Tài liệu Vấn đề chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa trong văn học Việt Nam - Nhìn từ lịch sử: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực... 13
vấn đề chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa
trong văn học việt nam - nhìn từ lịch sử
phong lê(*)
ục tiêu hiện thực xã hội chủ
nghĩa (XHCN) vốn đã đ−ợc xác
định từ Hải Triều, lμ ng−ời đã
nêu ra khái niệm “tả thực xã hội” vμ “tả
thực XHCN” (1) trong cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa duy tâm vμ phái nghệ
thuật vị nghệ thuật giữa những năm 30
thế kỷ XX.
Nh− vậy lμ thuật ngữ hiện thực
XHCN đã xuất hiện ở Việt Nam chỉ vμi
năm sau Đại hội nhμ văn Liên Xô lần
thứ nhất, năm 1934, gắn với ng−ời khai
sáng lμ M. Gorki, gắn với Cách mạng
Tháng M−ời vμ Liên bang Xô Viết- quê
h−ơng của cách mạng thế giới - niềm
ng−ỡng mộ vμ hy vọng của cả một dân
tộc còn chìm trong tối tăm đang đi tìm
ánh sáng.
Chỉ cần nhớ lại truyện kể Nhật ký
chìm tμu của Nguyễn ái Quốc đ−ợc
truyền tụng vμo buổi đầu những năm 30,
vμ những bμi thơ của Tố Hữu tiếp đó về
những “lão đầy tớ” ngồi “mơ n−ớc Nga”,
mới thấy thuật ngữ “tả thực XHCN” xuất
hiệ...
11 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 452 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vấn đề chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa trong văn học Việt Nam - Nhìn từ lịch sử, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vấn đề chủ nghĩa hiện thực... 13
vấn đề chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa
trong văn học việt nam - nhìn từ lịch sử
phong lê(*)
ục tiêu hiện thực xã hội chủ
nghĩa (XHCN) vốn đã đ−ợc xác
định từ Hải Triều, lμ ng−ời đã
nêu ra khái niệm “tả thực xã hội” vμ “tả
thực XHCN” (1) trong cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa duy tâm vμ phái nghệ
thuật vị nghệ thuật giữa những năm 30
thế kỷ XX.
Nh− vậy lμ thuật ngữ hiện thực
XHCN đã xuất hiện ở Việt Nam chỉ vμi
năm sau Đại hội nhμ văn Liên Xô lần
thứ nhất, năm 1934, gắn với ng−ời khai
sáng lμ M. Gorki, gắn với Cách mạng
Tháng M−ời vμ Liên bang Xô Viết- quê
h−ơng của cách mạng thế giới - niềm
ng−ỡng mộ vμ hy vọng của cả một dân
tộc còn chìm trong tối tăm đang đi tìm
ánh sáng.
Chỉ cần nhớ lại truyện kể Nhật ký
chìm tμu của Nguyễn ái Quốc đ−ợc
truyền tụng vμo buổi đầu những năm 30,
vμ những bμi thơ của Tố Hữu tiếp đó về
những “lão đầy tớ” ngồi “mơ n−ớc Nga”,
mới thấy thuật ngữ “tả thực XHCN” xuất
hiện ở Việt Nam lμ thuộc vμo một cụm từ
thiêng liêng đối với dân tộc, vμ do vậy mμ
trở thμnh huý kị đối với chính quyền
thống trị.
Rồi hiện thực XHCN chính thức vμo
các văn kiện của Đảng Cộng sản, tr−ớc
tiên lμ Đề c−ơng về văn hoá Việt Nam
1943: “Nền văn hoá mμ cuộc cách mạng
văn hoá Đông D−ơng phải thực hiện sẽ lμ
văn hoá XHCN”... “Tranh đấu về tông
phái văn nghệ (chống chủ nghĩa cổ điển,
chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tự nhiên,
chủ nghĩa t−ợng tr−ng) lμm cho xu h−ớng
tả thực XHCN thắng”...; rồi vμo Chủ
nghĩa Mác vμ văn hoá Việt Nam - năm
1948: “Về sáng tác văn nghệ lấy chủ
nghĩa hiện thực XHCN lμm gốc”.1 Từ đây,
nó th−ờng xuyên chiếm vị trí quan trọng
trong phần viết về văn hoá văn nghệ của
các Báo cáo hoặc Nghị quyết của Đảng, vμ
Đại hội của các giới văn học nghệ thuật.
Năm 1957, Diễn văn của Gorki tại Đại
hội nhμ văn Liên Xô lần thứ nhất- năm
1934, Đại hội đã thông qua Điều lệ với
định nghĩa kinh điển về hiện thực xã hội
chủ nghĩa, lần đầu tiên vμ chính thức
đ−ợc dịch ra tiếng Việt, với Lời nói đầu
của ng−ời dịch lμ Hoμi Thanh; trong Lời
nói đầu đó, Hoμi Thanh nhắc đến Gorki,
“qua bản báo cáo nμy lμ hình ảnh một vĩ
nhân đứng trên bậc cửa rất cao của cuộc
đời mới nhìn sâu đến những chỗ tận cùng
thời tiền sử, nhìn suốt x−a nay, vμ chỉ
đ−ờng đi tới” (2).
1 (*) GS. Viện Văn học, Viện KHXH Việt Nam.
m
14 Thông tin Khoa học xã hội, số 1.2008
Rồi nó vμo khu vực giáo khoa, khi sự
nghiệp giáo dục Đại học đ−ợc mở rộng, từ
nửa sau những năm 50, bắt đầu bằng
việc dịch mấy bộ sách mang nội dung,
hoặc đ−ợc gọi đích danh lμ “nguyên lý lý
luận văn học” để phục vụ kịp thời nhu
cầu đμo tạo sinh viên ở nhμ tr−ờng.
Từ đầu những năm 60, vμ còn kéo
dμi nhiều năm về sau, những bộ “nguyên
lý” ấy nh− của Giăng Phơrêvin (Pháp),
Timôphêép, Abramôvít, rồi các chuyên
luận của P.S. Tơrôphimốp (3), V. Sécbina
(4), A. Ivasencô (4), A.I. Ôpsarencô (5)...
(cùng với cuốn của Ba Nhân vμ Bμi nói
chuyện tại Hội nghị văn nghệ Diên An
của Mao Trạch Đông) đã trở thμnh chỗ
dựa cho các hoạt động lý luận văn học ở
Việt Nam, bao gồm việc soạn thảo các
giáo trình bậc Đại học vμ sách giáo khoa
bậc Phổ thông, cho việc vận dụng vμo các
hoạt động lý luận phê bình th−ờng nhật
trên báo chí, vμ từng lμ cơ sở cho mấy
cuộc hội thảo lớn chuẩn bị cho Đại hội
nhμ văn Việt Nam lần thứ II, vμo cuối
năm 1961, sau đó đ−ợc in trong hai tập
sách: Văn nghệ- vũ khí sắc bén, vμ Không
ngừng nâng cao tính Đảng trong văn
nghệ - năm 1962...
