Vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị tín ngưỡng truyền thống của các tộc người thiểu số ở nước ta hiện nay

Tài liệu Vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị tín ngưỡng truyền thống của các tộc người thiểu số ở nước ta hiện nay: Vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị 27 VẤN ĐỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ TÍN NGƯỠNG TRUYỀN THỐNG CỦA CÁC TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Lý Hành Sơn* Tóm tắt: Tín ngưỡng truyền thống của mỗi tộc người thiểu số ở nước ta có giá trị duy trì các nghi lễ và lễ hội của đồng bào được hình thành trong quá trình lịch sử tộc người. Đặc biệt, gắn với đó là việc bảo tồn các đặc trưng văn hóa tộc người như nhạc cụ, múa trong lễ hội, các bài hát và thơ cúng, nghệ thuật trang trí trong các nghi lễ, nhiều loại ẩm thực dâng cúng, lễ phục, tranh thờ,... Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập, cần coi tín ngưỡng truyền thống tộc người thiểu số ở nước ta là di sản văn hóa; cơ quan chức năng và ban ngành các cấp cần có giải pháp thiết thực để bảo tồn và phát huy những yếu tố tích cực của tín ngưỡng truyền thống, không để người dân bị lôi kéo theo tôn giáo ngoại lai. Từ khóa: Bảo tồn, giá trị tín ngưỡng truyền thống, tộc người thiểu số. Mở đầu* Nước ta có 53 tộc người...

pdf7 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 444 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị tín ngưỡng truyền thống của các tộc người thiểu số ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị 27 VẤN ĐỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ TÍN NGƯỠNG TRUYỀN THỐNG CỦA CÁC TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Lý Hành Sơn* Tóm tắt: Tín ngưỡng truyền thống của mỗi tộc người thiểu số ở nước ta có giá trị duy trì các nghi lễ và lễ hội của đồng bào được hình thành trong quá trình lịch sử tộc người. Đặc biệt, gắn với đó là việc bảo tồn các đặc trưng văn hóa tộc người như nhạc cụ, múa trong lễ hội, các bài hát và thơ cúng, nghệ thuật trang trí trong các nghi lễ, nhiều loại ẩm thực dâng cúng, lễ phục, tranh thờ,... Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập, cần coi tín ngưỡng truyền thống tộc người thiểu số ở nước ta là di sản văn hóa; cơ quan chức năng và ban ngành các cấp cần có giải pháp thiết thực để bảo tồn và phát huy những yếu tố tích cực của tín ngưỡng truyền thống, không để người dân bị lôi kéo theo tôn giáo ngoại lai. Từ khóa: Bảo tồn, giá trị tín ngưỡng truyền thống, tộc người thiểu số. Mở đầu* Nước ta có 53 tộc người thiểu số, ngoài một vài tộc người như Hoa, Khơ Me và Chăm có phần lớn sống ở đồng bằng và nông thôn vùng thấp, các tộc người còn lại đều cư trú chủ yếu ở miền núi. Tại các khu vực miền núi tài nguyên thiên nhiên vốn rất phong phú nhưng cũng phức tạp, thường bị chia cắt manh mún không thuận lợi cho phát triển bền vững, nhất là đối với việc liên kết cộng đồng tộc người. Trong khi đó, sự phân bố dân cư, dân tộc lại không đều xét ở phương diện lãnh thổ cũng như dưới khía cạnh tộc người. Những tộc người có dân số ít, điểm xuất phát thấp thường sống ở vùng sâu, vùng xa và ngược lại. Tuy vậy, nhờ vai trò của tín ngưỡng truyền thống, từ bao đời nay mỗi tộc người thiểu số dù sinh sống ở vùng thấp hay vùng cao đều đảm bảo tính liên kết cộng đồng cư trú thông qua việc duy trì và phát huy các giá trị tín ngưỡng, thông qua thực hành, các nghi lễ, lễ hội hàng năm trong phạm vi gia đình, dòng họ và bản làng. Tín ngưỡng được hiểu là đức tin