Vấn đề chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa trong văn học Việt Nam - Nhìn từ lịch sử

Tài liệu Vấn đề chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa trong văn học Việt Nam - Nhìn từ lịch sử: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực... 13 vấn đề chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa trong văn học việt nam - nhìn từ lịch sử phong lê(*) ục tiêu hiện thực xã hội chủ nghĩa (XHCN) vốn đã đ−ợc xác định từ Hải Triều, lμ ng−ời đã nêu ra khái niệm “tả thực xã hội” vμ “tả thực XHCN” (1) trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm vμ phái nghệ thuật vị nghệ thuật giữa những năm 30 thế kỷ XX. Nh− vậy lμ thuật ngữ hiện thực XHCN đã xuất hiện ở Việt Nam chỉ vμi năm sau Đại hội nhμ văn Liên Xô lần thứ nhất, năm 1934, gắn với ng−ời khai sáng lμ M. Gorki, gắn với Cách mạng Tháng M−ời vμ Liên bang Xô Viết- quê h−ơng của cách mạng thế giới - niềm ng−ỡng mộ vμ hy vọng của cả một dân tộc còn chìm trong tối tăm đang đi tìm ánh sáng. Chỉ cần nhớ lại truyện kể Nhật ký chìm tμu của Nguyễn ái Quốc đ−ợc truyền tụng vμo buổi đầu những năm 30, vμ những bμi thơ của Tố Hữu tiếp đó về những “lão đầy tớ” ngồi “mơ n−ớc Nga”, mới thấy thuật ngữ “tả thực XHCN” xuất hiệ...

pdf11 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 441 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vấn đề chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa trong văn học Việt Nam - Nhìn từ lịch sử, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vấn đề chủ nghĩa hiện thực... 13 vấn đề chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa trong văn học việt nam - nhìn từ lịch sử phong lê(*) ục tiêu hiện thực xã hội chủ nghĩa (XHCN) vốn đã đ−ợc xác định từ Hải Triều, lμ ng−ời đã nêu ra khái niệm “tả thực xã hội” vμ “tả thực XHCN” (1) trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm vμ phái nghệ thuật vị nghệ thuật giữa những năm 30 thế kỷ XX. Nh− vậy lμ thuật ngữ hiện thực XHCN đã xuất hiện ở Việt Nam chỉ vμi năm sau Đại hội nhμ văn Liên Xô lần thứ nhất, năm 1934, gắn với ng−ời khai sáng lμ M. Gorki, gắn với Cách mạng Tháng M−ời vμ Liên bang Xô Viết- quê h−ơng của cách mạng thế giới - niềm ng−ỡng mộ vμ hy vọng của cả một dân tộc còn chìm trong tối tăm đang đi tìm ánh sáng. Chỉ cần nhớ lại truyện kể Nhật ký chìm tμu của Nguyễn ái Quốc đ−ợc truyền tụng vμo buổi đầu những năm 30, vμ những bμi thơ của Tố Hữu tiếp đó về những “lão đầy tớ” ngồi “mơ n−ớc Nga”, mới thấy thuật ngữ “tả thực XHCN” xuất hiện ở Việt Nam lμ thuộc vμo một cụm từ thiêng liêng đối với dân tộc, vμ do vậy mμ trở thμnh huý kị đối với chính quyền thống trị. Rồi hiện thực XHCN chính thức vμo các văn kiện của Đảng Cộng sản, tr−ớc tiên lμ Đề c−ơng về văn hoá Việt Nam 1943: “Nền văn hoá mμ cuộc cách mạng văn hoá Đông D−ơng phải thực hiện sẽ lμ văn hoá XHCN”... “Tranh đấu về tông phái văn nghệ (chống chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa t−ợng tr−ng) lμm cho xu h−ớng tả thực XHCN thắng”...; rồi vμo Chủ nghĩa Mác vμ văn hoá Việt Nam - năm 1948: “Về sáng tác văn nghệ lấy chủ nghĩa hiện thực XHCN lμm gốc”.1 Từ đây, nó th−ờng xuyên chiếm vị trí quan trọng trong phần viết về văn hoá văn nghệ của các Báo cáo hoặc Nghị quyết của Đảng, vμ Đại hội của các giới văn học nghệ thuật. Năm 1957, Diễn văn của Gorki tại Đại hội nhμ văn Liên Xô lần thứ nhất- năm 1934, Đại hội đã thông qua Điều lệ với định nghĩa kinh điển về hiện thực xã hội chủ nghĩa, lần đầu tiên vμ chính thức đ−ợc dịch ra tiếng Việt, với Lời nói đầu của ng−ời dịch lμ Hoμi Thanh; trong Lời nói đầu đó, Hoμi Thanh nhắc đến Gorki, “qua bản báo cáo nμy lμ hình ảnh một vĩ nhân đứng trên bậc cửa rất cao của cuộc đời mới nhìn sâu đến những chỗ tận cùng thời tiền sử, nhìn suốt x−a nay, vμ chỉ đ−ờng đi tới” (2). 1 (*) GS. Viện Văn học, Viện KHXH Việt Nam. m 14 Thông tin Khoa học xã hội, số 1.2008 Rồi nó vμo khu vực giáo khoa, khi sự nghiệp giáo dục Đại học đ−ợc mở rộng, từ nửa sau những năm 50, bắt đầu bằng việc dịch mấy bộ sách mang nội dung, hoặc đ−ợc gọi đích danh lμ “nguyên lý lý luận văn học” để phục vụ kịp thời nhu cầu đμo tạo sinh viên ở nhμ tr−ờng. Từ đầu những năm 60, vμ còn kéo dμi nhiều năm về sau, những bộ “nguyên lý” ấy nh− của Giăng Phơrêvin (Pháp), Timôphêép, Abramôvít, rồi các chuyên luận của P.S. Tơrôphimốp (3), V. Sécbina (4), A. Ivasencô (4), A.I. Ôpsarencô (5)... (cùng với cuốn của Ba Nhân vμ Bμi nói chuyện tại Hội nghị văn nghệ Diên An của Mao Trạch Đông) đã trở thμnh chỗ dựa cho các hoạt động lý luận văn học ở Việt Nam, bao gồm việc soạn thảo các giáo trình bậc Đại học vμ sách giáo khoa bậc Phổ thông, cho việc vận dụng vμo các hoạt động lý luận phê bình th−ờng nhật