Tiếp đó, vμo giữa những năm 60 khi
cuộc chiến tranh xâm l−ợc của Mỹ leo
thang ra miền Bắc, giới học thuật Việt
Nam lại b−ớc vμo một cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa xét lại mμ h−ớng chủ
đạo lμ phê phán - phê phán thuyết tính
ng−ời siêu giai cấp; phê phán các quan
điểm coi nhẹ tính Đảng vμ hiện thực
XHCN; phê phán chủ tr−ơng phá vỡ
lôgich cuộc sống...; vμ đối t−ợng phê phán
không chỉ lμ một số tác giả, tác phẩm
trong n−ớc mμ còn lμ, vμ chủ yếu lμ một
số chuyên gia, học giả ph−ơng Tây, từ
Lucát, Vitma, Phitsơ, đến Garôđi...
Nh− sau nμy sẽ sáng tỏ, việc nhận
thức lại vμ phê phán các quan niệm chật
chội, giáo điều về lý luận, trong đó có lý
luận về chủ nghĩa hiện thực XHCN đã
diễn ra ở Liên Xô, bắt đầu từ sau Đại hội
Đảng lần thứ XX - năm 1956. Nh−ng tất
cả sự “nhận thức lại” đó ở Liên Xô vμo lúc
nμy chỉ đ−ợc giới thiệu vμo Việt Nam một
phần, phần đó lại đ−ợc nhìn nhận một
cách cảnh giác, vμ đ−ợc gộp vμo chung
một cụm từ “chủ nghĩa xét lại”. Không kể
Số phận một con ng−ời của Sôlôkhốp khi
đ−ợc chuyển thμnh phim, cùng với hai
phim Bμi ca ng−ời lính vμ Đμn sếu bay
qua, ngay cả bộ ba Những ng−ời sống vμ
Những ng−ời chết của Ximônốp lμ nhμ
văn tên tuổi, có quan hệ thân thiết với
Việt Nam, lμ ng−ời lãnh đạo Hội nhμ văn
Liên Xô đã sang thăm Việt Nam nhiều
lần, cũng có những điều khiến ta e ngại.
Cố nhiên, do hoμn cảnh chiến tranh
vμ do chủ tr−ơng chống chủ nghĩa xét lại
- về mặt chính trị lμ không có lợi cho sự
nghiệp chống Mỹ - giới học thuật Việt
Nam không thể nμo nhận rõ vμ có điều
kiện phân tích kỹ thực trạng lịch sử cụ
thể của đời sống chính trị vμ văn học
Liên Xô. Từ đầu những năm 1960 đến
năm 1975, khi cuộc chiến tranh chống
Mỹ kết thúc thắng lợi, sinh hoạt văn
ch−ơng vμ học thuật ở Việt Nam vẫn
phát triển trên đ−ờng ray cũ, ch−a có gì
thay đổi: vấn đề hiện thực XHCN vẫn
tiếp tục sự khẳng định các nguyên lý
quen thuộc của nó, vμ với ý nghĩa thiêng
liêng bất dịch của nó.
Một thời điểm quan trọng cho sự
khẳng định đó lμ Bμi nói chuyện của
Tr−ờng Chinh trong Đại hội văn nghệ
toμn quốc lần thứ T−, năm 1968 - trong
đó, có sự tổng kết về Đ−ờng lối văn nghệ
của Đảng, gồm 10 điểm; vμ một điểm
then chốt trong đó lμ yêu cầu: “Nắm
vững ph−ơng pháp hiện thực XHCN để
sáng tác vμ phê bình” (6, tr.171).
Vấn đề chủ nghĩa hiện thực... 15
Đầu năm 1970, các nhμ lý luận văn
học ở Liên Xô, đứng đầu lμ D. Máccốp đã
đặt vấn đề hiện thực XHCN nh− một hệ
thống mở; nh−ng ở Việt Nam, phải hơn
10 năm sau, mới có sự giới thiệu (7). Còn
ở khoảng giữa đó, tr−ớc sau thời điểm
1975 lịch sử, vẫn lμ các cuộc tranh luận
khá gay gắt nhằm chống các ảo t−ởng
hòa bình, cổ vũ chủ nghĩa anh hùng cách
mạng, phản đối lý thuyết “đối mặt” (con
ng−ời với sự giằng co giữa hai mặt tốt -
xấu, thiện-ác), tiếp tục phê phán bi kịch,
không chấp nhận nhân vật tích cực có
xung đột nội tâm...
Trong hoμn cảnh nh− vậy, lý luận về
hiện thực XHCN không thể tách ra khỏi
quỹ đạo lý luận chung về văn nghệ. Nó
vẫn tiếp tục giữ mμu sắc thiêng liêng
khả kính của nó. Nói rằng nó lμ ph−ơng
pháp tốt nhất, nh−ng trong sáng tác vμ
phê bình nó cứ gần nh− lμ ở địa vị duy
nhất, vì trong lý luận không có ai nói
khác, vμ trong sáng tác không dễ gì có
tìm tòi mới hoặc lạ, vẫn chỉ một xu
h−ớng, một âm h−ởng chung bao trùm.
Những gì đi chệch đ−ờng ray hiện thực
XHCN phải coi chừng. Sau cuộc đấu
tranh chống Nhân văn - Giai phẩm hồi
1956-1958 lại tiếp tục các vụ việc nh−
Mạch n−ớc ngầm, Những ng−ời thợ mỏ,
Con nai đen, Phá vây, Vμo đời, Mở hầm...
rồi Cây táo ông Lμnh, Cái gốc, Tình
rừng, Chuyện một đêm đợi tμu... rồi
Vòng trắng, Sẹo đất, Đối mặt... cho đến
Đất trắng vμ một số truyện ngắn của
Nguyễn Minh Châu ở thời điểm cuối
những năm 70 đầu những năm 80 thế kỷ
XX... Tóm lại, về lý luận, vẫn phải lμ sự
quán triệt các nguyên tắc: miêu tả cái
mới của đời sống lμ chủ yếu; chủ đề t−
t−ởng phải sáng rõ; hình t−ợng nghệ
thuật không thể lấp lửng, nếu có dạng
“biểu t−ợng hai mặt” (équivoque) thì khó
tránh khỏi có dụng ý xấu, vμ dứt khoát
giới phê bình, lãnh đạo phải tìm kiếm vμ
vạch cho ra; sự phát triển của hiện thực
lμ phải đi lên, có quanh co khúc mắc mấy
thì rồi âm điệu chung phải lμ lạc quan,
vμ thắng lợi lμ cơ bản. ở chỗ nμo giới lý
luận hoặc sách giáo khoa có tham vọng
đi sâu hơn một chút vμo học thuật thì
Chủ nghĩa Hiện thực phê phán phải có vị
trí cao, thậm chí lμ độc tôn so với các trμo
l−u khác - do nó đ−ợc xem lμ tiền thân, lμ
sự chuẩn bị trực tiếp cho Chủ nghĩa Hiện
thực XHCN. Không nói Chủ nghĩa Tự
nhiên (đ−ợc hiểu có phần đơn giản, chỉ
thấy mặt tiêu cực), vμ các trμo l−u Tiền
phong chủ nghĩa - đ−ợc hiểu lμ Chủ
nghĩa Hiện đại, ngay cả Chủ nghĩa Lãng
mạn cũng phải ở vị trí thấp so với Chủ
nghĩa Hiện thực; vμ Hiện thực XHCN
dứt khoát phải lμ một b−ớc phát triển
cao hơn của Hiện thực phê phán, một
b−ớc chuyển về chất trong tiến trình lịch
sử văn học nhân loại. (Cho đến nửa đầu
những năm 90 vẫn còn luận điểm: Chủ
nghĩa Hiện thực XHCN ra đời trên sự
“suy kiệt sinh lực” của Chủ nghĩa Hiện
thực phê phán).
