Tài liệu Vấn đề bình đẳng giới trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình cho phụ nữ dân tộc thiểu số tại xã Tân Thịnh, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên - Trịnh Thị Kim Thoa: Trịnh Thị Kim Thoa Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 77 - 82
77
VẤN ĐỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LĨNH VỰC HÔN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH CHO PHỤ NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI XÃ TÂN THỊNH,
HUYỆN ĐỊNH HÓA, TỈNH THÁI NGUYÊN
Trịnh Thị Kim Thoa*
Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Định Hóa là một huyện miền núi phía Tây Bắc tỉnh Thái Nguyên. Trong thời gian qua công tác
giáo dục pháp luật về bình đẳng giới (BĐG) trong lĩnh vực hôn nhân gia đình cho người phụ nữ
dân tộc thiểu số (DTTS) đã đạt được nhiều kết quả đáng kể, góp phần nâng cao trình độ hiểu biết
về pháp luật BĐG cho chị em. Tuy nhiên, công tác BĐG và vì sự tiến bộ của phụ nữ vẫn còn hạn
chế, chưa đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ đổi mới đất nước [5]. Bài viết đề xuất một số giải pháp để
nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật về bình đẳng giới cho phụ nữ DTTS ở xã Tân Thịnh,
huyện Định Hóa
Từ khóa: Bình đẳng giới, giáo dục pháp luật, giáo dục bình đẳng giới, phụ nữ dân tộc thiểu ...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 571 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vấn đề bình đẳng giới trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình cho phụ nữ dân tộc thiểu số tại xã Tân Thịnh, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên - Trịnh Thị Kim Thoa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trịnh Thị Kim Thoa Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 77 - 82
77
VẤN ĐỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LĨNH VỰC HÔN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH CHO PHỤ NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI XÃ TÂN THỊNH,
HUYỆN ĐỊNH HÓA, TỈNH THÁI NGUYÊN
Trịnh Thị Kim Thoa*
Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Định Hóa là một huyện miền núi phía Tây Bắc tỉnh Thái Nguyên. Trong thời gian qua công tác
giáo dục pháp luật về bình đẳng giới (BĐG) trong lĩnh vực hôn nhân gia đình cho người phụ nữ
dân tộc thiểu số (DTTS) đã đạt được nhiều kết quả đáng kể, góp phần nâng cao trình độ hiểu biết
về pháp luật BĐG cho chị em. Tuy nhiên, công tác BĐG và vì sự tiến bộ của phụ nữ vẫn còn hạn
chế, chưa đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ đổi mới đất nước [5]. Bài viết đề xuất một số giải pháp để
nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật về bình đẳng giới cho phụ nữ DTTS ở xã Tân Thịnh,
huyện Định Hóa
Từ khóa: Bình đẳng giới, giáo dục pháp luật, giáo dục bình đẳng giới, phụ nữ dân tộc thiểu số,
hôn nhân và gia đình.
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Tân Thịnh là một xã nghèo nằm ở phía Đông
huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên. Với địa
hình chủ yếu là đồi núi thấp xen kẽ các cánh
đồng hẹp, nên lực lượng lao động chủ yếu
làm nông nghiệp trồng lúa nước và trồng cây
chè, thu nhập hằng năm của người dân còn
thấp. Trong tổng số 1350 lao động nữ của
toàn xã, tỷ lệ lao động nữ là người DTTS
chiếm 75,3%, trong đó dân tộc Tày, Nùng,
Dao chiếm đại đa số. Trong các gia đình
người DTTS sống tại xã Tân Thịnh, huyện
Định Hóa tình trạng bất BĐG vẫn diễn ra, mà
đối tượng chủ yếu là người phụ nữ.