trên báo chí, vμ từng lμ cơ sở cho mấy cuộc hội thảo lớn chuẩn bị cho Đại hội nhμ văn Việt Nam lần thứ II, vμo cuối năm 1961, sau đó đ−ợc in trong hai tập sách: Văn nghệ- vũ khí sắc bén, vμ Không ngừng nâng cao tính Đảng trong văn nghệ - năm 1962... Tiếp đó, vμo giữa những năm 60 khi cuộc chiến tranh xâm l−ợc của Mỹ leo thang ra miền Bắc, giới học thuật Việt Nam lại b−ớc vμo một cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại mμ h−ớng chủ đạo lμ phê phán - phê phán thuyết tính ng−ời siêu giai cấp; phê phán các quan điểm coi nhẹ tính Đảng vμ hiện thực XHCN; phê phán chủ tr−ơng phá vỡ lôgich cuộc sống...; vμ đối t−ợng phê phán không chỉ lμ một số tác giả, tác phẩm trong n−ớc mμ còn lμ, vμ chủ yếu lμ một số chuyên gia, học giả ph−ơng Tây, từ Lucát, Vitma, Phitsơ, đến Garôđi... Nh− sau nμy sẽ sáng tỏ, việc nhận thức lại vμ phê phán các quan niệm chật chội, giáo điều về lý luận, trong đó có lý luận về chủ nghĩa hiện thực XHCN đã diễn ra ở Liên Xô, bắt đầu từ sau Đại hội Đảng lần thứ XX - năm 1956. Nh−ng tất cả sự “nhận thức lại” đó ở Liên Xô vμo lúc nμy chỉ đ−ợc giới thiệu vμo Việt Nam một phần, phần đó lại đ−ợc nhìn nhận một cách cảnh giác, vμ đ−ợc gộp vμo chung một cụm từ “chủ nghĩa xét lại”. Không kể Số phận một con ng−ời của Sôlôkhốp khi đ−ợc chuyển thμnh phim, cùng với hai phim Bμi ca ng−ời lính vμ Đμn sếu bay qua, ngay cả bộ ba Những ng−ời sống vμ Những ng−ời chết của Ximônốp lμ nhμ văn tên tuổi, có quan hệ thân thiết với Việt Nam, lμ ng−ời lãnh đạo Hội nhμ văn Liên Xô đã sang thăm Việt Nam nhiều lần, cũng có những điều khiến ta e ngại. Cố nhiên, do hoμn cảnh chiến tranh vμ do chủ tr−ơng chống chủ nghĩa xét lại - về mặt chính trị lμ không có lợi cho sự nghiệp chống Mỹ - giới học thuật Việt Nam không thể nμo nhận rõ vμ có điều kiện phân tích kỹ thực trạng lịch sử cụ thể của đời sống chính trị vμ văn học Liên Xô. Từ đầu những năm 1960 đến năm 1975, khi cuộc chiến tranh chống Mỹ kết thúc thắng lợi, sinh hoạt văn ch−ơng vμ học thuật ở Việt Nam vẫn phát triển trên đ−ờng ray cũ, ch−a có gì thay đổi: vấn đề hiện thực XHCN vẫn tiếp tục sự khẳng định các nguyên lý quen thuộc của nó, vμ với ý nghĩa thiêng liêng bất dịch của nó. Một thời điểm quan trọng cho sự khẳng định đó lμ Bμi nói chuyện của Tr−ờng Chinh trong Đại hội văn nghệ toμn quốc lần thứ T−, năm 1968 - trong đó, có sự tổng kết về Đ−ờng lối văn nghệ của Đảng, gồm 10 điểm; vμ một điểm then chốt trong đó lμ yêu cầu: “Nắm vững ph−ơng pháp hiện thực XHCN để sáng tác vμ phê bình” (6, tr.171). Vấn đề chủ nghĩa hiện thực... 15 Đầu năm 1970, các nhμ lý luận văn học ở Liên Xô, đứng đầu lμ D. Máccốp đã đặt vấn đề hiện thực XHCN nh− một hệ thống mở; nh−ng ở Việt Nam, phải hơn 10 năm sau, mới có sự giới thiệu (7). Còn ở khoảng giữa đó, tr−ớc sau thời điểm 1975 lịch sử, vẫn lμ các cuộc tranh luận khá gay gắt nhằm chống các ảo t−ởng hòa bình, cổ vũ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, phản đối lý thuyết “đối mặt” (con ng−ời với sự giằng co giữa hai mặt tốt - xấu, thiện-ác), tiếp tục phê phán bi kịch, không chấp nhận nhân vật tích cực có xung đột nội tâm... Trong hoμn cảnh nh− vậy, lý luận về hiện thực XHCN không thể tách ra khỏi quỹ đạo lý luận chung về văn nghệ. Nó vẫn tiếp tục giữ mμu sắc thiêng liêng khả kính của nó. Nói rằng nó lμ ph−ơng pháp tốt nhất, nh−ng trong sáng tác vμ phê bình nó cứ gần nh− lμ ở địa vị duy nhất, vì trong lý luận không có ai nói khác, vμ trong sáng tác không dễ gì có tìm tòi mới hoặc lạ, vẫn chỉ một xu h−ớng, một âm h−ởng chung bao trùm. Những gì đi chệch đ−ờng ray hiện thực XHCN phải coi chừng. Sau cuộc đấu tranh chống Nhân văn - Giai phẩm hồi 1956-1958 lại tiếp tục các vụ việc nh− Mạch n−ớc ngầm, Những ng−ời thợ mỏ, Con nai đen, Phá vây, Vμo đời, Mở hầm... rồi Cây táo ông Lμnh, Cái gốc, Tình rừng, Chuyện một đêm đợi tμu... rồi Vòng trắng, Sẹo đất, Đối mặt... cho đến Đất trắng vμ một số truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu ở thời điểm cuối những năm 70 đầu những năm 80 thế kỷ XX... Tóm lại, về lý luận, vẫn phải lμ sự quán triệt các nguyên tắc: miêu tả cái mới của đời sống lμ chủ yếu; chủ đề t− t−ởng phải sáng rõ; hình t−ợng nghệ thuật không thể lấp lửng, nếu có dạng “biểu t−ợng hai mặt” (équivoque) thì khó tránh khỏi có dụng ý xấu, vμ dứt khoát giới phê bình, lãnh đạo phải tìm kiếm vμ vạch cho ra; sự phát triển của hiện thực lμ phải đi lên, có quanh co khúc mắc mấy thì rồi âm điệu chung phải lμ lạc quan, vμ thắng lợi lμ cơ bản. ở chỗ nμo giới lý luận hoặc sách giáo khoa có tham vọng đi sâu hơn một chút vμo học thuật thì Chủ nghĩa Hiện thực phê phán phải có vị trí cao, thậm chí lμ độc tôn so với các trμo l−u khác - do nó đ−ợc xem lμ tiền