hay niềm tin vào một lực lượng siêu nhiên, thần bí, tức * TS. Viện Dân tộc học - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. tín ngưỡng không bao trùm lên tôn giáo mà chỉ là bộ phận quan trọng cấu thành tôn giáo (Nguyễn Văn Minh, 2009). Từ các chiều cạnh tiếp cận, đã có nhiều nghiên cứu về tín ngưỡng của tộc người thiểu số ở nước ta, nhất là về những biểu hiện các hình thức tín ngưỡng, sự chuyển đổi tín ngưỡng và ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa, xã hội tộc người,... Song, vẫn còn thiếu những nghiên cứu tổng thể, chuyên sâu về thực trạng tín ngưỡng và giá trị của nó đối với việc duy trì các yếu tố đặc trưng trong văn hóa phi vật thể của các tộc người thiểu số dưới tác động của toàn cầu hóa, giao lưu, hội nhập và bối cảnh xây dựng nông thôn mới. Bởi vậy, bài viết này chỉ xin đề cập tới vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị tín ngưỡng của tộc người thiểu số nước ta hiện nay. 1. Khái quát về các hình thức tín ngưỡng của các tộc người thiểu số Từ một số nghiên cứu và kết quả điền dã tại nhiều địa phương trong nhiều năm qua cho thấy, ngoài một vài tộc người duy trì tôn giáo truyền thống như Chăm, Khơ Me và một bộ phận của các tộc người khác bị ảnh hưởng tôn giáo mới nhất là đạo Tin lành và Công giáo, đa số tộc người thiểu số ở nước ta 3 (43) - 2019: CHUYÊN ĐỀ: BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY... 28 vẫn đang duy trì tín ngưỡng truyền thống thông qua những nét tiêu biểu trong thế giới quan dân gian, các hình thức thờ cúng, tổ chức một số nghi lễ hoặc lễ hội trong phạm vi gia đình và cộng đồng cư trú,... Các hình thức tín ngưỡng này không chỉ góp phần bảo tồn bản sắc tộc người, nhất là các yếu tố văn hóa phi vật thể tiêu biểu, mà còn lưu giữ tính đa dạng văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập. Có thể kể tới một số hình thức tín ngưỡng mang tính cộng đồng cư trú như: lễ cúng thần bản/làng ở các tộc người Tày, Nùng, Thái, Sán Chay, Dao, Cơ Lao, Pu Péo...; cúng thần rừng và thần nước ở các tộc người Hà Nhì, Cống, Si La...; lễ hội mùa xuân và cầu mùa ở phần lớn các tộc người; lễ quét làng ở một số tộc người;... Bên cạnh đó, mỗi dòng họ cũng có không ít nghi lễ tín ngưỡng như: lễ cúng ma dòng họ ở tộc người Hmông và nhiều tộc người khác, lễ cúng ngày lập thu và tết nhảy ở tộc người Dao,... Trong khi, mỗi gia đình còn có nhiều nghi lễ tín ngưỡng như: các hình thức thờ cúng tổ tiên ở đa số tộc người; cầu tự và lễ hội Gầu tào ở tộc người Hmông; lễ cúng cơm mới ở các tộc người Dao, Tày, Nùng, Si La,... Đặc biệt là các nghi lễ vòng đời người như: sinh đẻ và nuôi con, cưới xin, tang ma, gọi hồn và cúng chữa bệnh, cấp sắc ở người Dao và một số tộc người khác..., kể cả lễ bỏ mả của các tộc người tại chỗ Tây Nguyên. Ngoài ra còn có các lễ tiết hàng năm, gồm tết năm mới, tết Rằm tháng 7 âm lịch và các lễ tiết khác theo âm lịch như: lễ tảo mộ ngày mùng 3/3 hoặc vào đúng ngày Thanh minh, lễ cúng ngày 6/6,... 2. Giá trị tín ngưỡng của các tộc người thiểu số Kết quả khảo sát đã chỉ ra rằng, tín ngưỡng truyền thống của các tộc người có giá trị không chỉ về mặt tâm linh mà còn là di sản văn hóa của mỗi tộc người. Bởi vì, tín ngưỡng góp phần duy trì những đặc trưng văn hóa tiêu biểu sau: Thứ nhất, tín ngưỡng luôn phản ánh rõ nét về thế giới quan dân gian của tộc người, đặc biệt là thể hiện được đặc trưng về tri thức truyền thống của tộc người mà đại diện là tầng lớp tinh hoa của cộng đồng về thế giới xung quanh con người, về sự sống và các