Ng−ời viết bμi nμy cũng đã góp phần
h−ởng ứng mục tiêu đó trong một tên
sách đ−ợc chuẩn bị ngay từ sau năm
1975, có tên: Văn xuôi Việt Nam trên con
đ−ờng hiện thực XHCN với sự triển khai
các ý t−ởng chính, căn cứ vμo các nguyên
tắc cơ bản của ph−ơng pháp sáng tác
hiện thực XHCN, vμ với một Lời nói đầu
rất chân thμnh: “Nghĩ về văn xuôi nh− lμ
một hình thức có khả năng đáp ứng tốt
cho những đòi hỏi của cách mạng, vμ
nghĩ về hiện thực XHCN nh− lμ ph−ơng
pháp sáng tác có hiệu quả nhất, mμ mỗi
ng−ời viết nên “nắm vững” - những trang
sau đây muốn đ−ợc xem nh− lμ một ít
căn cứ, nhằm khẳng định sự đúng đắn
của con đ−ờng chúng ta đã đi, d−ới ánh
sáng những nguyên lý mỹ học Marx -
16 Thông tin Khoa học xã hội, số 1.2008
Lenin vμ đ−ờng lối văn nghệ của Đảng”
(8, tr.8).
Tóm lại, trên từng giai đoạn của quá
trình văn học suốt nửa thế kỷ qua, sự
lãnh đạo của Đảng vμ hoạt động của lý
luận - phê bình (đ−ợc xem nh− lμ một
“ph−ơng thức chỉ đạo của Đảng trên mặt
trận văn nghệ”), vμ d− luận của bạn đọc
chính thống nói chung đã dμnh sự hồ hởi
vμ nhiệt tình đón đợi, ca ngợi những
sáng tác thật sự có thμnh công, có sức
hấp dẫn trên ph−ơng h−ớng phát hiện
cái mới, vμ khẳng định chủ nghĩa anh
hùng của dân tộc. Trên số l−ợng khá lớn
các tác phẩm nằm trong bản danh sách
nμy, có thể kể Đôi mắt, Lμng, Truyện
Tây Bắc, Đất n−ớc đứng lên, Sống mãi
với thủ đô, Mùa lạc, Rẻo cao, Sông Đμ,
Hòn Đất, Gia đình má Bảy, Xung đột,
Bão biển, Ng−ời mẹ cầm súng, Dấu chân
ng−ời lính, Ký sự miền đất lửa... Còn về
thơ lμ cả một danh sách dμi những bμi,
những tập, những quyển gắn với tên tuổi
của vμi ba thế hệ viết, tính từ Xuân
Diệu, Huy Cận, Tố Hữu, Chế Lan Viên...
qua Hoμng Trung Thông, Vũ Cao, Chính
Hữu... đến Thu Bồn, Phạm Tiến Duật,
Xuân Quỳnh, Lê Anh Xuân, Bằng Việt...
Thế nh−ng ngay cả ở thời điểm nền văn
nghệ ta đầy sinh sắc, vμo đầu những
năm 60 thế kỷ XX, với nhận định đầy cổ
vũ của Đảng, sau Đại hội lần thứ Ba-
1960: “Một nền văn nghệ XHCN, tuy còn
trẻ tuổi nh−ng nó đã tỏ ra có sức sống dồi
dμo vμ đầy hứa hẹn” (9, tr.22), thời điểm
mμ ph−ơng pháp hiện thực XHCN ở độ
cao sức hấp dẫn của nó, thì dấu hiệu của
những căn bệnh ấu trĩ, công thức vμ sơ
l−ợc, của những “quan niệm giản đơn về
ý thức chính trị” trong giới sáng tác vμ
các giới có trách nhiệm thẩm định, nh−
cách nói của Nh− Phong, cũng đã “hạn
chế nhμ văn phản ánh trung thực cuộc
sống hiện thực”. Nh− Phong - một cây
bút phê bình tin cậy của Đảng, trong
cuộc thảo luận chuẩn bị cho Đại hội nhμ
văn lần thứ II, vμo cuối 1961, đã nêu ý
kiến: “Đứng tr−ớc một tác phẩm văn
nghệ, đánh giá nó tr−ớc tiên về mặt
chính trị lμ đúng, nh−ng th−ờng ng−ời ta
hiểu “chính trị” một cách thiển cận”...
“Phản ánh hiện thực bây giờ nhiều khi
phải đề cập đến những tác phẩm trong
nội bộ chúng ta không tốt đẹp gì. Những
cán bộ quan liêu, tham ô, lãng phí,
những đảng viên không g−ơng mẫu,
quần chúng cách mạng còn phức tạp...
Cái đó tỏ ra không có hại gì. Nh−ng
trong tâm lý chung, vẫn có cái sợ lμ
không có “chính trị” vμ tả sự thật nh−
thế lμ lμm mất uy tín của cán bộ, của
đảng viên, của quần chúng cách mạng.
Đi xem Platôn Krêset nhiều đồng chí cán
bộ phản ứng tại sao anh giám đốc bệnh
viện, một cán bộ phụ trách lại có thể xấu
xa nh− vậy. Chính vì những ý thức chính
trị giản đơn nh− thế mμ ng−ời viết non
gan nhiều khi phải cắt xén hiện thực,
mμi mòn cạnh cho nó khuôn, nó hợp theo
một công thức nμo đó. Điều đó không thể
đổ lỗi cho Đảng ta, Đảng ta không bao
giờ sợ sự thật, đ−ờng lối văn nghệ của
Đảng ta không bao giờ bắt phải tô hồng
cuộc sống. Nh−ng trong thực tiễn chỉ đạo
văn nghệ, phê bình văn nghệ hoặc
th−ởng thức văn nghệ, vẫn còn tình
trạng hiểu “chính trị” một cách máy móc
gò bó nh− vậy, ch−a thừa nhận cho văn
nghệ cái quyền đ−ợc mạnh dạn đề cập,
phản ánh bất cứ vấn đề nμo trong hiện
thực mμ nhμ văn thấy lμ cần thiết phải
nói đến” (10, tr.153).
Tìm nguyên nhân của bệnh sơ l−ợc,
về phía nhμ văn, Nh− Phong xét nó ở cái
“thói quan liêu” vμ “thiếu dũng khí”: “... ở
nhμ văn ta, đầu óc quan liêu cũng nhiều
chứ không ít, hay lấy cái công thức sẵn
có, nhận định sẵn có, thay cho việc
nghiên cứu cuộc sống, rất ít tự mình đi
Vấn đề chủ nghĩa hiện thực... 17
vμo cuộc sống để phát hiện vấn đề. Đi
đến đâu cũng chỉ chăm chăm lấy tμi liệu
của cấp uỷ, của cán bộ các ngμnh rồi
xuống đối chiếu để tìm”... “Thứ ba lμ cái
thiếu dũng khí. Quả lμ có nh− vậy. Nếu
nhμ văn sát cuộc sống, phát hiện đ−ợc
trong cuộc sống những sự thật cần phải
nói lên, những vấn đề cần phải giải
quyết, dù lμ những gì gai góc khó nói thì
ai có thể t−ớc đ−ợc cái quyền của nhμ
văn phát biểu với Đảng” (10, tr.154).