thân, lμ sự chuẩn bị trực tiếp cho Chủ nghĩa Hiện thực XHCN. Không nói Chủ nghĩa Tự nhiên (đ−ợc hiểu có phần đơn giản, chỉ thấy mặt tiêu cực), vμ các trμo l−u Tiền phong chủ nghĩa - đ−ợc hiểu lμ Chủ nghĩa Hiện đại, ngay cả Chủ nghĩa Lãng mạn cũng phải ở vị trí thấp so với Chủ nghĩa Hiện thực; vμ Hiện thực XHCN dứt khoát phải lμ một b−ớc phát triển cao hơn của Hiện thực phê phán, một b−ớc chuyển về chất trong tiến trình lịch sử văn học nhân loại. (Cho đến nửa đầu những năm 90 vẫn còn luận điểm: Chủ nghĩa Hiện thực XHCN ra đời trên sự “suy kiệt sinh lực” của Chủ nghĩa Hiện thực phê phán). Ng−ời viết bμi nμy cũng đã góp phần h−ởng ứng mục tiêu đó trong một tên sách đ−ợc chuẩn bị ngay từ sau năm 1975, có tên: Văn xuôi Việt Nam trên con đ−ờng hiện thực XHCN với sự triển khai các ý t−ởng chính, căn cứ vμo các nguyên tắc cơ bản của ph−ơng pháp sáng tác hiện thực XHCN, vμ với một Lời nói đầu rất chân thμnh: “Nghĩ về văn xuôi nh− lμ một hình thức có khả năng đáp ứng tốt cho những đòi hỏi của cách mạng, vμ nghĩ về hiện thực XHCN nh− lμ ph−ơng pháp sáng tác có hiệu quả nhất, mμ mỗi ng−ời viết nên “nắm vững” - những trang sau đây muốn đ−ợc xem nh− lμ một ít căn cứ, nhằm khẳng định sự đúng đắn của con đ−ờng chúng ta đã đi, d−ới ánh sáng những nguyên lý mỹ học Marx - 16 Thông tin Khoa học xã hội, số 1.2008 Lenin vμ đ−ờng lối văn nghệ của Đảng” (8, tr.8). Tóm lại, trên từng giai đoạn của quá trình văn học suốt nửa thế kỷ qua, sự lãnh đạo của Đảng vμ hoạt động của lý luận - phê bình (đ−ợc xem nh− lμ một “ph−ơng thức chỉ đạo của Đảng trên mặt trận văn nghệ”), vμ d− luận của bạn đọc chính thống nói chung đã dμnh sự hồ hởi vμ nhiệt tình đón đợi, ca ngợi những sáng tác thật sự có thμnh công, có sức hấp dẫn trên ph−ơng h−ớng phát hiện cái mới, vμ khẳng định chủ nghĩa anh hùng của dân tộc. Trên số l−ợng khá lớn các tác phẩm nằm trong bản danh sách nμy, có thể kể Đôi mắt, Lμng, Truyện Tây Bắc, Đất n−ớc đứng lên, Sống mãi với thủ đô, Mùa lạc, Rẻo cao, Sông Đμ, Hòn Đất, Gia đình má Bảy, Xung đột, Bão biển, Ng−ời mẹ cầm súng, Dấu chân ng−ời lính, Ký sự miền đất lửa... Còn về thơ lμ cả một danh sách dμi những bμi, những tập, những quyển gắn với tên tuổi của vμi ba thế hệ viết, tính từ Xuân Diệu, Huy Cận, Tố Hữu, Chế Lan Viên... qua Hoμng Trung Thông, Vũ Cao, Chính Hữu... đến Thu Bồn, Phạm Tiến Duật, Xuân Quỳnh, Lê Anh Xuân, Bằng Việt... Thế nh−ng ngay cả ở thời điểm nền văn nghệ ta đầy sinh sắc, vμo đầu những năm 60 thế kỷ XX, với nhận định đầy cổ vũ của Đảng, sau Đại hội lần thứ Ba- 1960: “Một nền văn nghệ XHCN, tuy còn trẻ tuổi nh−ng nó đã tỏ ra có sức sống dồi dμo vμ đầy hứa hẹn” (9, tr.22), thời điểm mμ ph−ơng pháp hiện thực XHCN ở độ cao sức hấp dẫn của nó, thì dấu hiệu của những căn bệnh ấu trĩ, công thức vμ sơ l−ợc, của những “quan niệm giản đơn về ý thức chính trị” trong giới sáng tác vμ các giới có trách nhiệm thẩm định, nh− cách nói của Nh− Phong, cũng đã “hạn chế nhμ văn phản ánh trung thực cuộc sống hiện thực”. Nh− Phong - một cây bút phê bình tin cậy của Đảng, trong cuộc thảo luận chuẩn bị cho Đại hội nhμ văn lần thứ II, vμo cuối 1961, đã nêu ý kiến: “Đứng tr−ớc một tác phẩm văn nghệ, đánh giá nó tr−ớc tiên về mặt chính trị lμ đúng, nh−ng th−ờng ng−ời ta hiểu “chính trị” một cách thiển cận”... “Phản ánh hiện thực bây giờ nhiều khi phải đề cập đến những tác phẩm trong nội bộ chúng ta không tốt đẹp gì. Những cán bộ quan liêu, tham ô, lãng phí, những đảng viên không g−ơng mẫu, quần chúng cách mạng còn phức tạp... Cái đó tỏ ra không có hại gì. Nh−ng trong tâm lý chung, vẫn có cái sợ lμ không có “chính trị” vμ tả sự thật nh− thế lμ lμm mất uy tín của cán bộ, của đảng viên, của quần chúng cách mạng. Đi xem Platôn Krêset nhiều đồng chí cán bộ phản ứng tại sao anh giám đốc bệnh viện, một cán bộ phụ trách lại có thể xấu xa nh− vậy. Chính vì những ý thức chính trị giản đơn nh− thế mμ ng−ời viết non gan nhiều khi phải cắt xén hiện thực, mμi mòn cạnh cho nó khuôn, nó hợp theo một công thức nμo đó. Điều đó không thể đổ lỗi cho Đảng ta, Đảng ta không bao giờ sợ sự thật, đ−ờng lối văn nghệ của Đảng ta không bao giờ bắt phải tô hồng cuộc sống. Nh−ng trong thực tiễn chỉ đạo văn nghệ, phê bình văn nghệ hoặc th−ởng thức văn nghệ, vẫn còn tình trạng hiểu “chính trị” một cách máy móc gò bó nh− vậy, ch−a thừa nhận cho văn nghệ cái quyền đ−ợc mạnh dạn đề cập, phản ánh bất cứ vấn đề nμo trong hiện thực mμ nhμ văn thấy lμ cần thiết phải nói đến” (10, tr.153). Tìm nguyên nhân của bệnh sơ l−ợc, về phía nhμ văn, Nh− Phong xét nó ở cái “thói quan liêu” vμ “thiếu dũng khí”: “... ở nhμ văn ta, đầu óc quan liêu cũng nhiều chứ không ít, hay lấy cái công thức sẵn có, nhận định sẵn có, thay cho