Trong bài viết này chúng tôi đề cập đến thực
trạng BĐG và công tác giáo dục BĐG cho
phụ nữ DTTS trong lĩnh vực hôn nhân và gia
đình tại xã Tân Thịnh, huyện Định Hóa. Trên
cơ sở đó tìm ra những giải pháp nhằm tạo
điều kiện cho phụ nữ DTTS ở xã Tân Thịnh
nâng cao ý thức pháp luật hơn nữa giúp họ
hiểu được quyền và nghĩa vụ của mình trong
hôn nhân, gia đình
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để tiến hành nghiên cứu, chúng tôi đã thu
thập số liệu trên địa bàn xã Tân Thịnh với 275
mẫu khảo sát trong thời gian 1 năm (1/2016
đến 12/2016). Đối tượng là người phụ nữ
DTTS tại xã Tân Thịnh, huyện Định Hóa với
*
Tel: 0915 798456, Email: ttkthoa@ictu.edu.vn
các chỉ tiêu về BĐG trong tiếp cận, kiểm soát
nguồn lực, lợi ích và ra quyết định trong gia
đình, BĐG trong việc chăm sóc sức khỏe sinh
sản, kế hoạch hóa gia đình, BĐG về phân
công lao động trong gia đình,
Các phương pháp chuyên gia, chuyên khảo,
điều tra, phỏng vấn, phân tích định lượng,
thống kê,đã được sử dụng để thu thập, phân
tích thông tin để đảm bảo tính chính xác của
kết quả nghiên cứu.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Thực trạng bất bình đẳng trong lĩnh vực
hôn nhân và gia đình tại xã Tân Thịnh,
huyện Định Hóa
Nhận thức về BĐG của phụ nữ DTTS
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, mức
sống của người dân được ngày càng được cải
thiện và trình độ dân trí ngày càng được nâng
lên, vai trò của người phụ nữ DTTS ở địa bàn
xã Tân Thịnh ngày càng được nâng cao, có
nhiều phụ nữ lao động, sản xuất, kinh doanh,
tham gia các hoạt động xã hội,... chứng tỏ phụ
nữ DTTS ở địa phương ngày càng khẳng định
được vị trí, vai trò của mình trong việc đấu
tranh đòi quyền bình đẳng giới. Thế nhưng để
thực hiện BĐG còn không ít khó khăn.
Theo khảo sát của Hội Liên hiệp Phụ nữ
huyện Định Hóa tổ chức tại xã Tân Thịnh vào
năm 2016 có 56/105 người (chiếm khoảng 56
%) người được hỏi khẳng định tại địa phương
Trịnh Thị Kim Thoa Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 77 - 82
78
đã có bình đẳng giữa nam và nữ [1]. Tuy
nhiên, các dẫn chứng để chứng minh cho sự
khẳng định này như phụ nữ đã làm tốt công
việc gia đình, nuôi con ngoan, nam giới làm
ra tiền nuôi gia đình, nam giới làm các công
việc nặng, phụ nữ làm các công việc nhẹ...
của những người trả lời cho thấy họ chưa có
được quan điểm, nhận thức đúng về BĐG. Số
còn lại (chiếm 44%) cho rằng ở địa phương
vẫn còn có tư tưởng coi trọng nam hơn nữ,
được biểu hiện tập trung ở việc: thích đẻ con
trai hơn con gái, coi công việc nội trợ, chăm
sóc con cái là công việc của phụ nữ, khi chia
thừa kế thường dành cho con trai nhiều hơn,
coi việc thực hiện các biện pháp tránh thai là
của phụ nữ, đầu tư và quan tâm đến việc học
tập của con trai nhiều hơn, yêu cầu con gái
làm việc nhà nhiều hơn con trai,... Tâm lý
mong có con trai để có chỗ dựa lúc tuổi già là
một hiện tượng xã hội khá phổ biến không chỉ
ở người dân tộc Kinh mà còn có ở những gia
đình DTTS nơi đây, tâm lý đó bắt nguồn từ
những vấn đề mang tính truyền thống.