Bây giờ sau quãng lùi của nhiều
chục năm vμ trong tầm cao của công cuộc
Đổi mới mμ nhìn lại, điều rõ rμng lμ, bên
cạnh những thμnh tựu, những cái đ−ợc
trong mô tả một hiện thực đang đi vμo
công cuộc xây dựng mới, cũng còn có một
sự thật khác còn mờ nhạt trong văn học,
một sự thật, phải cho đến Đại hội VI của
Đảng - Đại hội đã nêu ph−ơng châm “Lấy
Dân lμm gốc”, vμ “Nhìn thẳng vμo sự
thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự
thật”, vμo cuối năm 1986 - chúng ta mới
dám có dũng cảm nói lên: đó lμ sự thật về
những thiếu sót vμ thất bại, về những
mất mát vμ nỗi đau, về những gì gây lo
âu vμ cảnh giác, về cả những tai hoạ
không phải chỉ do kẻ thù dân tộc vμ giai
cấp gây ra, mμ còn do chính chúng ta gây
ra, trong đó có bệnh duy ý chí vμ t− duy
bao cấp, gồm cả sự “dốt nát” - theo Marx,
cũng lμ nguyên nhân gây bi kịch - cùng
biết bao tệ bệnh... Một sự thật tuy không
phải lμ chính, lμ chủ yếu, nh−ng cũng lμ
quan trọng, lμ lớn, cùng đi kèm, cùng
song song tồn tại để lμm nên bộ mặt cuộc
sống nh− chính nó, nh−ng do nhiều
nguyên nhân, không ít ng−ời viết đã
đμnh lòng hoặc nén lòng quay l−ng vμ bỏ
qua. Một sự thật lâu lâu lại thấy lấp ló
hé ra trên một vệt sáng tác, vμ nhanh
chóng bị vùi vμo quên lãng; trong số đó,
cho đến bây giờ nhìn lại, không phải
không có những cái thật sự có giá trị tiên
đoán mμ không ít ng−ời viết đã phải trả
giá đắt cho sự dũng cảm của mình.
Nh− vậy lμ bên cạnh sự thật lớn, hμo
hùng về hai cuộc kháng chiến chống
Pháp vμ chống Mỹ vĩ đại trên cả tiền
tuyến vμ hậu ph−ơng còn một sự thật
khác của sự nghiệp xây dựng - sự thật đó
đã sớm có bộ mặt trong văn học miền Bắc
từ đầu những năm 60 mμ âm điệu chung
lμ phơi phới, lạc quan, vμ r−ng r−ng một
cảm xúc trữ tình nh− đ−ợc ghi nhận
trong ánh sáng vμ phù sa của Chế Lan
Viên, Bμi thơ cuộc đời của Huy Cận, Bμi
ca mùa Xuân 61 của Tố Hữu: “Chμo 61,
đỉnh cao muôn tr−ợng”... Sự thật đó lμ
đúng, nh−ng ch−a đủ, nếu theo dõi sát
diễn biến của sự nghiệp xây dựng CNXH
từ giữa những năm 60 gối sang những
năm 70 thế kỷ XX, khi các mặt tiêu cực
trong đời sống kinh tế- xã hội ở miền Bắc
bắt đầu bộc lộ vμ phát triển. Nói cách
khác, sự thật đó đã không đ−ợc nhìn
nhận toμn diện, bên cạnh lý do chính
đáng lμ hoμn cảnh chiến tranh, cũng có
mặt bởi cái quan niệm tồn tại trong các
giới quản lý lãnh đạo vμ trong bản thân
nhμ văn, cho rằng: hiện thực XHCN với
t− cách một ph−ơng pháp sáng tác −u
việt hơn tất cả, phải lμ sự khẳng định
những mặt tốt đẹp vμ đi lên của hiện
thực, vμ rộng hơn, bởi cái niềm tin công
cuộc xây dựng CNXH do Đảng lãnh đạo
lμ một sự nghiệp hoμn toμn tốt đẹp, nếu
có thiếu sót, sai lầm thì chỉ lμ bộ phận vμ
nhanh chóng đ−ợc khắc phục; vμ thắng
lợi, thμnh công lμ cơ bản. Nhận thức vμ
niềm tin nμy chi phối suốt mấy chục năm
qua gắn với niềm tin vμo Đảng, vμ gắn
với ý thức nắm vững tính Đảng đ−ợc xem
nh− lμ linh hồn của ph−ơng pháp sáng
tác hiện thực XHCN. Đồng chí Nguyễn
Văn Linh, Tổng bí th− của Đảng, trong
cuộc gặp gỡ giới văn nghệ sĩ, vμo tháng
10-1987, cũng có nhận xét vμ tâm sự trên
18 Thông tin Khoa học xã hội, số 1.2008
hiện t−ợng có thật nμy: “Tr−ớc đây ta
th−ờng có quan niệm giản đơn: hễ đã nói
tới xã hội XHCN lμ chỉ có những điều tốt
đẹp. Quan niệm nh− vậy rõ rμng lμ ảo
t−ởng, ngây thơ. Tr−ớc đây, có lúc tôi
cũng đã từng nghĩ nh− vậy (...). Một cái
khó nữa mμ tôi có cảm giác lμ khi có
chính quyền rồi bắt tay vμo xây dựng
CNXH thì có t− t−ởng cho rằng mọi việc
đều tốt đẹp cả. Vì vậy trong sáng tác
th−ờng thiên về h−ớng ca ngợi một chiều,
“tô hồng”. Ai viết về ng−ời không tốt, việc
không tốt th−ờng bị mang tiếng lμ bôi
đen” (11). Một cây bút trẻ, Dạ Ngân,
thuộc lớp ng−ời viết mới sau nμy cũng
cảm nhận đ−ợc hiện t−ợng tâm lý mang
tính phổ biến ấy: “Đã có một thời, không
riêng gì lớp trẻ, mμ cả những ng−ời
không còn khả năng mơ mộng cũng
t−ởng sẵn độc lập, sẵn hoμ bình thì mọi
thứ kể cả no ấm vμ công bằng cũng sẵn
theo (...). Tôi lại nhớ hồi mới hoμ bình,
những ng−ời đμn bμ goá kiên c−ờng quê
tôi réo cán bộ xã: - Nè, sao không lập hợp
tác xã lẹ lẹ đi, dân ng−ời ta đang chờ
kìa”. Với họ, lúc ấy miền Bắc lμ thiên
đ−ờng thật mặc dù họ không thuộc câu
thơ “Miền Bắc thiên đ−ờng của các con
tôi” nh− chúng tôi đã từng thuộc qua Đμi.
