp liên quan đến sinh vật sống, người lao động ở lại lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp tại địa bàn nông thôn lại thường có mức học vấn bình quân thấp hơn các lĩnh vực
phi nông nghiệp...; tốn kém là vì việc xây dựng những điều kiện tiền đề cho chế độ sản
xuất và kinh doanh theo lối công nghiệp như kết cấu hạ tầng giao thông, điện, nước, công
trình công cộng... không thể tập trung trên một địa bàn hẹp như thành phố. Cũng chính vì
lý do này, đã có những nền kinh tế đã không chú ý đúng mức đến quá trình CNH nông
nghiệp và phát triển nông thôn, mà hầu như chỉ tập trung chủ yếu vào khu vực phi nông
nghiệp và đô thị, nên đã xảy ra tình trạng hình thành một nền kinh tế “nhị nguyên”, đối
lập nhau giữa một bên là khu vực công nghiệp và đô thị hiện đại, còn bên kia là khu vực
nông nghiệp lạc hậu và nông thôn nghèo nàn. Nguyên lý tốc độ di chuyển của cả đoàn
quân không phải phụ thuộc vào người đi nhanh nhất, mà phụ thuộc vào người đi sau
cùng, đã cho thấy, quá trình CNH của những nền kinh tế “nhị nguyên” vẫn chưa được
hoàn tất.
Như vậy, kết thúc thời kỳ CNH, nền sản xuất xã hội đã chủ yếu dựa trên phương
thức sản xuất công nghiệp, còn bản thân nền nông nghiệp thì đã sản xuất và kinh doanh
theo lối công nghiệp. Vậy thế nào là phương thức sản xuất công nghiệp và nền sản xuất
nông nghiệp được tiến hành sản xuất và kinh doanh theo lối công nghiệp?
Trước khi phương thức sản xuất công nghiệp ra đời, nền sản xuất xã hội từng trải
qua nhiều nghìn năm lấy sản xuất nông nghiệp (truyền thống) làm sinh kế. Nếu phân chia
lịch sử phát triển của xã hội loài người theo cách tiếp cận “hình thái kinh tế xã hội” của K.
Marx thì lối sản xuất nông nghiệp (truyền thống) đã tồn tại qua 3 hình thái kinh tế xã hội:
cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ và phong kiến. Cho đến khi công cuộc CNH bắt
đầu ở Tây Âu vào khoảng giữa thế kỷ XVII thì phương thức sản xuất công nghiệp bắt đầu
hình thành và dần dần thay thế kiểu sản xuất nông nghiệp truyền thống. Vì sự khởi đầu
của CNH cũng đồng thời là sự khởi đầu quá trình bùng nổ quan hệ thị trường (thị trường
hóa) và hình thành hình thái kinh tế xã hội TBCN, nên với những nước CNH kiểu cổ điển
(bây giờ đã thành các nước công nghiệp phát triển), người ta không thể phủ nhận mối
quan hệ tương tác hữu cơ, tất yếu giữa CNH - thị trường hóa và hình thái kinh tế xã hội
TBCN. Lịch sử CNH nửa sau thế kỷ XX ở một số nước theo mô hình khác: CNH - phi thị
trường hóa và CNXH (hiện thực) đã không thành công, đối lập với một số nước đã thành
công nhờ đi theo mô hình cũ (CNH - thị trường hóa và hình thái kinh tế xã hội TBCN), đã
cho thấy, cho đến nay chưa có mô hình thành công nào khác đã được thực tiễn ghi nhận.
Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế..
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn
24
Như vậy, một nền kinh tế được dựa trên phương thức sản xuất công nghiệp (đã CNH) và
nền sản xuất nông nghiệp được tiến hành sản xuất và kinh doanh theo lối công nghiệp có
hai đặc trưng nổi bật là:
Thứ nhất, sản xuất dựa trên nền tảng công nghệ-kỹ thuật hiện đại (so với sản xuất
nông nghiệp bằng kỹ thuật sản xuất thủ công truyền thống trước đó). Sản xuất nông
nghiệp trong điều kiện đã CNH nông nghiệp có áp dụng kỹ thuật cơ khí hóa, tự động hóa,
thủy lợi hóa, điện khí hóa, sinh học hóa (áp dụng những thành tựu mới nhất về giống cây
trồng, vật nuôi, chế độ chăm sóc, bảo vệ động thực vật); nên năng suất lao động cao,
chất lượng sản phẩm tốt. Chính nhờ đặc trưng này mà việc rút bớt lao động từ khu vực
nông nghiệp để chuyển sang các khu vực khác diễn ra một cách an toàn, khiến cho năng
suất lao động tổng thể nền kinh tế ngày càng nâng cao.