việc nghiên cứu cuộc sống, rất ít tự mình đi Vấn đề chủ nghĩa hiện thực... 17 vμo cuộc sống để phát hiện vấn đề. Đi đến đâu cũng chỉ chăm chăm lấy tμi liệu của cấp uỷ, của cán bộ các ngμnh rồi xuống đối chiếu để tìm”... “Thứ ba lμ cái thiếu dũng khí. Quả lμ có nh− vậy. Nếu nhμ văn sát cuộc sống, phát hiện đ−ợc trong cuộc sống những sự thật cần phải nói lên, những vấn đề cần phải giải quyết, dù lμ những gì gai góc khó nói thì ai có thể t−ớc đ−ợc cái quyền của nhμ văn phát biểu với Đảng” (10, tr.154). Bây giờ sau quãng lùi của nhiều chục năm vμ trong tầm cao của công cuộc Đổi mới mμ nhìn lại, điều rõ rμng lμ, bên cạnh những thμnh tựu, những cái đ−ợc trong mô tả một hiện thực đang đi vμo công cuộc xây dựng mới, cũng còn có một sự thật khác còn mờ nhạt trong văn học, một sự thật, phải cho đến Đại hội VI của Đảng - Đại hội đã nêu ph−ơng châm “Lấy Dân lμm gốc”, vμ “Nhìn thẳng vμo sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, vμo cuối năm 1986 - chúng ta mới dám có dũng cảm nói lên: đó lμ sự thật về những thiếu sót vμ thất bại, về những mất mát vμ nỗi đau, về những gì gây lo âu vμ cảnh giác, về cả những tai hoạ không phải chỉ do kẻ thù dân tộc vμ giai cấp gây ra, mμ còn do chính chúng ta gây ra, trong đó có bệnh duy ý chí vμ t− duy bao cấp, gồm cả sự “dốt nát” - theo Marx, cũng lμ nguyên nhân gây bi kịch - cùng biết bao tệ bệnh... Một sự thật tuy không phải lμ chính, lμ chủ yếu, nh−ng cũng lμ quan trọng, lμ lớn, cùng đi kèm, cùng song song tồn tại để lμm nên bộ mặt cuộc sống nh− chính nó, nh−ng do nhiều nguyên nhân, không ít ng−ời viết đã đμnh lòng hoặc nén lòng quay l−ng vμ bỏ qua. Một sự thật lâu lâu lại thấy lấp ló hé ra trên một vệt sáng tác, vμ nhanh chóng bị vùi vμo quên lãng; trong số đó, cho đến bây giờ nhìn lại, không phải không có những cái thật sự có giá trị tiên đoán mμ không ít ng−ời viết đã phải trả giá đắt cho sự dũng cảm của mình. Nh− vậy lμ bên cạnh sự thật lớn, hμo hùng về hai cuộc kháng chiến chống Pháp vμ chống Mỹ vĩ đại trên cả tiền tuyến vμ hậu ph−ơng còn một sự thật khác của sự nghiệp xây dựng - sự thật đó đã sớm có bộ mặt trong văn học miền Bắc từ đầu những năm 60 mμ âm điệu chung lμ phơi phới, lạc quan, vμ r−ng r−ng một cảm xúc trữ tình nh− đ−ợc ghi nhận trong ánh sáng vμ phù sa của Chế Lan Viên, Bμi thơ cuộc đời của Huy Cận, Bμi ca mùa Xuân 61 của Tố Hữu: “Chμo 61, đỉnh cao muôn tr−ợng”... Sự thật đó lμ đúng, nh−ng ch−a đủ, nếu theo dõi sát diễn biến của sự nghiệp xây dựng CNXH từ giữa những năm 60 gối sang những năm 70 thế kỷ XX, khi các mặt tiêu cực trong đời sống kinh tế- xã hội ở miền Bắc bắt đầu bộc lộ vμ phát triển. Nói cách khác, sự thật đó đã không đ−ợc nhìn nhận toμn diện, bên cạnh lý do chính đáng lμ hoμn cảnh chiến tranh, cũng có mặt bởi cái quan niệm tồn tại trong các giới quản lý lãnh đạo vμ trong bản thân nhμ văn, cho rằng: hiện thực XHCN với t− cách một ph−ơng pháp sáng tác −u việt hơn tất cả, phải lμ sự khẳng định những mặt tốt đẹp vμ đi lên của hiện thực, vμ rộng hơn, bởi cái niềm tin công cuộc xây dựng CNXH do Đảng lãnh đạo lμ một sự nghiệp hoμn toμn tốt đẹp, nếu có thiếu sót, sai lầm thì chỉ lμ bộ phận vμ nhanh chóng đ−ợc khắc phục; vμ thắng lợi, thμnh công lμ cơ bản. Nhận thức vμ niềm tin nμy chi phối suốt mấy chục năm qua gắn với niềm tin vμo Đảng, vμ gắn với ý thức nắm vững tính Đảng đ−ợc xem nh− lμ linh hồn của ph−ơng pháp sáng tác hiện thực XHCN. Đồng chí Nguyễn Văn Linh, Tổng bí th− của Đảng, trong cuộc gặp gỡ giới văn nghệ sĩ, vμo tháng 10-1987, cũng có nhận xét vμ tâm sự trên 18 Thông tin Khoa học xã hội, số 1.2008 hiện t−ợng có thật nμy: “Tr−ớc đây ta th−ờng có quan niệm giản đơn: hễ đã nói tới xã hội XHCN lμ chỉ có những điều tốt đẹp. Quan niệm nh− vậy rõ rμng lμ ảo t−ởng, ngây thơ. Tr−ớc đây, có lúc tôi cũng đã từng nghĩ nh− vậy (...). Một cái khó nữa mμ tôi có cảm giác lμ khi có chính quyền rồi bắt tay vμo xây dựng CNXH thì có t− t−ởng cho rằng mọi việc đều tốt đẹp cả. Vì vậy trong sáng tác th−ờng thiên về h−ớng ca ngợi một chiều, “tô hồng”. Ai viết về ng−ời không tốt, việc không tốt th−ờng bị mang tiếng lμ bôi đen” (11). Một cây bút trẻ, Dạ Ngân, thuộc lớp ng−ời viết mới sau nμy cũng cảm nhận đ−ợc hiện t−ợng tâm lý mang tính phổ biến ấy: “Đã có một thời, không riêng gì lớp trẻ, mμ cả những ng−ời không còn khả năng mơ mộng cũng t−ởng sẵn độc lập, sẵn hoμ bình thì mọi thứ kể cả no ấm vμ công bằng cũng sẵn theo (...). Tôi lại nhớ hồi mới hoμ bình, những ng−ời đμn bμ goá kiên c−ờng quê tôi réo cán bộ xã: - Nè, sao không lập hợp tác xã lẹ lẹ đi, dân ng−ời ta đang chờ kìa”. Với họ, lúc ấy miền Bắc lμ thiên đ−ờng thật mặc dù họ không thuộc câu thơ “Miền Bắc thiên đ−ờng của các con tôi” nh− chúng