Sau nμy, cũng chính những ng−ời vợ liệt
sĩ kiên c−ờng ấy siêng đi biểu tình hơn ai
hết để ủng hộ Đảng, ủng hộ Bác Hồ, đòi
bỏ tù bọn “c−ờng hμo mới đội danh Đảng
vμ Nhμ n−ớc nhân dân”, “đòi công bằng
ruộng đất” (12). Vậy lμ sự thật đã diễn ra
có những phần không nh− mơ −ớc, vμ đã
đ−ợc nhận thức sớm, nh−ng quyền vμ
trách nhiệm đ−ợc nói ra, trong cuộc đời vμ
trong văn học đã diễn ra không dễ dμng.
Phải cho đến Đại hội VI, cuối năm 1986,
tình hình trên mới thật sự có chuyển đổi,
khi chính Đảng nhận ra sai lầm vμ đề ra
đ−ờng lối Đổi mới. Tình trạng khủng
hoảng vμ sự tan rã của Liên Xô vμ các
n−ớc XHCN Đông Âu cũng có tác động
giúp ta đối chiếu vμ nhìn sâu hơn vμo các
vấn đề không chỉ riêng của n−ớc ta, mμ
còn lμ chung cho toμn phe; các vấn đề có
ý nghĩa phổ quát, không chỉ gắn với giai
cấp, với dân tộc, mμ còn lμ chung cho
nhân loại, để trên cơ sở đó chúng ta kiên
trì con đ−ờng xây dựng đất n−ớc theo
định h−ớng Đổi mới.
Kể cũng lμ muộn, nh−ng còn hơn
không, sự giác ngộ nμy ở một nền văn
học, qua tất cả các kỳ Đại hội hoặc các
dịp tổng kết, luôn luôn đ−ợc khẳng định
lμ liên tục có những b−ớc phát triển để
tiến tới một nền văn học lớn, vμ khuyết
điểm hoặc nh−ợc điểm gần nh− không
thay đổi lμ ch−a theo kịp cuộc sống, ch−a
v−ơn kịp tầm cao của dân tộc vμ thời đại.
Tầm cao trong chiến đấu vμ chiến thắng
của dân tộc đó lμ sự thật hiển nhiên, dẫu
cái giá của chiến thắng thì cho đến bây
giờ vẫn ch−a phải lμ đã nói đ−ợc đến độ
cần thiết, cμng không thể nói lμ tận
cùng. Nh−ng tầm cao trong xây dựng
CNXH thì quả ch−a tìm đ−ợc sự chứng
minh thật hùng hồn trong thực tiễn; có
điều sự thật đó không dễ đ−ợc chấp
nhận, vμ cμng khó trong việc phát hiện
vμ nói lên, nhất lμ nói lên bằng nghệ
thuật. Nh−ng sự thật sớm muộn rồi đã có
tiếng nói của nó, vμ đã diễn ra nh− một
phản biện bất ngờ. Một sự thật không chỉ
gây ngơ ngác mμ còn lμm đảo lộn nhiều
chân lý cũ. Nguyễn Khải từng đ−ợc tiếng
lμ nhμ văn sắc sảo trong việc phát hiện
sự thật, trong việc nhìn vμo mặt trái của
cuộc sống, thế mμ cũng mãi đến công
cuộc Đổi mới, khi tâm sự về “cái thời lãng
mạn” (13) của mình đã nói lên cái điều
hẳn từ lâu anh biết cách “đμo sâu chôn
chặt” rằng: phải có Đảng cho cởi trói thì
nhμ văn mới đ−ợc phép nói; rằng: phải có
sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi x−ớng
thì văn học mới đổi đ−ợc: “Lμm sao mμ
dám viết. Gan to bằng trời cũng không
dám viết. Mμ có viết thì Nhμ xuất bản
Vấn đề chủ nghĩa hiện thực... 19
nμo dám in. Vì chúng ta không có quyền
phê bình một chủ tr−ơng, một chính sách
tr−ớc khi Đảng tự nhận cần phải sửa đổi.
Sai thì cùng sai, đúng thì cùng đúng, tác
phẩm văn học đã mất dần cái khả năng
phát hiện, dự báo, đã xa cách hoặc đi
ng−ợc lại nhân tâm, dùng cái văn ch−ơng
phù phiếm để che đậy lên bao nhiêu điều
giả dối” (14). Ng−ời đã từng kêu gọi: “Văn
học phải cắt nghĩa vμ đề cập tới những
vấn đề nóng hổi nhất của đời sống” (10),
tác giả của những Xung đột, Tầm nhìn
xa, Chủ tịch huyện, Đối mặt... còn đi xa
hơn trong sự than trách vμ phủ định:
“Lắm lúc ngẫm lại, tôi thấy mình lμ một
đảng viên không đến nỗi kém cỏi gì. Thế
mμ hình nh− bao giờ cũng cứ bị chê trách.
Ví nh− tr−ớc đây tr−ớc khi đi nông thôn,
thế nμo tôi cũng phải nắm chắc những
nhận định chủ tr−ơng trong các nghị
quyết. Nh−ng đến nông thôn thì thấy
khác. Thế lμ trong đầu nẩy sinh thắc mắc.
Tôi gắng đ−a những điều ấy vμo sáng tác,
chỉ đến đoạn kết thì mới uốn éo đi (...).
Nhiều khi, tôi cảm thấy cái hiện thực
XHCN cứ lμm hại mình, vì hiện thực
XHCN lμ không đ−ợc phê phán, lμ cuối
cùng phải tốt đẹp, cứ đến đoạn kết thì
mình lại phải lãng mạn. Cả một mảng
viết nông nghiệp của tôi coi nh− bỏ đi”
(15). Đây lμ một phủ định dũng cảm, tuy
có quá đμ một chút, bởi một số sáng tác
về nông thôn của ông cho đến nay vẫn
còn giá trị. Dẫu vậy vẫn có một sự thật,
do chính Nguyễn Khải nói, cho nên đáng
tin, lμ sự gò bó, sự trói buộc đâu đó, bên
trong hoặc bên ngoμi, hoặc cả trong vμ
ngoμi nó cản trở nhμ văn phải tránh né,
không đi đ−ợc đến cùng sự thật. Từ tâm
sự trên đây của Nguyễn Khải, có lẽ cũng
lμ tâm sự của không ít ng−ời viết, ta
hiểu vì sao, trong bầu không khí cũ, quả
khó mμ chấp nhận đ−ợc những gì đi khác
hoặc đi chệch với các kết luận đã đ−ợc ghi
vμo Nghị quyết, thậm chí với sự chỉ dẫn
của các cấp lãnh đạo. Quả khó có ai trong
giới nhμ văn dám dũng cảm nói lên các
mặt trái, những gì sai quy luật, những
nỗi nhức nhối, oan khiên, tóm lại lμ một
sự thật đầy đủ, hoặc t−ơng đối đầy đủ,
để trong công cuộc Đổi mới hôm nay đ−a
ra hoặc khẳng định lại một luận thuyết
có ý nghĩa soi sáng hoặc mở đ−ờng cho
thực tiễn.