Thứ hai, CNH tiến hành trong điều kiện thị trường hóa và thúc đẩy sự phát triển
của thị trường thông qua việc mở rộng quá trình phân công lao động xã hội và tạo ra
những thị trường mới cũng như nâng cao mức cầu của thị trường.
Không có nền sản xuất dựa trên công nghệ-kỹ thuật hiện đại (do nền công nghiệp
hiện đại sáng tạo ra), thì không thể tiến hành CNH. Nhưng bản thân nền sản xuất dựa trên
công nghệ-kỹ thuật hiện đại lại chỉ ra đời và phát triển được nhờ cơ chế thị trường. Không
có cơ chế thị trường, nền sản xuất dựa trên công nghệ-kỹ thuật hiện đại (hay CNH) không
thể vận hành và phát triển được. Ngày nay, trong điều kiện lực lượng sản xuất đã rất phát
triển, khoa học-công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp ở mọi lĩnh vực, trong
đó có sản xuất nông nghiệp, xu hướng thị trường hóa toàn cầu sẽ cho phép các yếu tố nêu
trên của lực lượng sản xuất đến di chuyển dễ dàng hơn, mở ra khả năng lớn hơn trong
việc sử dụng thành tựu CNH của những nước đi trước để tiến hành CNH ở các nước chậm
phát triển. Đối với phần đông các nước chậm phát triển, có thể không cần thiết phải phát
triển ngành này hay ngành kia, tập trung nguồn lực phát triển nhanh những lĩnh vực công
nghệ hiện đại này hay lĩnh vực vực công nghệ hiện đại khác, nhưng không thể bỏ qua việc
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, vì chỉ khi hoàn tất quá trình CNH nông nghiệp,
nông thôn, quá trình CNH tổng thể nền kinh tế mới hoàn thành.
Như vậy, CNH, HĐH là làm cho nông nghiệp trở thành ngành kinh tế tuy đối tượng
vẫn là cây trồng, vật nuôi, địa bàn sản xuất vẫn là những vùng nông thôn rộng rộng lớn, gắn
với đất đai, nguồn nước, với điều kiện tự nhiên, môi trường như trước; nhưng đã thay đổi hẳn
về phương thức (cách thức) sản xuất, kinh doanh. Đó là việc áp dụng khoa học, công nghệ, kỹ
thuật hiện đại vào sản xuất, là sản xuất và kinh doanh theo lối công nghiệp. Nhờ đó mà năng
suất lao động, năng suất ruộng đất cao hơn, sản lượng nhiều hơn, ít bị rủi ro hơn..., và là điều
kiện để tăng thu nhập cao hơn, có cuộc sống vật chất và tinh thần tốt hơn.
Ở góc độ tổng thể nền kinh tế, đã có nhiều nghiên cứu thảo luận về các tiêu chí
đánh giá mức độ hoàn thành CNH, HĐH. Trong đó, tiêu chí về chuyển dịch cơ cấu kinh
tế được nhiều nghiên cứu đề cập đến. Xin nêu một số ví dụ tiêu biểu:
- Giáo sư Mỹ H. Chenery, cố vấn Ngân hàng thế giới, chia thời kỳ công nghiệp hóa
làm 3 giai đoạn, giai đoạn khởi đầu, giai đoạn phát triển và giai đoạn hoàn thiện, không
Bùi Tất Thắng 25
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn
kể một thời đoạn tiền công nghiệp hóa và một thời đoạn hậu công nghiệp hóa. Tương ứng
với mỗi giai đoạn có xác định chỉ tiêu GDP bình quân đầu người, tỷ lệ cơ cấu kinh tế, cơ
cấu ngành công nghiệp, cơ cấu lao động và cơ cấu không gian (Bảng 1).