hiện tượng tự nhiên, về sức khỏe, bệnh tật và cái chết, về sự phù hộ của thần linh đối với các hoạt động của con người,... Từ đó nảy sinh ra các hình thức tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, cúng các nhân thần và nhiên thần phù hộ sức khỏe con người,... tín ngưỡng trong các hoạt động sản xuất, chăn nuôi, săn bắt, trao đổi mua bán, làm nghề thủ công,... Thứ hai, tín ngưỡng góp phần duy trì các yếu tố văn hóa vật thể tiêu biểu của mỗi tộc người như: chữ viết và sách đối với một số tộc người với mục đích ghi chép các chương trình thực hành nghi lễ, các bài cúng, bài hát và điệu múa dân gian; nhạc cụ, lễ phục, tranh thờ; các loại đàn cúng bày ở trong nhà và ngoài nhà trong suốt diễn trình nghi lễ; các lễ vật dâng cúng và phục vụ nghi lễ; các hình thức trang trí cho lễ đường và đàn cúng, tiền giấy âm phủ,... Thứ ba, bảo tồn ngôn ngữ tộc người và các yếu tố phi vật thể của tín ngưỡng thông qua quan niệm và vai trò của mỗi hình thức thờ cúng, đặc biệt là nội dung phản ánh của các bức tranh thờ, các bài cúng, bài hát, múa, ý nghĩa các hiện vật bày cúng trong mỗi nghi lễ, các bài nhạc của các loại nhạc cụ, kể cả một số kiêng kỵ mang tính bảo vệ môi trường... Thứ tư, các hình thức tín ngưỡng thể hiện qua quan niệm và việc thực hành các nghi lễ, lễ hội không chỉ giúp duy trì các đặc trưng văn hóa tộc người từ vật thể đến phi vật thể, mà còn là môi trường để sáng tạo các đặc trưng hoặc dị bản văn hóa mới, đặc biệt là các loại hình nghệ thuật, những trò chơi dân gian, ca, múa, nhạc phù hợp với bối cảnh mới... Vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị 29 Thứ năm, ngoài việc giải tỏa các yếu tố tâm linh, tâm lý và nhiều vấn đề khác liên quan, các hình thức tín ngưỡng của tộc người thể hiện qua các nghi lễ lớn hay nhỏ với phạm vi thực hiện trong cộng đồng hay gia đình đều là sự kiện quan trọng nhằm duy trì và phát huy các tập quán tương trợ, đoàn kết, cố kết giữa các gia đình trong cộng đồng cư trú cũng như giữa các thành viên của dòng họ và trong mỗi gia đình. Đồng thời, có ý nghĩa giáo dục mỗi thành viên trong gia đình và cộng đồng, nhất là đối với những người chủ gia đình và trưởng dòng họ, góp phần vào việc ổn định xã hội tộc người nói chung. Thứ sáu, rất nhiều lễ thức, nội dung của các hình thức tín ngưỡng, đặc biệt là các bài cúng và hát cũng như diễn trình mỗi nghi lễ và những yếu tố liên quan như lễ vật dâng cúng, nghệ thuật trang trí, tranh thờ,... của các nghi lễ tín ngưỡng đều là những thông tin, tín hiệu, dữ liệu,... về nguồn gốc, lịch sử và cách ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội của mỗi tộc người. Do vậy, thông qua các hình thức thờ cúng, các nghi lễ tín ngưỡng, đặc biệt là những nghi lễ lớn có thể nhận biết được nguồn gốc lịch sử tộc người cũng như quá trình di chuyển di cư, sự thích ứng với môi trường tự nhiên và xã hội của tộc người đó trong quá trình hình thành, tồn tại và phát triển, kể cả các mối quan hệ tộc người. Rõ ràng, trong bối cảnh cơ chế thị trường và đô thị hóa, toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay, tín ngưỡng truyền thống của các tộc người thiểu số ở nước ta ngày càng được tô đậm thêm về giá trị bảo tồn các đặc trưng văn hóa tộc người, góp phần duy trì bức tranh văn hóa đa dạng của nước ta. Điều này có nghĩa, tín ngưỡng truyền thống là di sản vô cùng quý giá của mỗi tộc người và của cả nước ta, cần có những giải pháp phù hợp để bảo tồn, tránh sự chuyển đổi sang các tôn giáo mới. 3. Vấn đề đặt ra, kiến nghị giải