*
* *
Trở lại lịch sử hình thμnh khái niệm
hiện thực XHCN gắn với thời đại cách
mạng vô sản ở Việt Nam đã có độ dμi lịch
sử hơn nửa thế kỷ - tính đến công cuộc
Đổi mới, ta thấy sự tất yếu có tính quy
luật của nó, ở thời kỳ đầu hình thμnh. Đó
lμ thời kỳ giai cấp vô sản còn đang trong
một cuộc chiến quyết liệt để giμnh vμ giữ
chính quyền; vμ t−ơng lai lμ cái ch−a
thuộc tầm tay hoặc chỉ mới đ−ợc hình
dung sơ bộ; dẫu thế nμo mặc lòng, t−ơng
lai đó dứt khoát phải khác với cái cũ, phải
lμ sự phủ định cái cũ. Tất cả những gì
đang còn lμ mong muốn hoặc mới chỉ lμ
định h−ớng ấy đều nằm trong phạm trù
cái mới, cái cách mạng, cái đang v−ơn tới;
chính yêu cầu mới nμy Gorki đã nói đến
hùng hồn trong bμi diễn văn năm 1934;
vμ dễ hiểu vì sao nó đã đến với các giới
công chúng ở n−ớc ta trong một ánh hμo
quang rực rỡ.
Nh−ng toμn bộ sự phát triển của văn
học trên định h−ớng hiện thực XHCN mμ
ta muốn lμ −u việt ấy, kể cả trong n−ớc
vμ trên thế giới, rồi ra nh− ta đã thấy, sẽ
không thể lμ một cái gì cô lập, biệt lập,
mμ vẫn phải gắn với toμn bộ di sản văn
hoá của nhân loại. Có lúc nó muốn lμ
khác với tất cả những gì đã qua, đã có, vμ
yêu cầu tìm ra những đặc tr−ng khác
biệt nμy lμ hợp lý; nh−ng rồi dần dần, nó
vẫn phải lμ sự tiếp tục, nếu không nói lμ
20 Thông tin Khoa học xã hội, số 1.2008
trở về cùng dòng chảy với các thời đại đã
qua. Nó muốn khác với văn học trong
nhiều thế kỷ của chủ nghĩa t− bản, của
văn minh t− sản; nh−ng bản thân chủ
nghĩa t− bản vμ văn minh t− sản đã từng
lμ, vμ vẫn lμ một giai đoạn phát triển cao
của xã hội loμi ng−ời, đã từng sản sinh
những thời đại văn học lớn với những
nền, những trμo l−u, những nhμ văn vĩ
đại. Chính F. Engels đã khẳng định điều
nμy trong Phép biện chứng của tự nhiên:
“Những ng−ời đã đặt cơ sở cho nền thống
trị hiện đại của giai cấp t− sản có thể
đ−ợc coi bất cứ lμ những ng−ời nh− thế
nμo, nh−ng quyết không phải lμ những
ng−ời có tính hạn chế t− sản...”. Vμ, rộng
hơn: “Các cuộc cách mạng 1648 vμ 1789
không phải lμ cuộc cách mạng Anh hay
cuộc cách mạng Pháp, đó lμ những cuộc
cách mạng trong phạm vi châu Âu (...)
Trong hai cuộc cách mạng đó, giai cấp t−
sản đã giμnh đ−ợc thắng lợi, thế nh−ng
thắng lợi của giai cấp t− sản hồi đó có
nghĩa lμ thắng lợi của chế độ xã hội mới;
thắng lợi của chế độ sở hữu t− sản đối với
chế độ sở hữu phong kiến; thắng lợi của
cạnh tranh đối với ph−ờng hội; thắng lợi
của chế độ phân chia tμi sản đối với chế
độ kế thừa của ng−ời con tr−ởng; thắng
lợi của hiện t−ợng ruộng đất phụ thuộc
vμo ng−ời sở hữu đối với hiện t−ợng
ng−ời sở hữu phụ thuộc vμo ruộng đất;
thắng lợi của giáo dục đối với mê tín;
thắng lợi của gia đình đối với thị tộc;
thắng lợi của hoạt động công nghiệp đối
với phong thái l−ời biếng của ng−ời hiệp
sĩ; thắng lợi của pháp quyền t− sản đối
với đặc quyền Trung cổ” (16, tr.70).
Nh− vậy nếu xét trên tổng thể của
lịch sử vμ hμnh trình chung của nhân
loại thì văn học XHCN hoặc văn học hiện
thực XHCN quả có những điểm mới,
khác, có sự cách tân ở thời kỳ đầu theo
quy luật chung của sự phát triển nghệ
thuật - nh−ng không thể lμ sự đi chệch
ra ngoμi, hoặc tự đặt mình ở vị trí cao
hơn, −u việt hơn những thμnh tựu chung
của văn minh nhân loại. Mặt khác, cũng
chính do xuất phát từ bản chất vμ đặc
tr−ng của nghệ thuật mμ ta hiểu sự kế
tục nμy. Nếu khoa học lμ sự phủ định, để
cái sau phải hơn cái tr−ớc, thì nghệ thuật
lμ sự sáng tạo, không lặp lại để cái sau
phải khác cái tr−ớc. Mọi đỉnh cao của
nghệ thuật ở bất cứ thời nμo vẫn cứ sừng
sững lμ đỉnh cao, lμ ở trình độ cổ điển, vμ
không bao giờ che khuất lẫn nhau. Độ lùi
vμ cái nhìn toμn cảnh sẽ cho ta một đánh
giá bao quát vμ chân xác hơn trong việc
so sánh vμ nhìn nhận các giá trị. Văn học
viết theo ph−ơng pháp hiện thực XHCN
muốn lμ một giai đoạn phát triển cao hơn
trong yêu cầu nhận thức hiện thực vμ
phát hiện ra các xu thế của hiện thực.
Nh−ng suốt cả một thời gian dμi, chúng
ta đã quá chủ quan vμ đánh rơi mất phép
biện chứng của lịch sử. Sự thật, đã
không có đ−ợc sự toμn vẹn vμ tin cậy
trong một bộ phận sáng tác chính thống
của nền văn học mang danh lμ hiện thực
XHCN. Vμ trong cách hiểu về xu thế
phát triển của hiện thực rồi sẽ không chỉ
có một chiều đi lên, nh− sự khẳng định
tuyệt đối hoặc nh− một sự bắt buộc ở giai
đoạn đầu. Sự lạc quan không thể vμ
không chỉ đ−ợc hiểu theo một nghĩa, khi,
trong thực tế, bất chấp vμo lúc nμo, vμ
bất chấp thế giới thuộc “phe” nμo, cũng
đã diễn ra bao đổ vỡ, thất bại, bi kịch vμ
những điều đau lòng.
Thế nh−ng, trong cả một thời gian
dμi chúng ta đã ngây thơ cả tin về một
mục tiêu huy hoμng mμ sự phấn đấu
nắm bắt nó d−ờng nh− lại mỗi lúc một
xa, nếu không nói lμ nó vẫn còn đang
trong tình trạng của những định h−ớng
vμ mơ −ớc; hoặc đã quá say s−a chủ
quan tr−ớc một thực tế, có thμnh tựu,
Vấn đề chủ nghĩa hiện thực... 21
nh−ng cũng không ít sai lầm, thất bại.