Bảng 1: Các giai đoạn công nghiệp hóa theo H. Chenery
Chỉ tiêu cơ bản Tiền CNH Khởi đầu CNH Phát triển CNH Hoàn thiện CNH Hậu CNH
GDP/người
USD 1964
USD 2004
100-200
720-1.440
200-400
1.440- 2.880
400-800
2.880-5.760
800-1.550
5.760-10.810
>1.500
>10.810
Cơ cấu ngành A>I
A>20%
A<I
A<20%
I>S
A<10%
I>S
A<10%
I<S
Tỷ trọng CN chế tác > 20% 20-40% 40-50% 50-60% >60%
Lao động NN >60% 45-60% 30-45% 10-30% <10%
Đô thị hoá 75%
Ghi chú : A: Nông nghiệp; I: Công nghiệp; S: Dịch vụ.
(Nguồn: Chen Jiagui, Huang Qunhui and Zhong Hongưu.-The synthetic Evaluation and
Analysis on Regional Industrializa-tion. Economic Studies. Bẹijing.6-2006).
- Trong bộ chỉ tiêu đánh giá về CNH gồm 11 hạng mục do nhà xã hội học người Mỹ
A. Inkeles đề xuất, bao gồm trong đó nhiều chỉ tiêu về văn hóa và xã hội, nhưng chỉ tiêu
về cơ cấu kinh tế vẫn chiếm vị trí quan trọng trong các chỉ tiêu về kinh tế (Bảng 2).
Bảng 2: Chỉ tiêu công nghiệp hóa do A.Inkeles giới thiệu
Chỉ tiêu cơ bản Đơn vị Chuẩn CNH Trị số tham khảo (Mỹ)
1 GDP/đầu người USD >3000 3243 (1965)
2 Tỷ trọng A/GDP % 12-15 11 (1929)
3 Tỷ trọng S/GDP % > 45 48 (1929)
4 Lao động phi NN % > 75 79 (1929)
5 Tỷ lệ biết chữ % > 80 -
6 Tỷ lệ sinh viên ĐH % 12 - 15 16 (1945)
7 Bác sĩ / 1000 dân người > 1 1,3 (1960)
8 Tuổi thọ trung bình năm > 70 70 (1960
9 Tăng dân số % < 1 1 (1965)
10 Tử vong sơ sinh %0 < 3 2,6 (1960)
11 Đô thị hoá % > 50 66 (1960)
Chú thích : A: Nông nghiệp; S : Dịch vụ; ĐH : Đại học.
(Nguồn: Tạ Lập Trung. Nên đối xử thế nào với các chỉ tiêu tổng hợp đánh giá phát triển xã
hội (Trung tâm thông tin mạng Hỗ Liên, Trung Quốc).
- Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD, 1979) sử dụng 3 tiêu chí để coi
một nước đang phát triển là NIE, bao gồm:
Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế..
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn
26
+ Số lượng tuyệt đối lao động làm việc trong ngành công nghiệp và tỷ trọng của lao
động làm việc trong ngành công nghiệp trong tổng lao động tăng nhanh.
+ Thị phần trong xuất khẩu hàng công nghiệp chế tạo thế giới tăng nhanh.
+ GDP bình quân đầu người thực tế tăng nhanh đến mức giúp các nước này thành
công trong việc thu hẹp khoảng cách với các nước công nghiệp tiên tiến.
Theo tiêu chí này, OECD coi các nước Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hy Lạp, Nam
Tư, Brazil, Mehico, Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapore và Đài Loan là các nền kinh tế
mới CNH (NIEs).