tôi đã từng thuộc qua Đμi. Sau nμy, cũng chính những ng−ời vợ liệt sĩ kiên c−ờng ấy siêng đi biểu tình hơn ai hết để ủng hộ Đảng, ủng hộ Bác Hồ, đòi bỏ tù bọn “c−ờng hμo mới đội danh Đảng vμ Nhμ n−ớc nhân dân”, “đòi công bằng ruộng đất” (12). Vậy lμ sự thật đã diễn ra có những phần không nh− mơ −ớc, vμ đã đ−ợc nhận thức sớm, nh−ng quyền vμ trách nhiệm đ−ợc nói ra, trong cuộc đời vμ trong văn học đã diễn ra không dễ dμng. Phải cho đến Đại hội VI, cuối năm 1986, tình hình trên mới thật sự có chuyển đổi, khi chính Đảng nhận ra sai lầm vμ đề ra đ−ờng lối Đổi mới. Tình trạng khủng hoảng vμ sự tan rã của Liên Xô vμ các n−ớc XHCN Đông Âu cũng có tác động giúp ta đối chiếu vμ nhìn sâu hơn vμo các vấn đề không chỉ riêng của n−ớc ta, mμ còn lμ chung cho toμn phe; các vấn đề có ý nghĩa phổ quát, không chỉ gắn với giai cấp, với dân tộc, mμ còn lμ chung cho nhân loại, để trên cơ sở đó chúng ta kiên trì con đ−ờng xây dựng đất n−ớc theo định h−ớng Đổi mới. Kể cũng lμ muộn, nh−ng còn hơn không, sự giác ngộ nμy ở một nền văn học, qua tất cả các kỳ Đại hội hoặc các dịp tổng kết, luôn luôn đ−ợc khẳng định lμ liên tục có những b−ớc phát triển để tiến tới một nền văn học lớn, vμ khuyết điểm hoặc nh−ợc điểm gần nh− không thay đổi lμ ch−a theo kịp cuộc sống, ch−a v−ơn kịp tầm cao của dân tộc vμ thời đại. Tầm cao trong chiến đấu vμ chiến thắng của dân tộc đó lμ sự thật hiển nhiên, dẫu cái giá của chiến thắng thì cho đến bây giờ vẫn ch−a phải lμ đã nói đ−ợc đến độ cần thiết, cμng không thể nói lμ tận cùng. Nh−ng tầm cao trong xây dựng CNXH thì quả ch−a tìm đ−ợc sự chứng minh thật hùng hồn trong thực tiễn; có điều sự thật đó không dễ đ−ợc chấp nhận, vμ cμng khó trong việc phát hiện vμ nói lên, nhất lμ nói lên bằng nghệ thuật. Nh−ng sự thật sớm muộn rồi đã có tiếng nói của nó, vμ đã diễn ra nh− một phản biện bất ngờ. Một sự thật không chỉ gây ngơ ngác mμ còn lμm đảo lộn nhiều chân lý cũ. Nguyễn Khải từng đ−ợc tiếng lμ nhμ văn sắc sảo trong việc phát hiện sự thật, trong việc nhìn vμo mặt trái của cuộc sống, thế mμ cũng mãi đến công cuộc Đổi mới, khi tâm sự về “cái thời lãng mạn” (13) của mình đã nói lên cái điều hẳn từ lâu anh biết cách “đμo sâu chôn chặt” rằng: phải có Đảng cho cởi trói thì nhμ văn mới đ−ợc phép nói; rằng: phải có sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi x−ớng thì văn học mới đổi đ−ợc: “Lμm sao mμ dám viết. Gan to bằng trời cũng không dám viết. Mμ có viết thì Nhμ xuất bản Vấn đề chủ nghĩa hiện thực... 19 nμo dám in. Vì chúng ta không có quyền phê bình một chủ tr−ơng, một chính sách tr−ớc khi Đảng tự nhận cần phải sửa đổi. Sai thì cùng sai, đúng thì cùng đúng, tác phẩm văn học đã mất dần cái khả năng phát hiện, dự báo, đã xa cách hoặc đi ng−ợc lại nhân tâm, dùng cái văn ch−ơng phù phiếm để che đậy lên bao nhiêu điều giả dối” (14). Ng−ời đã từng kêu gọi: “Văn học phải cắt nghĩa vμ đề cập tới những vấn đề nóng hổi nhất của đời sống” (10), tác giả của những Xung đột, Tầm nhìn xa, Chủ tịch huyện, Đối mặt... còn đi xa hơn trong sự than trách vμ phủ định: “Lắm lúc ngẫm lại, tôi thấy mình lμ một đảng viên không đến nỗi kém cỏi gì. Thế mμ hình nh− bao giờ cũng cứ bị chê trách. Ví nh− tr−ớc đây tr−ớc khi đi nông thôn, thế nμo tôi cũng phải nắm chắc những nhận định chủ tr−ơng trong các nghị quyết. Nh−ng đến nông thôn thì thấy khác. Thế lμ trong đầu nẩy sinh thắc mắc. Tôi gắng đ−a những điều ấy vμo sáng tác, chỉ đến đoạn kết thì mới uốn éo đi (...). Nhiều khi, tôi cảm thấy cái hiện thực XHCN cứ lμm hại mình, vì hiện thực XHCN lμ không đ−ợc phê phán, lμ cuối cùng phải tốt đẹp, cứ đến đoạn kết thì mình lại phải lãng mạn. Cả một mảng viết nông nghiệp của tôi coi nh− bỏ đi” (15). Đây lμ một phủ định dũng cảm, tuy có quá đμ một chút, bởi một số sáng tác về nông thôn của ông cho đến nay vẫn còn giá trị. Dẫu vậy vẫn có một sự thật, do chính Nguyễn Khải nói, cho nên đáng tin, lμ sự gò bó, sự trói buộc đâu đó, bên trong hoặc bên ngoμi, hoặc cả trong vμ ngoμi nó cản trở nhμ văn phải tránh né, không đi đ−ợc đến cùng sự thật. Từ tâm sự trên đây của Nguyễn Khải, có lẽ cũng lμ tâm sự của không ít ng−ời viết, ta hiểu vì sao, trong bầu không khí cũ, quả khó mμ chấp nhận đ−ợc những gì đi khác hoặc đi chệch với các kết luận đã đ−ợc ghi vμo Nghị quyết, thậm chí với sự chỉ dẫn của các cấp lãnh đạo. Quả khó có ai trong giới nhμ văn dám dũng cảm nói lên các mặt trái, những gì sai quy luật, những nỗi nhức nhối, oan khiên, tóm lại lμ một sự thật đầy đủ, hoặc t−ơng đối đầy đủ, để trong công cuộc Đổi mới hôm nay đ−a ra hoặc khẳng định lại một luận thuyết có ý nghĩa soi sáng hoặc mở đ−ờng cho thực tiễn. * * * Trở lại lịch sử hình thμnh khái niệm hiện thực XHCN gắn với thời đại cách