Thực trạng BĐG trong tiếp cận, kiểm soát nguồn
lực, lợi ích và ra quyết định trong gia đình
Theo quy định của Luật BĐG thì người vợ và
người chồng bình đẳng với nhau trong quan
hệ dân sự cũng như các quan hệ khác liên
quan đến hôn nhân, gia đình [4]. Vợ, chồng
có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu
tài sản chung, bình đẳng trong sử dụng nguồn
thu nhập chung của vợ chồng và quyết định
các nguồn lực trong gia đình. Tuy nhiên,
trong thực tế tại địa phương, việc thực hiện
nguyên tắc này còn gặp rất nhiều khó khăn,
trở ngại. Điều này được thể hiện rõ nét ở việc
đăng ký người đứng tên chủ hộ gia đình.
Chỉ có 34,5 % nữ giới chiếm 1/3 so với nam
giới đứng tên chủ hộ trong các gia đình
DTTS. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc
phụ nữ tham gia các hoạt động cộng đồng, họ
không có điều kiện tiếp xúc, va chạm nhiều
với xã hội để tìm hiểu cái mới, học tập các
kinh nghiệm thực tế để tiến bộ.
Bảng 1. Tỷ lệ nam, nữ đứng tên chủ hộ gia đình ở
xã Tân Thịnh, huyện Định Hóa
Chủ hộ Số lượng (người) Tỷ lệ (%)
Nam giới 170 65,5
Nữ giới 95 34,5
Tổng 275 100
Nguồn: Công an xã Tân Thịnh, huyện Định Hóa,
năm 2016
Khả năng tham gia của nam và nữ vào việc
quyết định những vấn đề liên quan đến sản
xuất và tái sản xuất như tài sản gia đình,
đầu tư vào sản xuất, số con sinh và sự tham
gia của họ vào công việc trong xã hội cũng
không giống nhau. Điều này được thể hiện ở
bảng 2.
Các vấn đề liên quan đến sản xuất chủ yếu là
người nam giới quyết định. Các vấn đề về
định hướng sản xuất, kinh doanh, nuôi con gì,
trồng cây gì đều thuộc quyền quyết định của
nam giới chiếm từ 61,8% đến 85,5%. Những
việc tầm quan trọng thấp hơn như thuê
phương tiện lao động, kỹ thuật canh tác thì
chỉ có khoảng 16,4% nữ giới được tự ra quyết
định, phần còn lại phụ thuộc vào nam giới.
Tuy nhiên, đến việc buôn bán sản phẩm, đem
lại nguồn tài chính cho gia đình lại chủ yếu do
nam giới thực hiện 79,3% để kiểm soát nguồn
tài chính của gia đình.
Bên cạnh việc quyết định những vấn đề về lao
động sản xuất, kết quả khảo sát cũng cho thấy
có sự chênh lệch lớn về vai trò của phụ nữ và
nam giới trong việc quyết định các vấn đề liên
quan đến việc lớn trong gia đình (bảng 3).
Bảng 2. Quyết định những vấn đề liên quan đến sản xuất trong gia đình DTTS ở xã Tân Thịnh
(ĐVT: %)
Hoạt động lao động sản xuất Nam giới Nữ giới Cả hai giới
Cơ cấu vật nuôi, cây trồng 70,2 26,2 3,6
Kỹ thuật canh tác 68,4 23,6 8,0
Định hướng sản xuất, kinh doanh 85,5 12,7 1,8
Mua vật tư nông nghiệp 70,2 22,5 7,3
Buôn bán sản phẩm 79,3 14,5 6,2
Thuê phương tiện, lao động 61,8 21,8 16,4
Nguồn: Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Tân Thịnh, huyện Định Hóa (năm 2016)
Trịnh Thị Kim Thoa Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 77 - 82
79
Bảng 3. Quyết định những vấn đề liên quan đến việc lớn trong gia đình DTTS ở xã Tân Thịnh
(ĐVT: %)
Hoạt động Nam giới Nữ giới Cả hai giới
Mua sắm tài sản đắt tiền 72,7 18,2 9,1
Xây, sửa nhà cửa 81,5 14,9 3,6
Hoạt động cộng đồng 69,1 21,8 5,5
Số con 78,2 20,4 1,5
Sinh con trai 79,3 14,5 6,2
Nguồn: Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Tân Thịnh, huyện Định Hóa (năm 2016)
Bảng 4. Sử dụng các biện pháp tránh thai của người phụ nữ DTTS tại xã Tân Thịnh
(ĐVT: Người)
STT Nội dung Năm 2017
1 Sử dụng vòng tránh thai 58
2 Sử dụng thuốc tiêm 23
3 Sử dụng thuốc uống 45
4 Sử dụng bao cao su 40
5 Triệt sản 0
Tổng số cặp vợ chồng sử dụng các biện pháp tránh thai 166
Nguồn: Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Tân Thịnh, huyện Định Hóa (năm 2016)
Bảng 5. Phân công lao động trong gia đình các DTTS ở xã Tân Thịnh, huyện Định Hóa
Hoạt động lao động Nam giới (%) Nữ giới (%)
Chăn nuôi gia súc nhỏ, gia cầm 36,4 63,6
Chăm sóc cây trồng, mùa vụ 22,2 77,8
Cày bừa, trồng rừng 52,5 47,5
Buôn bán, trao đổi sản phẩm kinh tế 82,6 17,4
Sửa chữa nhà cửa, đồ dùng gia đình 76,2 23,8
Công việc nội trợ 26,3 73,7
Nguồn: Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Tân Thịnh, huyện Định Hóa (năm 2016)
Các việc lớn trong gia đình khi quyết định
mua sắm các tài sản đắt tiền, xây dựng nhà
cửa đều thuộc quyền chi phối chủ yếu của
nam giới. Các hoạt động cộng đồng nam giới
được quyền thường xuyên tham gia, còn phụ
nữ DTTS chủ yếu ở nhà, chăm lo gia đình và
con cái. Tỷ lệ phụ nữ được tham gia hoạt
động cộng đồng chỉ chiếm 21,8%. Đối với
việc con cái trong gia đình, người nam giới
cũng là người quyết định sinh bao nhiêu con
và phải bắt buộc có con trai hay không. Nhiều
gia đình, người phụ nữ phải chấp nhận sinh
nhiều con, cho đến khi có được con trai theo ý
của người chồng dù họ có muốn hay không.
Việc này ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe và
tinh thần của người phụ nữ.
Bên cạnh đó, người phụ nữ DTTS tại xã Tân
Thịnh, huyện Định Hóa hiếm khi được đứng
tên chủ sở hữu đối với các tài sản có giá trị
trong gia đình. Người đàn ông thường là
người đứng tên sở hữu tài sản của hai vợ
chồng. Việc tiếp cận các nguồn lực trong gia
đình như tài sản, tiền bạc cũng rất khó khăn
đối với người phụ nữ DTTS tại xã Tân Thịnh.
Những vấn đề thể hiện ở trên minh chứng cho
việc nhận thức về BĐG của người phụ nữ
DTTS tại xã Tân Thịnh, huyện Định Hóa còn
rất thấp. Họ không biết quyền lợi của bản
thân, do vậy không đấu tranh, không có động
lực để nâng cao giá trị bản thân và tiếng nói
của mình trong gia đình.
Thực trạng BĐG trong việc chăm sóc sức
khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình
Quan niệm về vai trò của phụ nữ như người
phụ thuộc vào chồng ảnh hưởng tới sức khỏe
và hành vi sinh sản của phụ nữ DTTS. Phụ nữ
DTTS vẫn là đối tượng chính của các biện
pháp tránh thai, và là người chịu trách nhiệm
chính trong việc bảo vệ sức khỏe sinh sản.
Trong những năm qua việc sử dụng các biện
pháp tránh thai của đồng bào DTTS tại xã
Tân Thịnh, huyện Định Hóa gần đây có chiều
hướng gia tăng, thể hiện việc tiếp cận những
thông tin và dịch vụ tránh thai.