- Đặc biệt, Giáo sư Jungho Yoo (KDI School of Public Policy and Management, Korea)
đã so sánh thời kỳ CNH giữa các nước dựa trên một tiêu chí duy nhất là coi thời điểm bắt đầu
tiến trình CNH ở một nền kinh tế khi tỷ trọng lao động nông nghiệp chiếm 50% tổng lao động
xã hội và kết thúc khi tỷ trọng lao động nông nghiệp chỉ còn 20% tổng lao động xã hội, và đã
đưa ra kết quả so sánh thời gian thực hiện CNH của một số nước trên thế giới như sau:
Bảng 3: Thời gian hoàn thành CNH theo tiêu chí cơ cấu lao động
TT Nước Năm bắt đầu Năm kết thúc
Thời gian hòan thành CNH
(số năm)
1 Hà Lan 1840 1938 98
2 Đan Mạch 1842 1958 114
3 Bỉ 1849 1924 75
4 Pháp 1858 1962 104
5 Ai rơ len 1865 1919 114
6 Hoa Kỳ 1881 1935 54
7 Đức 1881 1949 68
8 Canađa 1888 1929 41
9 Na Uy 1891 1959 68
10 Thụy Điển 1906 1951 45
11 Nhật Bản 1930 1969 39
12 Italia 1932 1966 34
13 Venezuela 1940 1972 32
14 Tây Ban Nha 1946 1979 33
15 Phần Lan 1946 1971 25
16 Bồ Đào Nha 1952 1988 36
17 Đài Loan 1960 1980 20
18 Malaysia 1969 1995 26
19 Hàn Quốc 1970 1989 19
Nguồn: Jungho Yoo (KDI School of Public Policy and Management, Korea)
Có thể còn có những tranh luận về điểm khởi đầu và điểm kết thúc của quá trình
CNH theo quan điểm này, nhưng cách tiếp cận ở đây là xuất phát từ chỉ tiêu chuyển dịch
Bùi Tất Thắng 27
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn
cơ cấu lao động trong mối tương quan giữa tỷ trọng lao động nông nghiệp và phi nông
nghiệp để đánh giá tiến trình CNH, và coi đó là chỉ tiêu cần thiết duy nhất.
Tóm lại, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn được coi là một trong
những tiêu chí chủ yếu đánh giá mức độ hoàn thành của tiến trình CNH, HĐH đất nước.
Tuy nhiên, những nghiên cứu cho đến nay hầu hết được tiếp cận và có đối tượng là toàn
bộ nền kinh tế quốc dân. Những đối tượng nghên cứu cấp vùng, tỉnh hoặc các đơn vị kinh
tế - hành chính nhỏ hơn, chắc chắn cần có những nghiên cứu sâu hơn, cụ thể hơn, nhất là
ở góc độ định lượng của chỉ tiêu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
II. Xây dựng nông thôn mới nhìn từ tiêu chí chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Hiện nay, khắp các vùng nông thôn trên cả nước đang triển khai chương trình
xây dựng nông thôn mới. Đây là chương trình to lớn, rộng khắp và có ý nghĩa rất quan
trọng đối với quá trình CNH, HĐH đất nước nói chung và nông nghiệp, nông thôn nói
riêng. Tư tưởng cơ bản của chương trình xây dựng nông thôn mới bắt nguồn từ quan
điểm về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn của Đảng, mà trực tiếp là Nghị quyết Hội
nghị lần thứ bảy BCH TW khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn (Nghị quyết
số 26 - NQ/T.Ư ngày 5/8/2008 "Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn”). Để thực hiện
Nghị quyết này, ngày 28/10/2008, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 24/2008/NQ-
CP về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ
7 BCH TW Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Để triển khai thực
hiện Chương trình hành động này, ngày 16 tháng 04 năm 2009 Thủ tướng Chính phủ
đã ra quyết định số 491/QĐ-TTg về Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới, bao gồm
19 tiêu chí và được chia thành 5 nhóm cụ thể: nhóm tiêu chí về quy hoạch, về hạ tầng
kinh tế-xã hội, về kinh tế và tổ chức sản xuất, về văn hóa - xã hội - môi trường và về
hệ thống chính trị. Thực hiện theo 19 tiêu chí này, ngày 4/6/2010, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Quyết định số 800/QĐ-TTg Phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc
gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020; theo đó, đến năm 2015: 20% số
xã đạt tiêu chuẩn Nông thôn mới và đến năm 2020: 50% số xã đạt tiêu chuẩn Nông
thôn mới (theo Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới).