Nhấn mạnh “sự phát triển cách
mạng của hiện thực”, dẫu Đảng luôn
luôn nhắc nhở phải tôn trọng quyền suy
nghĩ tự chủ vμ sáng tạo của nhμ văn, vμ
dẫu lý luận có triển khai cho phong phú
vμ uyển chuyển thế nμo đi nữa, thì trong
thực tế, sự chỉ đạo của các cấp cùng với
hoạt động của giới phê bình vμ d− luận
xã hội th−ờng vẫn chỉ quen chấp nhận sự
phản ánh cuộc sống theo h−ớng lạc quan;
vμ đã diễn ra sự phê phán lắm lúc khá
nặng nề một số tác phẩm nói đến các mặt
bi kịch vμ bế tắc của đời sống.
Nêu yêu cầu phản ánh hiện thực một
cách chân thật, ta còn ít khuyến khích các
tác phẩm h−ớng về các mặt xấu, tiêu cực,
gây lo âu vμ kêu gọi con ng−ời cảnh giác.
Chọn nhân vật chính lμ con ng−ời
mới, văn học đã thờ ơ, bỏ qua, không mấy
chú ý biết bao con ng−ời khác, thậm chí
ngại sợ ngay cả khái niệm “bình th−ờng” -
chẳng hạn: “con ng−ời bình th−ờng, cuộc
sống bình th−ờng”; vμ trong con ng−ời mới
ta không chấp nhận nhân vật có sai lầm,
có bi kịch, hoặc có phức tạp về đời t−...
Hiểu về tính Đảng vμ hiện thực
XHCN theo sự quy hẹp nh− trên, ta đã
tiến hμnh xử lý một số vụ - việc, mμ
không phải chờ đến bây giờ mới thấy rõ
sự bất công vμ oan uổng...
Kêu gọi một nền văn học lớn, với sự
vận dụng lý luận về hiện thực XHCN nh−
lμ một cẩm nang; nh−ng với lý luận đó, ta
đã tạo một nền văn học, tuy có những
thμnh tựu nhất định, trong đó có mặt,
thμnh tựu lμ lớn; nh−ng hiếm có những
đỉnh cao, vμ lại không ít sự tầm th−ờng,
trung bình hoặc giản đơn, sơ l−ợc.
Vμ nh− vậy, nếu khái niệm hiện
thực XHCN, nhiều chục năm tr−ớc đây
đã có một sức quyến rũ, kêu gọi đối với
không ít ng−ời viết, ở nhiều nơi, thì bây
giờ đang đứng tr−ớc yêu cầu nhận thức
lại, đánh giá lại. Bởi nó không thể tách
ra khỏi một phạm trù rộng lớn vμ bao
trùm lμ bản thân CNXH, ngót 20 năm
tr−ớc đây, đó lμ cả một phe, gồm nhiều
n−ớc do Liên Xô đứng đầu, vμ từ thập
niên cuối thế kỷ XX phe đó đã tan rã. Ta
không thay đổi mục tiêu (hoặc định
h−ớng) XHCN đ−ợc hiểu nh− lμ một xã
hội đ−a lại nhiều công bằng, dân chủ vμ
hạnh phúc cho con ng−ời hơn, thì nh−
vậy, ta cũng sẽ không thay đổi mục tiêu
nhân đạo của chủ nghĩa hiện thực
XHCN. Nếu bản chất của nghệ thuật
chân chính lμ h−ớng về sự thật, lμ không
giả dối, xuyên tạc (cả bôi đen vμ tô hồng),
thì hiện thực XHCN cμng phải tiếp tục
yêu cầu chân thật đó, nếu không muốn
nói lμ cμng phải chân thật hơn, trên lý
t−ởng XHCN. Nếu hiện thực XHCN đ−ợc
quan niệm nh− thế thì bất cứ lúc nμo ta
cũng cần đến nó. Có điều, từ tr−ớc đến
nay do một quan niệm chật chội, cứng
nhắc về nó, ta đã biến nó thμnh một giáo
điều; ta muốn văn học lμ hiện thực, cμng
hiện thực hơn, thì nó lại cμng xa hiện
thực, vμ vi phạm ngay cả quy luật của
bản thân nghệ thuật; ta muốn nó lμ chân
thật, lμ thuyết phục vμ hấp dẫn thì nó lại
trở nên sơ l−ợc vμ giả tạo. Cố nhiên
không phải toμn bộ sự phát triển của văn
học đã lμ nạn nhân; trên nhu cầu tinh
thần đ−ợc mở rộng của ng−ời đọc, vμ trên
ý thức cá nhân về sự sáng tạo của ng−ời
viết đ−ợc khẳng định, vẫn có vμ có nhiều
những ngoại lệ - đó lμ sức c−ỡng lại của
những tμi năng, những nghệ sĩ chân
chính không chịu khuất phục tr−ớc các
sức ép hữu hình hoặc vô hình đến từ các
nguyên lý, các quyền uy, các rμng buộc
bên trong hoặc bên ngoμi, ngay cả của
các thói quen của sự tầm th−ờng, dễ dãi.
Rõ rμng nếu hôm qua định h−ớng sự
thật nμy đ−ợc quán triệt mμ không bị cản
22 Thông tin Khoa học xã hội, số 1.2008
trở hoặc trù dập thì văn học hẳn sẽ có bộ
mặt khác hơn. Nếu sự phát triển cách
mạng của hiện thực đ−ợc quan niệm một
cách rộng mở vμ biện chứng nh− lμ những
dự báo vμ cảnh báo; vμ nếu những sáng
tác nh− vậy đ−ợc chấp nhận, để góp vμo
việc điều chỉnh vμ cải tạo hiện thực thì
biết đâu cuộc sống đã có thể khác đi. Cố
nhiên đây chỉ lμ giả định, bởi cuộc sống đã
diễn ra nh− nó đã diễn ra, mμ con ng−ời -
sản phẩm của lịch sử, nhìn vμo quá khứ
không phải để uốn nắn lịch sử - đã lμ lịch
sử thì sao mμ còn uốn nắn đ−ợc nữa - mμ
để tìm trong quá khứ những cội rễ của vấn
đề hôm nay. Nói cách khác, việc rút các bμi
học từ lịch sử, lμ nhằm mong cho t−ơng lai
đỡ bớt vấp váp, sai lầm.
Cần phải bổ sung, điều chỉnh, hoμn
thiện lý luận văn học của ta sao cho nó lμ
ph−ơng tiện h−ớng văn học đi vμo sự
thật, vμ đáp ứng tích cực cho sự nghiệp
xây dựng con ng−ời, cải tạo xã hội. Cần
một nền văn học áp sát vμo sự thật, vμ
cao hơn sự thật, một nền văn học lμ tiếng
nói của sự thật, không chỉ lμ tiếng nói ca
ngợi, biểu d−ơng mμ còn lμ cảnh báo, lμ
dự báo; vμ không phải chỉ có dự báo
những điều tốt lμnh mμ cần thiết còn lμ
gây lo âu (thế giới nμy còn biết bao lo âu,
hiểm hoạ!). Nền văn học đó hình thμnh
vμ phát triển trong thế kỷ XX, vμ lý luận
của nó, lý luận về nó cũng đã xuất hiện
từ đầu thế kỷ. Bao đầu óc lớn đã đ−ợc
huy động vμo việc chọn tên, vμ bảo vệ
cho cái tên đó. Nó đúng cho sự khái quát
một giai đoạn nhất định. Nó cần thiết
cho buổi đầu hình thμnh. Nó muốn có vai
trò định h−ớng cho các giai đoạn sau.