Trịnh Thị Kim Thoa Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 77 - 82
80
Việc các chương trình bảo vệ sức khỏe sinh
sản vẫn nhằm vào phụ nữ tạo thêm một gánh
nặng cho người phụ nữ vốn đã rất bận bịu với
các trách nhiệm khác trong gia đình. Phụ nữ
là người có trách nhiệm chính trong chăm sóc
sức khỏe cho các thành viên gia đình, nhưng
bản thân phụ nữ ít được chăm sóc. Thời gian
nghỉ thai sản của phụ nữ DTTS còn ngắn,
không có điều kiện để phục hồi sức khỏe. Ở
Định Hóa, vùng DTTS có 1/3 số phụ nữ
không nghỉ trước khi sinh; trên 40% phụ nữ
nghỉ sau khi sinh không quá 31 ngày [1].
Thực trạng BĐG về phân công lao động
trong gia đình
Sự bất bình đẳng trong công việc gia đình có
thể thấy rất rõ qua các công việc mà người
phụ nữ và người đàn ông đảm nhận. Những
việc được coi là “nhẹ” bao gồm việc chăn
nuôi gia súc, cày cấy, chăm sóc mùa vụ sau
khi xuống giống, nấu nướng, chăm sóc con
cái, được coi là công việc của người phụ
nữ. Ngoài ra, người phụ nữ DTTS còn phải
đảm đương toàn bộ trách nhiệm nội trợ sau
ngày làm việc vất vả. Những hoạt động đóng
góp vào phát triển kinh tế gia đình như buôn
bán, trao đổi sản phẩm lại là người đàn ông
nắm giữ.
Thực trạng Công tác giáo dục BĐG tại xã
Tân Thịnh, huyện Định Hóa
Thời gian qua, Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện
Định Hóa và Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Tân
Thịnh đã nỗ lực trong việc tuyên truyền thông
tin pháp luật về BĐG nói chung và trong lĩnh
vực hôn nhân gia đình của người phụ nữ
DTTS nói riêng. Công tác tuyên truyền nâng
cao nhận thức BĐG cho phụ nữ DTTS đã
được thực hiện thông qua nhiều hình thức [1]:
Thứ nhất, thông qua các phương tiện thông
tin đại chúng: trang thông tin điện tử của Tổ
chức Hội, Sổ tay pháp luật, loa phóng thanh
tại đơn vị, bản tin, pa nô, áp phích. là công
cụ tuyên truyền, giáo dục pháp luật kịp thời
và hiệu quả đến Hội viên.
Thứ hai, tập huấn và thông qua báo cáo viên,
tuyên truyền viên: tỉnh Thái Nguyên đã tổ
chức 3 lớp tập huấn BĐG cho cán bộ chủ chốt
các tổ chức hội cấp huyện, trong đó có Hội
Liên hiệp Phụ nữ huyện Định Hóa. Nội dung
các buổi tập huấn là các kiến thức chính sách
pháp luật về bình đẳng giới; công tác quản lý
nhà nước và các cơ chế phối hợp liên ngành
trong triển khai thực hiện bình đẳng giới, hoạt
động vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Thứ ba, Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Định
Hóa và Hội Liên hiệp Phụ nữ xã đã tổ chức 5
buổi sinh hoạt chuyên đề, 3 hội thi, 6 câu lạc
bộ (câu lạc bộ gia đình hạnh phúc, Câu lạc bộ
pháp luật, bình đẳng giới, phòng chống tệ nạn
xã hội,...) với 120 hội viên phụ nữ DTTS
tham gia.
Những năm gần đây, Thực hiện Nghị quyết
06/NQ-BCH Hội LHPN Việt Nam khóa XI
về “tăng cường công tác vận động phụ nữ
DTTS trong tình hình hiện nay” [2], các cấp
Hội đã tập trung truyền thông đến hội viên,
phụ nữ về di cư tự do bất hợp pháp; tuyên
truyền về luật Hôn nhân và Gia đình với vấn
đề tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống; các
luật pháp, chính sách liên quan đến đời sống
phụ nữ DTTS, tôn giáo, trong đó có chính
sách hỗ trợ phụ nữ thuộc hộ nghèo là người
DTTS khi sinh con đúng chính sách dân số...