Cho đến giữa năm 2011, đã có hơn 900 xã trên địa bàn nông thôn toàn quốc
(khoảng 1/10 tổng số xã) đã triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về
xây dựng nông thôn mới theo quyết định số 800/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Trong số 19 chỉ tiêu, có chỉ tiêu thứ 12 trong Mục: Kinh tế và tổ chức sản xuất quy
định Tỷ lệ lao động trong độ tuổi làm việc trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp là
dưới 30% so với tổng số lao động nông thôn (tính chung cho toàn bộ các xã), và 45%
ở các xã thuộc Trung du miền núi phía Bắc, 25% ở các xã thuộc vùng ĐBSH, 35% ở
các xã vùng Bắc Trung bộ, Duyên hải Nam Trung bộ và vùng ĐBSCL, và 40% ở các
xã vùng Tây Nguyên.
Qua mấy năm triển khai xây dựng chương trình nông thôn mới, các ý kiến đánh giá
về kết quả thực hiện còn khác nhau. Theo các phương tiện thông tin đại chúng, trong khi
có ý kiến khẳng định đã có 85 xã hoàn thành chương trình này (tính đến giữa năm 2011)
(Xem: Xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ chiến lược.
Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế..
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn
28
Home/Xay-dung-nong-thon-moi-la-nhiem-vu-chien-luoc/20114/76937.vgp. 6:44 PM,
21/04/2011); Cùng lúc thì lại có thông tin khác: “Theo các tỉnh báo cáo lên là có 85 xã cơ
bản đạt, nhưng tới nay vẫn chưa giám định được “cơ bản đạt” là đạt những cái gì, như thế
nào”. (Chưa xã nào đạt tiêu chí nông thôn mới.
nao-dat-tieu-chi-nong-thon-moi.htm. 13/06/2011- Sài gòn tiếp thị).
Bảng 4: Tỷ lệ lao động trong độ tuổi làm việc trong lĩnh vực nông, lâm,
ngư nghiệp theo tiêu chí xã nông thôn mới
TT
Tên tiêu
chí
Nội dung tiêu
chí
Chỉ
tiêu
chung
Chỉ tiêu theo vùng
TDMN
phía
Bắc
Đồng
bằng
sông
Hồng
Bắc
Trung
bộ
Duyên
hải
Nam
TB
Tây
Nguyên
Đông
Nam
bộ
ĐB
sông
Cửu
Long
12
Cơ cấu lao
động
Tỷ lệ lao động
trong độ tuổi làm
việc trong lĩnh
vực nông, lâm,
ngư nghiệp
< 30% 45% 25% 35% 35% 40% 20% 35%
Nguồn: Trích từ Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng
Chính phủ.
Đã có nhiều ý kiến đề nghị cần được nghiên cứu thêm về các tiêu chí liên quan
đến quy hoạch, hạ tầng kinh tế-xã hội, văn hóa - xã hội - môi trường và kinh tế và tổ
chức sản xuất. Trong khuôn khổ chủ đề thảo luận, chúng tôi chỉ xin đi sâu vào tiêu chí
về Tỷ lệ lao động trong độ tuổi làm việc trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp. Đây là
một trong những tiêu chí mà nhiều ý kiến cho rằng khó có thể hoàn thành đối với
nhiều xã. Trên cơ sở phân tích sâu vào quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động trong
tiến trình CNH, HĐH ở tầm vĩ mô, đối chiếu với những vấn đề đặt ra từ góc độ vi mô
và điều kiện cụ thể của dân cư và sản xuất nông nghiệp nước ta, chúng tôi cũng chia
sẻ với nhận định này.
Trong 20 năm qua, bình quân lao động trong khu vực nông nghiệp giảm mỗi
năm bình quân khoảng 1%, nhưng số lượng tuyệt đối vẫn tiếp tục tăng lên, cho đến
năm 2010, khi tỷ trọng lao động của khu vực nông nghiệp giảm xuống dưới 50% tổng
lao động xã hội, thì số lượng tuyệt đối mới bắt đầu giảm xuống. Nếu dựa trên kinh
nghiệm thực tế 20 năm qua, để đến năm 2020, tỷ lệ lao động trong độ tuổi làm việc
trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp giảm xuống còn dưới 30% (tính chung cả nước),
mỗi năm phải giảm gần 2%, một tốc độ rất cao, rất khó có khả năng đạt được.