mạng vô sản ở Việt Nam đã có độ dμi lịch sử hơn nửa thế kỷ - tính đến công cuộc Đổi mới, ta thấy sự tất yếu có tính quy luật của nó, ở thời kỳ đầu hình thμnh. Đó lμ thời kỳ giai cấp vô sản còn đang trong một cuộc chiến quyết liệt để giμnh vμ giữ chính quyền; vμ t−ơng lai lμ cái ch−a thuộc tầm tay hoặc chỉ mới đ−ợc hình dung sơ bộ; dẫu thế nμo mặc lòng, t−ơng lai đó dứt khoát phải khác với cái cũ, phải lμ sự phủ định cái cũ. Tất cả những gì đang còn lμ mong muốn hoặc mới chỉ lμ định h−ớng ấy đều nằm trong phạm trù cái mới, cái cách mạng, cái đang v−ơn tới; chính yêu cầu mới nμy Gorki đã nói đến hùng hồn trong bμi diễn văn năm 1934; vμ dễ hiểu vì sao nó đã đến với các giới công chúng ở n−ớc ta trong một ánh hμo quang rực rỡ. Nh−ng toμn bộ sự phát triển của văn học trên định h−ớng hiện thực XHCN mμ ta muốn lμ −u việt ấy, kể cả trong n−ớc vμ trên thế giới, rồi ra nh− ta đã thấy, sẽ không thể lμ một cái gì cô lập, biệt lập, mμ vẫn phải gắn với toμn bộ di sản văn hoá của nhân loại. Có lúc nó muốn lμ khác với tất cả những gì đã qua, đã có, vμ yêu cầu tìm ra những đặc tr−ng khác biệt nμy lμ hợp lý; nh−ng rồi dần dần, nó vẫn phải lμ sự tiếp tục, nếu không nói lμ 20 Thông tin Khoa học xã hội, số 1.2008 trở về cùng dòng chảy với các thời đại đã qua. Nó muốn khác với văn học trong nhiều thế kỷ của chủ nghĩa t− bản, của văn minh t− sản; nh−ng bản thân chủ nghĩa t− bản vμ văn minh t− sản đã từng lμ, vμ vẫn lμ một giai đoạn phát triển cao của xã hội loμi ng−ời, đã từng sản sinh những thời đại văn học lớn với những nền, những trμo l−u, những nhμ văn vĩ đại. Chính F. Engels đã khẳng định điều nμy trong Phép biện chứng của tự nhiên: “Những ng−ời đã đặt cơ sở cho nền thống trị hiện đại của giai cấp t− sản có thể đ−ợc coi bất cứ lμ những ng−ời nh− thế nμo, nh−ng quyết không phải lμ những ng−ời có tính hạn chế t− sản...”. Vμ, rộng hơn: “Các cuộc cách mạng 1648 vμ 1789 không phải lμ cuộc cách mạng Anh hay cuộc cách mạng Pháp, đó lμ những cuộc cách mạng trong phạm vi châu Âu (...) Trong hai cuộc cách mạng đó, giai cấp t− sản đã giμnh đ−ợc thắng lợi, thế nh−ng thắng lợi của giai cấp t− sản hồi đó có nghĩa lμ thắng lợi của chế độ xã hội mới; thắng lợi của chế độ sở hữu t− sản đối với chế độ sở hữu phong kiến; thắng lợi của cạnh tranh đối với ph−ờng hội; thắng lợi của chế độ phân chia tμi sản đối với chế độ kế thừa của ng−ời con tr−ởng; thắng lợi của hiện t−ợng ruộng đất phụ thuộc vμo ng−ời sở hữu đối với hiện t−ợng ng−ời sở hữu phụ thuộc vμo ruộng đất; thắng lợi của giáo dục đối với mê tín; thắng lợi của gia đình đối với thị tộc; thắng lợi của hoạt động công nghiệp đối với phong thái l−ời biếng của ng−ời hiệp sĩ; thắng lợi của pháp quyền t− sản đối với đặc quyền Trung cổ” (16, tr.70). Nh− vậy nếu xét trên tổng thể của lịch sử vμ hμnh trình chung của nhân loại thì văn học XHCN hoặc văn học hiện thực XHCN quả có những điểm mới, khác, có sự cách tân ở thời kỳ đầu theo quy luật chung của sự phát triển nghệ thuật - nh−ng không thể lμ sự đi chệch ra ngoμi, hoặc tự đặt mình ở vị trí cao hơn, −u việt hơn những thμnh tựu chung của văn minh nhân loại. Mặt khác, cũng chính do xuất phát từ bản chất vμ đặc tr−ng của nghệ thuật mμ ta hiểu sự kế tục nμy. Nếu khoa học lμ sự phủ định, để cái sau phải hơn cái tr−ớc, thì nghệ thuật lμ sự sáng tạo, không lặp lại để cái sau phải khác cái tr−ớc. Mọi đỉnh cao của nghệ thuật ở bất cứ thời nμo vẫn cứ sừng sững lμ đỉnh cao, lμ ở trình độ cổ điển, vμ không bao giờ che khuất lẫn nhau. Độ lùi vμ cái nhìn toμn cảnh sẽ cho ta một đánh giá bao quát vμ chân xác hơn trong việc so sánh vμ nhìn nhận các giá trị. Văn học viết theo ph−ơng pháp hiện thực XHCN muốn lμ một giai đoạn phát triển cao hơn trong yêu cầu nhận thức hiện thực vμ phát hiện ra các xu thế của hiện thực. Nh−ng suốt cả một thời gian dμi, chúng ta đã quá chủ quan vμ đánh rơi mất phép biện chứng của lịch sử. Sự thật, đã không có đ−ợc sự toμn vẹn vμ tin cậy trong một bộ phận sáng tác chính thống của nền văn học mang danh lμ hiện thực XHCN. Vμ trong cách hiểu về xu thế phát triển của hiện thực rồi sẽ không chỉ có một chiều đi lên, nh− sự khẳng định tuyệt đối hoặc nh− một sự bắt buộc ở giai đoạn đầu. Sự lạc quan không thể vμ không chỉ đ−ợc hiểu theo một nghĩa, khi, trong thực tế, bất chấp vμo lúc nμo, vμ bất chấp thế giới thuộc “phe” nμo, cũng đã diễn ra bao đổ vỡ, thất bại, bi kịch vμ những điều đau lòng. Thế nh−ng, trong cả một thời gian dμi chúng ta đã ngây thơ cả tin về một mục tiêu huy hoμng mμ sự phấn đấu nắm bắt nó d−ờng nh− lại mỗi lúc một xa, nếu không nói lμ nó vẫn còn đang trong tình trạng của những định h−ớng vμ mơ −ớc; hoặc đã quá say s−a chủ quan tr−ớc một thực tế, có thμnh tựu, Vấn