Ngoài ra, Hội còn xây dựng mô hình câu lạc
bộ không thách cưới, không tảo hôn, gia đình
5 không, 3 sạch ở các thôn, bản để tuyên
truyền, vận động chị em từ bỏ những hủ tục
lạc hậu, thực hiện nếp sống văn minh, kết hôn
đúng độ tuổi theo quy định của Luật Hôn
nhân - Gia đình.
Đánh giá thực trạng, nguyên nhân và giải pháp
Những kết quả đạt được:
Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về
BĐG cho phụ nữ DTTS tại xã Tân Thịnh đã
góp phần làm chuyển biến nhận thức, hành vi
của cộng đồng dân cư về giới và BĐG. Người
phụ nữ hiểu hơn về vị trí, vai trò của mình
trên các lĩnh vực của đời sông xã hội như:
trong thực hiện kế hoạch hoá gia đình, trong
lựa chọn sinh con theo giới tính. Trong công
cuộc đổi mới, công tác này góp phần không
nhỏ vào việc thay đổi nhận thức của phụ nữ
theo hướng tiến bộ về vị trí, vai trò và giúp họ
khẳng định được bản thân mình trong xã hội.
Một số tồn tại, hạn chế:
Thứ nhất, công tác tuyền truyền, tập huấn,
hướng dẫn và thực hiện chính sách pháp luật,
cũng như Luật BĐG cho phụ nữ tại các cấp
Hội còn ít, hiệu quả chưa cao.
Trịnh Thị Kim Thoa Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 77 - 82
81
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do:
- Trình độ học vấn thấp, người phụ nữ DTTS
chủ yếu vẫn làm nông nghiệp;
- Từ phía các gia đình: Trên thực tế tại xã Tân
Thịnh hiện nay, vẫn nhiều gia đình còn có
tình trạng định kiến giới của các bậc cha mẹ
biểu hiện như: quan niệm cho rằng các con
gái không cần có học vấn cao mà cần phải
làm việc nội trợ giúp gia đình; do đó họ
thường khuyến khích người con trai trong gia
đình tích cực học tập thay vì khuyến khích
con gái học cao hơn.
- Hoạt động của các chi Hội Liên hiệp Phụ nữ
chất lượng chưa cao do điều kiện địa bàn
hiểm trở, khó khăn trong việc tiếp cận các gia
đình nên quá trình trao đổi, thông tin hai
chiều còn hạn chế.
Giải pháp:
Phát huy vai trò nỗ lực vươn lên của phụ nữ
DTTS ở xã Tân Thịnh, huyện Định Hóa.
Thực tế hiện nay, người phụ nữ DTTS ở xã
Tân Thịnh còn mang nặng tâm lý tự ti bởi
chịu ảnh hưởng nặng nề của phong tục tập
quán “trọng nam khinh nữ”. Để có thể xóa bỏ
tâm lý tự ti bản thân mỗi người phụ nữ phải
cố gắng học tập, nâng cao trình độ cho bản
thân mình. Đây sẽ là điều kiện quan trọng để
tiến tới BĐG thực sự trong gia đình. Đồng
thời cần huy động sự tham gia của toàn hệ
thống chính trị vào công tác giáo dục pháp
luật về BĐG cho phụ nữ DTTS như tổ chức
các buổi hội thảo, chuyên đề, mời chuyên gia
đến nói chuyện,... để giáo dục BĐG cho chị
em phụ nữ.
Thứ hai, việc phối hợp triển khai các hình
thức tuyên truyền, giáo dục pháp luật BĐG
cho phụ nữ ở một số ngành chưa được quan
tâm nhiều, chưa đa dạng, phong phú, mới chỉ
dừng lại ở các Hội nghị triển khai, tập huấn.