Bùi Tất Thắng 29
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn
Bảng 5: Một số chỉ số phản ánh quan hệ nông nghiệp,
nông thôn so với cả nước
Chỉ số 2005 2006 2007 2008 2009 2010*
Tổng số 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
% GDP Nông nghiệp, lâm
nghiệp và thủy sản
20,97 20,40 20,34 22,21 20,91 20,58
Lao động Nông nghiệp, lâm
nghiệp và thủy sản (1000 người)
23563,2 - 23931,5 24303,4 24605,9 23896,3
% Lao động Nông nghiệp, lâm
nghiệp và thủy sản
55,10 - 52,90 52,30 51,50 48,70
% Lao động Nông thôn 53,40 54,40 56,30 57,00 58,00 58,50
% Dân số Nông thôn 72,90 72,34 71,80 71,01 70,26 69,83
* Sơ bộ
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Nhưng giả sử tỷ lệ lao động làm việc trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp giảm
xuống đạt mức còn dưới 30% (tính chung cả nước) như đã đề ra, thì cơ cấu vùng miền
như ghi ở Bảng 4 lại tỏ ra chưa thực sự thuyết phục. Ở hai vùng ĐBSH và ĐBSCL là hai
nơi chủ yếu chứa đựng 3,8 triệu ha đất trồng lúa để đảm bảo an ninh lương thực của quốc
gia, nơi nhiệm vụ chính của một số xã trong đó là chuyên canh lúa, chắc chắn không nên
đặt vấn đề đều phải có tỷ trọng lao động nông, lâm, ngư nghiệp là 25% ở vùng ĐBSH và
35% ở vùng ĐBSCL vào năm 2020. Ở đây cũng vậy, có thể bình quân toàn vùng thì
ĐBSH là 25% và ĐBSCL là 35%, nhưng từng xã nông thôn trong đó thì không nhất thiết
và không thể đều đạt ngưỡng này. Vấn đề những người lao động nói chung và người
trồng lúa nói riêng là năng suất lao động của họ và thu nhập thực tế của họ được cải thiện
như thế nào. Nếu thu nhập của những người trồng lúa được xã hội “phân công” chuyên
môn hóa sản xuất ra lương thực vì mục tiêu đảm bảo an ninh lương thực quốc gia cũng
ngang bằng với những người lao động ở các khu vực ngành nghề khác, thì đối với các xã
trong vùng chuyên canh lúa có nhất thiết phải giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp xuống như
tiêu chí thứ 12 mới được cộng nhận đạt danh hiệu nông thôn mới không? Từ thực tế này,
chúng tôi xin kiến nghị:
- Một là, cần có chính sách riêng cho khu vực chuyên canh nông phẩm, đặc biệt là
chuyên canh sản xuất lương thực dưới danh nghĩa vì sự đảm bảo an ninh lương thực quốc
gia theo hướng đảm bảo cho những người lao động nông nghiệp trồng lúa cũng có thu
nhập thực tế không thua kém lao động trong các loại ngành nghề khác.
- Hai là, nghiên cứu lại tiêu chí thứ 12: Tỷ lệ lao động trong độ tuổi làm việc trong
lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp; trong đó đối với các xã trong vùng chuyên canh cây
Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế..
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn
30
lương thực thì không nhất thiết phải có cùng tỷ lệ lao động trong độ tuổi làm việc trong
lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp như của chung toàn vùng hay toàn quốc.
- Ba là, đối với các xã trong vùng chuyên canh cây lương thực, có thể thay tiêu chí
tỷ lệ lao động trong độ tuổi làm việc trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp bằng tỷ lệ lao
động nông nghiệp được đào tạo, huấn luyện kỹ thuật (trong lĩnh vực canh tác nông
nghiệp).
Tài liệu trích dẫn
Lê Phượng 2011. Chưa xã nào đạt tiêu chí nông thôn mới, trên trang
moi.htm (truy cập ngày 13/6/2011).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so4_2011_buitatthang_8287.pdf