đề chủ nghĩa hiện thực... 21 nh−ng cũng không ít sai lầm, thất bại. Nhấn mạnh “sự phát triển cách mạng của hiện thực”, dẫu Đảng luôn luôn nhắc nhở phải tôn trọng quyền suy nghĩ tự chủ vμ sáng tạo của nhμ văn, vμ dẫu lý luận có triển khai cho phong phú vμ uyển chuyển thế nμo đi nữa, thì trong thực tế, sự chỉ đạo của các cấp cùng với hoạt động của giới phê bình vμ d− luận xã hội th−ờng vẫn chỉ quen chấp nhận sự phản ánh cuộc sống theo h−ớng lạc quan; vμ đã diễn ra sự phê phán lắm lúc khá nặng nề một số tác phẩm nói đến các mặt bi kịch vμ bế tắc của đời sống. Nêu yêu cầu phản ánh hiện thực một cách chân thật, ta còn ít khuyến khích các tác phẩm h−ớng về các mặt xấu, tiêu cực, gây lo âu vμ kêu gọi con ng−ời cảnh giác. Chọn nhân vật chính lμ con ng−ời mới, văn học đã thờ ơ, bỏ qua, không mấy chú ý biết bao con ng−ời khác, thậm chí ngại sợ ngay cả khái niệm “bình th−ờng” - chẳng hạn: “con ng−ời bình th−ờng, cuộc sống bình th−ờng”; vμ trong con ng−ời mới ta không chấp nhận nhân vật có sai lầm, có bi kịch, hoặc có phức tạp về đời t−... Hiểu về tính Đảng vμ hiện thực XHCN theo sự quy hẹp nh− trên, ta đã tiến hμnh xử lý một số vụ - việc, mμ không phải chờ đến bây giờ mới thấy rõ sự bất công vμ oan uổng... Kêu gọi một nền văn học lớn, với sự vận dụng lý luận về hiện thực XHCN nh− lμ một cẩm nang; nh−ng với lý luận đó, ta đã tạo một nền văn học, tuy có những thμnh tựu nhất định, trong đó có mặt, thμnh tựu lμ lớn; nh−ng hiếm có những đỉnh cao, vμ lại không ít sự tầm th−ờng, trung bình hoặc giản đơn, sơ l−ợc. Vμ nh− vậy, nếu khái niệm hiện thực XHCN, nhiều chục năm tr−ớc đây đã có một sức quyến rũ, kêu gọi đối với không ít ng−ời viết, ở nhiều nơi, thì bây giờ đang đứng tr−ớc yêu cầu nhận thức lại, đánh giá lại. Bởi nó không thể tách ra khỏi một phạm trù rộng lớn vμ bao trùm lμ bản thân CNXH, ngót 20 năm tr−ớc đây, đó lμ cả một phe, gồm nhiều n−ớc do Liên Xô đứng đầu, vμ từ thập niên cuối thế kỷ XX phe đó đã tan rã. Ta không thay đổi mục tiêu (hoặc định h−ớng) XHCN đ−ợc hiểu nh− lμ một xã hội đ−a lại nhiều công bằng, dân chủ vμ hạnh phúc cho con ng−ời hơn, thì nh− vậy, ta cũng sẽ không thay đổi mục tiêu nhân đạo của chủ nghĩa hiện thực XHCN. Nếu bản chất của nghệ thuật chân chính lμ h−ớng về sự thật, lμ không giả dối, xuyên tạc (cả bôi đen vμ tô hồng), thì hiện thực XHCN cμng phải tiếp tục yêu cầu chân thật đó, nếu không muốn nói lμ cμng phải chân thật hơn, trên lý t−ởng XHCN. Nếu hiện thực XHCN đ−ợc quan niệm nh− thế thì bất cứ lúc nμo ta cũng cần đến nó. Có điều, từ tr−ớc đến nay do một quan niệm chật chội, cứng nhắc về nó, ta đã biến nó thμnh một giáo điều; ta muốn văn học lμ hiện thực, cμng hiện thực hơn, thì nó lại cμng xa hiện thực, vμ vi phạm ngay cả quy luật của bản thân nghệ thuật; ta muốn nó lμ chân thật, lμ thuyết phục vμ hấp dẫn thì nó lại trở nên sơ l−ợc vμ giả tạo. Cố nhiên không phải toμn bộ sự phát triển của văn học đã lμ nạn nhân; trên nhu cầu tinh thần đ−ợc mở rộng của ng−ời đọc, vμ trên ý thức cá nhân về sự sáng tạo của ng−ời viết đ−ợc khẳng định, vẫn có vμ có nhiều những ngoại lệ - đó lμ sức c−ỡng lại của những tμi năng, những nghệ sĩ chân chính không chịu khuất phục tr−ớc các sức ép hữu hình hoặc vô hình đến từ các nguyên lý, các quyền uy, các rμng buộc bên trong hoặc bên ngoμi, ngay cả của các thói quen của sự tầm th−ờng, dễ dãi. Rõ rμng nếu hôm qua định h−ớng sự thật nμy đ−ợc quán triệt mμ không bị cản 22 Thông tin Khoa học xã hội, số 1.2008 trở hoặc trù dập thì văn học hẳn sẽ có bộ mặt khác hơn. Nếu sự phát triển cách mạng của hiện thực đ−ợc quan niệm một cách rộng mở vμ biện chứng nh− lμ những dự báo vμ cảnh báo; vμ nếu những sáng tác nh− vậy đ−ợc chấp nhận, để góp vμo việc điều chỉnh vμ cải tạo hiện thực thì biết đâu cuộc sống đã có thể khác đi. Cố nhiên đây chỉ lμ giả định, bởi cuộc sống đã diễn ra nh− nó đã diễn ra, mμ con ng−ời - sản phẩm của lịch sử, nhìn vμo quá khứ không phải để uốn nắn lịch sử - đã lμ lịch sử thì sao mμ còn uốn nắn đ−ợc nữa - mμ để tìm trong quá khứ những cội rễ của vấn đề hôm nay. Nói cách khác, việc rút các bμi học từ lịch sử, lμ nhằm mong cho t−ơng lai đỡ bớt vấp váp, sai lầm. Cần phải bổ sung, điều chỉnh, hoμn thiện lý luận văn học của ta sao cho nó lμ ph−ơng tiện h−ớng văn học đi vμo sự thật, vμ đáp ứng tích cực cho sự nghiệp xây dựng con ng−ời, cải tạo xã hội. Cần một nền văn học áp sát vμo sự thật, vμ cao hơn sự thật, một nền văn học lμ tiếng nói của sự thật, không chỉ lμ tiếng nói ca ngợi, biểu d−ơng mμ còn lμ cảnh báo, lμ dự báo; vμ không phải chỉ có dự báo những điều tốt lμnh mμ cần thiết còn lμ gây lo âu (thế giới nμy còn biết bao lo âu, hiểm hoạ!). Nền văn học đó hình thμnh vμ phát triển trong thế kỷ XX, vμ lý luận của nó, lý luận về nó cũng đã xuất hiện từ đầu thế kỷ. Bao đầu óc lớn đã đ−ợc huy động vμo việc chọn tên, vμ bảo vệ cho cái tên đó. Nó đúng cho sự khái quát một giai đoạn nhất định. Nó cần thiết cho buổi đầu hình thμnh. Nó muốn có vai trò định h−ớng cho các giai đoạn sau. Nh−ng thực tiễn lớn hơn, cứng đầu hơn, đã v−ợt ra ngoμi các kích th−ớc, khuôn khổ đ−ợc quy gọn trong một định nghĩa, vμ khó khăn đã nảy ra cho những ai khi vận dụng lại nhất thiết tuân theo định nghĩa. Lý luận đó, không chối cãi, lμ đúng, lμ cần thiết, lμ có sức cổ vũ, động viên cho một giai đoạn, nh−ng không thể lμ chân lý cho muôn đời. Lμ một khái niệm thuộc lĩnh vực của hình thái ý thức nó không thể tách rời với sự phát triển của thực tiễn lμ đời sống chính trị- kinh tế- xã hội; khái niệm đó lại gắn với lĩnh vực sáng tạo tinh thần vốn phải xác định lẽ tồn tại ở những tìm tòi h−ớng tới những khu vực mới, lạ, không lắp lại... Thμnh ra mọi mong muốn mô hình hoá, quy chuẩn hoá, điển chế hoá, nhanh chóng trở nên khô cứng vμ biến thμnh vật cản trở. * * * Từ nhiều năm nay, ít ra lμ từ cuối thế kỷ tr−ớc (sau công trình tổng kết: Nhìn lại nửa thế kỷ lý luận hiện thực XHCN ở Việt Nam (1936-1986) ấn hμnh vμo năm 1999 (17) - một công trình mμ tác giả của nó lμ chuyên gia lý luận văn học Giáo s− Ph−ơng Lựu, dẫu có nêu yêu cầu hiện thực XHCN phải “đổi mới, phát triển trên tất cả các thμnh tố từ nội dung đến thi pháp”, nh−ng d−ờng nh− vẫn còn nhiều l−u luyến với khái niệm nμy; khiến tôi trộm nghĩ: nếu đã thế thì sao không tìm đến một tên gọi khác?), vấn đề hiện thực XHCN không còn thấy nhμ lý luận nμo nhắc tới, cũng không thấy đ−ợc ghi vμo Báo cáo hoặc Nghị quyết nμo của Đảng vμ của các Hội nghề nghiệp. Tôi nghĩ nh− thế cũng lμ một cách ứng xử hay; bởi thực tiễn đã chuyển sang một giai đoạn (hoặc một thời đại) khác, với những tình thế mới, những chân trời mới; trong đó mọi trμo l−u, tr−ờng phái, chủ nghĩa khi đã thực hiện xong nhiệm vụ lịch sử của nó, sẽ chuyển đổi hình thái vμ ph−ơng thức tồn tại, tựa nh− thế kỷ Cổ điển chuyển sang thế kỷ ánh sáng, chủ nghĩa Tự nhiên thay chủ nghĩa Hiện thực, chủ nghĩa Lãng mạn chuyển sang Siêu thực vμ T−ợng tr−ng; Hậu hiện đại Vấn đề chủ nghĩa hiện thực... 23 thay cho Hiện đại... Bởi mọi phát triển lμm nên dòng chảy xuyên suốt của lịch sử đều lμ một sự phủ định biện chứng, để có một g−ơng mặt khác; vμ đó lμ điều Ăngghen cũng đã từng tổng kết trong các khái quát triết học của mình: “Mỗi lần có một phát minh mang ý nghĩa thời đại, ngay cả trong lịch sử khoa học tự nhiên thì chủ nghĩa duy vật lại không tránh khỏi thay đổi hình thức của nó” (18, tr.409). Trong kỷ nguyên Cách mạng Thông tin vμ công cuộc Toμn cầu hóa lần thứ ba nμy, chẳng phải chỉ riêng Chủ nghĩa Hiện thực XHCN - sản phẩm của Liên Xô vμ phe XHCN (cũ) hoặc Chủ nghĩa Hiện đại - sản phẩm của thời đại Hậu công nghiệp, mμ ngay chính cả bản thân văn học trong nghĩa quen thuộc hμng nghìn năm nay của nó cũng phải thay đổi, có nghĩa lμ, cũng sẽ có một g−ơng mặt khác. Tμi liệu tham khảo 1. Hải Triều. Đi tới tả thực chủ nghĩa trong văn ch−ơng - Những khuynh h−ớng trong tiểu thuyết. Tao Đμn, số 2, ngμy 16/3/1939; Maxim Gorki. Hồn trẻ, Tập mới, số 5, ngμy 4/7/1936. 2. Văn học Xô Viết. H.: Văn học, 1960. 3. Chủ nghĩa hiện thực XHCN lμ gì?. H.: Sự thật, 1970. 4. Những cuộc thảo luận về chủ nghĩa hiện thực XHCN ở Liên Xô. H.: Văn học, 1961. 5. Chủ nghĩa hiện thực XHCN. H.: Sự thật, 1981. 6. Về văn hóa vμ nghệ thuật. Tập II. H.: Văn học, 1986. 7. Nguyễn Đức Nam, Đỗ Xuân. Nghiên cứu nghệ thuật, số 2/1981, số 3/1982. 8. Phong Lê. Văn xuôi Việt Nam trên con đ−ờng hiện thực XHCN. H.: Khoa học xã hội, 1980. 9.Th− của Ban chấp hμnh Trung −ơng Đảng Cộng sản Việt Nam gửi Đại hội văn nghệ toμn quốc lần thứ III, 1963. Về Văn hóa nghệ thuật. H.: Văn hóa, 1976. 10. Văn nghệ vũ khí sắc bén. H.: Văn học, 1962. 11. Văn nghệ, số 42, ngμy 17/10/1987. 12. Nghĩ về thế hệ của mình. Báo Phụ nữ thμnh phố Hồ Chí Minh, số Xuân 1990. 13. Văn nghệ số 43 vμ 44, tháng 10/1987. 14. Nghề văn, nhμ văn vμ Hội Nhμ văn. Văn nghệ, số 18, ngμy 30/4/1988. 15. Vân Trang. Thảo luận “bμn tròn” tại tuần báo Văn nghệ. Văn nghệ số 9, ngμy 27/2/1988 (lời ghi có thể không sát ý, nh−ng nếu có sai thì tác giả đã đính chính; nh− ý ghi về vấn đề tôn giáo, tác giả đã đính chính. 16. C. Mác - F. ăngghen tuyển tập. Tập 4. H.: Sự thật, 1971. 17. Nhìn lại nửa thế kỷ lý luận hiện thực XHCN ở Việt Nam (1976-1986). H.: Giáo dục, 1999. 18. C. Mác - F. ăngghen tuyển tập. Tập II. H.: Chính trị quốc gia, 1995.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfvan_de_chu_nghia_hien_thuc_xa_hoi_chu_nghia_trong_van_hoc_viet_nam_nhin_tu_lich_su_7007_2178590.pdf