Hoạt động của các chi Hội Liên hiệp Phụ nữ
chất lượng chưa cao do điều kiện địa bàn
hiểm trở, khó khăn trong việc tiếp cận các gia
đình nên quá trình trao đổi, thông tin hai
chiều còn hạn chế.
Sở dĩ có tình trạng trên nguyên nhân là do
cán bộ lãnh đạo các cơ quan, ban, ngành,
đoàn thể chưa thực sự quan tâm đúng mức
đến công tác BĐG và vì sự tiến bộ của phụ
nữ; ngại đi tập huấn, nâng cao nhận thức
về BĐG; thiếu sâu sát, coi công tác tiến bộ
phụ nữ không phải là trọng tâm công tác
của chính quyền, của người đứng đầu, của
lãnh đạo các cấp, các ngành, mà chỉ là của
riêng nữ giới, dẫn đến hoạt động vì sự tiến
bộ của phụ nữ chỉ mang tính hình thức. Do
đó cần đổi mới nội dung, hình thức tuyên
truyền, giáo dục pháp luật về BĐG trong
hôn nhân gia đình.
Về nội dung: Do trình độ dân trí thấp và vốn
hiểu biết xã hội còn hạn chế, nên nội dung
tuyên truyền cần dễ hiểu, ngắn gọn súc tích.
Trước hết cần tuyên truyền, phổ biến các kiến
thức cơ bản về giới, bình đẳng giới, vai trò
giới; phổ biến nội dung Luật BĐG, Luật
Phòng chống bạo lực gia đình, Luật
HN&GĐ... đến từng người dân trên địa bàn
toàn xã.
Về đối tượng: Từ thực trạng về BĐG trong
gia đình DTTS, cho thấy không chỉ giáo dục
BĐG cho phụ nữ mà còn phải hướng tới đối
tượng nam giới trong gia đình DTTS ở địa
phương. Nam giới cũng cần được tuyên
truyền, vận động để có cách nhìn nhận cởi
mở, tích cực về BĐG, nhất là về sự cần thiết
phải nâng cao vai trò giới, vai trò của phụ nữ,
tiến tới xóa bỏ những định kiến và cách suy
nghĩ khuôn mẫu cứng nhắc, lạc hậu về vai trò
làm vợ, làm mẹ của người phụ nữ. Ngoài ra
cần chú ý tới nhóm những người có tuổi,
người già vì chính họ là tác nhân quan trọng
nhất trong trong việc tuyên truyền, giáo dục
về BĐG cho thế hệ trẻ
Về hình thức tuyên truyền: Cần đa dạng, với
tư duy cụ thể, đồng bào DTTS cần lượng
thông tin phù hợp, người thật, cần có nhiều
hình ảnh trực quan, sinh động dễ hiểu (song
ngữ: tiếng phổ thông và tiếng dân tộc) qua
các phương tiện thông tin đại chúng, hoặc
tuyên truyền trực tiếp trong các cuộc họp,
sinh hoạt cộng đồng, các phiên chợ, lễ hội,
sinh hoạt văn hoá, văn nghệ, biểu đạt bằng pa
nô, áp phích.
Thứ ba, việc cập nhật các quy định pháp luật
về BĐG để tuyên truyền, giáo dục cho phụ nữ
DTTS ở địa phương vẫn còn chưa kịp thời.
Hoạt động tư vấn về thực hiện bình đẳng giới,
tư vấn giới thiệu việc làm chưa đáp ứng yêu
cầu phát triển, phương pháp hoạt động chưa
theo kịp sự đổi mới trong giai đoạn hiện nay.
Trịnh Thị Kim Thoa Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 77 - 82
82
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên
là do số lượng cán bộ, báo cáo viên thực hiện
công tác phổ biến, giáo dục BĐG cho phụ nữ
còn ít so với yêu cầu. Chất lượng, trình độ
năng lực của đội ngũ cán bộ còn nhiều hạn
chế, về cơ bản chưa được đào tạo chuyên sâu
về kiến thức pháp luật nói chung và luật BĐG
nói riêng. Vì vậy, cần phải quan tâm đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ báo cáo viên, cán bộ
chuyên trách cơ từ khâu rà soát, tuyển chọn
đến việc tổ chức đào tạo, tập huấn.
KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu thực trạng BĐG tại xã
Tân Thịnh, huyện Định Hóa cho thấy: Nhận
thức của người phụ nữ DTTS về BĐG đã
được nâng lên nhưng họ chưa thực sự có
được quan điểm đúng về BĐG; Người phụ
nữ DTTS chưa được thực sự được bình đẳng
trong việc tiếp cận, kiểm soát nguồn lực, lợi
ích và ra quyết định trong gia đình. Người
đàn ông thường là người đứng tên sở hữu tài
sản của vợ chồng. Những vấn đề liên quan
đến sản xuất và tái sản xuất hay những việc
lớn trong gia đình (mua sắm các tài sản đắt
tiền, xây dựng nhà cửa) đều thuộc quyền chi
phối chủ yếu của nam giới. Ngay trong việc
chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia
đình thì người phụ nữ DTTS vẫn là đối tượng
chính của các biện pháp tránh thai, và là
người chịu trách nhiệm chính trong việc bảo
vệ sức khỏe sinh sản.
Công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức
BĐG cho phụ nữ DTS đã được thực hiện
thông qua nhiều hình thức phong phú. Trong
công cuộc đổi mới, công tác này góp phần
không nhỏ vào việc thay đổi nhận thức của
phụ nữ theo hướng tiến bộ về vị trí, vai trò và
giúp họ khẳng định được bản thân mình trong
xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hội Liên hiệp phụ nữ xã Tân Thịnh, huyện
Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên (2012, 2013, 2014,
2015, 2016), Báo cáo tổng kết hoạt động công tác
hội các năm.
2. Hội Liên hiệp phụ nữ huyện Định Hóa, tỉnh
Thái Nguyên (2015), Báo cáo của Hội nghị sơ kết
5 năm thực hiện Chiến lược quốc gia và Kế hoạch
hành động Vì sự tiến bộ của phụ nữ giai đoạn
2010 - 2015.
3. Nghị quyết 06/NQ-BCH ngày 19 tháng 2 năm
2014 của Hội LHPN Việt Nam: Nghị quyết
về tăng cường công tác vận động phụ nữ DTTS
trong tình hình hiện nay.
4. Quốc hội (2006), Luật BĐG năm 2006 và văn
bản hướng dẫn thi hành, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
5. Thông báo kết luận số 196/TB - TW ngày 16
tháng 3 năm 2015 của Ban Ban Bí thư về Đề án
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác BĐG và vì sự tiến bộ của phụ nữ trong tình
hình mới.
SUMMARY
GENDER EQUALITY IN THE FIELD OF MARRIAGE AND FAMILY FOR
WOMEN OF ETHNIC MINORITY IN TAN THINH COMMUNE,
DINH HOA DISTRICT, THAI NGUYEN PROVINCE
Trinh Thi Kim Thoa
*
University of Information and Communication Technology - TNU
Dinh Hoa is a mountain district in the northwest of Thai Nguyen province. In recent years,
education on gender equality law in general and education on gender equality in the field of
marriage and family in particularly for ethnic minority women have gained many achievements.
Significantly, contributing to raising the level of knowledge about gender equality for women.
However, gender equality and the advancement of women are still limited, failing to meet the
requirements of the country's renewal process. The paper proposes some solutions to improve the
quality of legal education on gender equality for women ethnic minority in Tan Thinh commune,
Dinh Hoa district.
Keywords: Gender equality, Law education, Education on gender equality, Ethnic minority
women, Marriage and family.
Ngày nhận bài: 17/8/2018; Ngày phản biện: 14/9/2018; Ngày duyệt đăng: 12/10/2018
*
Tel: 0915 798456, Email: ttkthoa@ictu.edu.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 447_497_1_pb_9713_2127121.pdf