Nh−ng thực tiễn lớn hơn, cứng đầu hơn,
đã v−ợt ra ngoμi các kích th−ớc, khuôn
khổ đ−ợc quy gọn trong một định nghĩa,
vμ khó khăn đã nảy ra cho những ai khi
vận dụng lại nhất thiết tuân theo định
nghĩa. Lý luận đó, không chối cãi, lμ
đúng, lμ cần thiết, lμ có sức cổ vũ, động
viên cho một giai đoạn, nh−ng không thể
lμ chân lý cho muôn đời. Lμ một khái
niệm thuộc lĩnh vực của hình thái ý thức
nó không thể tách rời với sự phát triển
của thực tiễn lμ đời sống chính trị- kinh
tế- xã hội; khái niệm đó lại gắn với lĩnh
vực sáng tạo tinh thần vốn phải xác định
lẽ tồn tại ở những tìm tòi h−ớng tới
những khu vực mới, lạ, không lắp lại...
Thμnh ra mọi mong muốn mô hình hoá,
quy chuẩn hoá, điển chế hoá, nhanh
chóng trở nên khô cứng vμ biến thμnh
vật cản trở.
*
* *
Từ nhiều năm nay, ít ra lμ từ cuối
thế kỷ tr−ớc (sau công trình tổng kết:
Nhìn lại nửa thế kỷ lý luận hiện thực
XHCN ở Việt Nam (1936-1986) ấn hμnh
vμo năm 1999 (17) - một công trình mμ
tác giả của nó lμ chuyên gia lý luận văn
học Giáo s− Ph−ơng Lựu, dẫu có nêu yêu
cầu hiện thực XHCN phải “đổi mới, phát
triển trên tất cả các thμnh tố từ nội dung
đến thi pháp”, nh−ng d−ờng nh− vẫn còn
nhiều l−u luyến với khái niệm nμy; khiến
tôi trộm nghĩ: nếu đã thế thì sao không
tìm đến một tên gọi khác?), vấn đề hiện
thực XHCN không còn thấy nhμ lý luận
nμo nhắc tới, cũng không thấy đ−ợc ghi
vμo Báo cáo hoặc Nghị quyết nμo của
Đảng vμ của các Hội nghề nghiệp. Tôi
nghĩ nh− thế cũng lμ một cách ứng xử
hay; bởi thực tiễn đã chuyển sang một
giai đoạn (hoặc một thời đại) khác, với
những tình thế mới, những chân trời
mới; trong đó mọi trμo l−u, tr−ờng phái,
chủ nghĩa khi đã thực hiện xong nhiệm
vụ lịch sử của nó, sẽ chuyển đổi hình thái
vμ ph−ơng thức tồn tại, tựa nh− thế kỷ
Cổ điển chuyển sang thế kỷ ánh sáng,
chủ nghĩa Tự nhiên thay chủ nghĩa Hiện
thực, chủ nghĩa Lãng mạn chuyển sang
Siêu thực vμ T−ợng tr−ng; Hậu hiện đại
Vấn đề chủ nghĩa hiện thực... 23
thay cho Hiện đại... Bởi mọi phát triển lμm
nên dòng chảy xuyên suốt của lịch sử đều
lμ một sự phủ định biện chứng, để có một
g−ơng mặt khác; vμ đó lμ điều Ăngghen
cũng đã từng tổng kết trong các khái quát
triết học của mình: “Mỗi lần có một phát
minh mang ý nghĩa thời đại, ngay cả
trong lịch sử khoa học tự nhiên thì chủ
nghĩa duy vật lại không tránh khỏi thay
đổi hình thức của nó” (18, tr.409).
Trong kỷ nguyên Cách mạng Thông
tin vμ công cuộc Toμn cầu hóa lần thứ ba
nμy, chẳng phải chỉ riêng Chủ nghĩa Hiện
thực XHCN - sản phẩm của Liên Xô vμ
phe XHCN (cũ) hoặc Chủ nghĩa Hiện đại -
sản phẩm của thời đại Hậu công nghiệp,
mμ ngay chính cả bản thân văn học trong
nghĩa quen thuộc hμng nghìn năm nay của
nó cũng phải thay đổi, có nghĩa lμ, cũng sẽ
có một g−ơng mặt khác.
Tμi liệu tham khảo
1. Hải Triều. Đi tới tả thực chủ nghĩa trong
văn ch−ơng - Những khuynh h−ớng
trong tiểu thuyết. Tao Đμn, số 2, ngμy
16/3/1939; Maxim Gorki. Hồn trẻ, Tập
mới, số 5, ngμy 4/7/1936.
2. Văn học Xô Viết. H.: Văn học, 1960.
3. Chủ nghĩa hiện thực XHCN lμ gì?. H.:
Sự thật, 1970.
4. Những cuộc thảo luận về chủ nghĩa hiện
thực XHCN ở Liên Xô. H.: Văn học,
1961.
5. Chủ nghĩa hiện thực XHCN. H.: Sự thật,
1981.
6. Về văn hóa vμ nghệ thuật. Tập II. H.:
Văn học, 1986.
7. Nguyễn Đức Nam, Đỗ Xuân. Nghiên cứu
nghệ thuật, số 2/1981, số 3/1982.
8. Phong Lê. Văn xuôi Việt Nam trên con
đ−ờng hiện thực XHCN. H.: Khoa học
xã hội, 1980.
9.Th− của Ban chấp hμnh Trung −ơng
Đảng Cộng sản Việt Nam gửi Đại hội
văn nghệ toμn quốc lần thứ III, 1963. Về
Văn hóa nghệ thuật. H.: Văn hóa, 1976.
10. Văn nghệ vũ khí sắc bén. H.: Văn học,
1962.
11. Văn nghệ, số 42, ngμy 17/10/1987.
12. Nghĩ về thế hệ của mình. Báo Phụ nữ
thμnh phố Hồ Chí Minh, số Xuân 1990.
13. Văn nghệ số 43 vμ 44, tháng 10/1987.
14. Nghề văn, nhμ văn vμ Hội Nhμ văn.
Văn nghệ, số 18, ngμy 30/4/1988.
15. Vân Trang. Thảo luận “bμn tròn” tại
tuần báo Văn nghệ. Văn nghệ số 9, ngμy
27/2/1988 (lời ghi có thể không sát ý,
nh−ng nếu có sai thì tác giả đã đính
chính; nh− ý ghi về vấn đề tôn giáo, tác
giả đã đính chính.
16. C. Mác - F. ăngghen tuyển tập. Tập 4.
H.: Sự thật, 1971.
17. Nhìn lại nửa thế kỷ lý luận hiện thực
XHCN ở Việt Nam (1976-1986). H.:
Giáo dục, 1999.
18. C. Mác - F. ăngghen tuyển tập. Tập II.
H.: Chính trị quốc gia, 1995.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- van_de_chu_nghia_hien_thuc_xa_hoi_chu_nghia_trong_van_hoc_viet_nam_nhin_tu_lich_su_7007_2178590.pdf