pháp cho việc bảo tồn và phát huy giá trị tín ngưỡng của các tộc người thiểu số trong bối cảnh mới 3.1. Một số vấn đề đặt ra Từ năm 1986 đến nay, tín ngưỡng của các tộc người đã được các cơ quan, ban ngành ở địa phương quan tâm và khôi phục một số hình thức đã mất nhằm phục vụ cho sinh hoạt văn hóa quần chúng và phát triển du lịch, tránh sự lôi kéo và xâm nhập của tôn giáo ngoại lai. Tuy nhiên, trong bối cảnh mới, vẫn có một số vấn đề đặt ra: Một là, vấn đề biến đổi tín ngưỡng truyền thống, nhất là mai một các nghi lễ liên quan tới trồng trọt, chăn nuôi, nghề thủ công. Qua thời gian, nhất là từ thời kỳ hợp tác xã, nhiều nghi lễ nông nghiệp đã mai một: cúng thóc giống, cúng ruộng nương vào dịp gieo cấy, cúng hồn lúa,... Hiện nay, không ít nghi lễ nông nghiệp trong gia đình chỉ kết hợp cúng ma nhà vào các dịp tết; phạm vi cộng đồng cư trú còn có lễ cúng thần rừng, lễ cầu mùa...; các nghi lễ cầu mưa, cúng khi phát nương,... đã không còn được duy trì ở một số tộc người. Việc mai một đó là do sự biến đổi môi trường tự nhiên và cách thức hoạt động kinh tế truyền thống, phải chăng vấn đề đặt ra là cần quan tâm tới một số nghi lễ mà nền nông nghiệp ở các tộc người đang hướng tới, cụ thể là các nghi lễ liên quan tới bảo vệ rừng, nghi lễ bảo vệ tài nguyên nước và môi trường sông suối, nghi lễ tổ nghề mới,... Hai là, vấn đề gia tăng sự ảnh hưởng của nhiều tôn giáo mới với việc duy trì tín ngưỡng truyền thống. Hiện nay, một bộ phận người dân các tộc người từ Tây Nguyên, duyên hải miền Trung,... đến miền núi phía Bắc đã bị ảnh hưởng từ một số tôn giáo mới, nhất là Tin lành và Công giáo. Họ đã bỏ bàn thờ tổ tiên, chỉ thờ chúa Giê-su, nên đã từ bỏ các hình thức thờ cúng truyền thống. Tình hình này tuy làm phong phú văn hóa của một số tộc người, song nếu tín ngưỡng truyền thống không tự biến đổi kịp thời và cùng với đó là đổi mới một số hình thức thờ cúng cho phù hợp bối cảnh mới thì 3 (43) - 2019: CHUYÊN ĐỀ: BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY... 30 theo thời gian, số người dân bị lôi kéo theo tôn giáo mới sẽ ngày càng đông. Ba là, vấn đề tự đổi mới các hình thức tín ngưỡng và thờ cúng cho phù hợp với sự biến đổi môi trường tự nhiên, xã hội, trình độ nhận thức của người dân, nhất là bối cảnh toàn cầu hóa với việc gia tăng ảnh hưởng các tôn giáo ngoại lai. Do tín ngưỡng truyền thống đã có lâu đời với các hình thức thờ cúng chủ đạo là tổ tiên, thổ địa, thần rừng và nước, thần lúa gạo, thần chăn nuôi,... Hiện nay do môi trường thay đổi xuất hiện nhiều hoạt động sinh kế mới và nhận thức của người dân được nâng cao, nhiều yếu tố tín ngưỡng và nghi lễ truyền thống không còn phù hợp, cần đổi mới như tín ngưỡng đa thần đối với sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi...; quan niệm về các loại ma làm hại;... Bốn là, vấn đề duy trì đội ngũ các thầy cúng - những người am hiểu, trực tiếp thực hành các nghi lễ, gìn giữ các vật thể văn hóa liên quan tới các hình thức tín ngưỡng,... Đội ngũ này là linh hồn của việc duy trì các giá trị tín ngưỡng, nghi lễ, lễ hội và gắn với đó là các di sản văn hóa tộc người. Họ vừa hiểu biết tường tận về các nghi lễ và các đặc trưng văn hóa tộc người, vừa là người thực hành các hình thức thờ cúng, nghi lễ, lễ hội. Nếu nơi nào không có hoặc mất đi đội ngũ đó, sẽ không có người chủ trì các nghi lễ thờ cúng cộng đồng và gia đình, nhất là thực hành các nghi lễ truyền thống trong cưới xin, tang ma..., do đó người dân sẽ tìm đến tôn giáo mới. Trường hợp đội ngũ này khan hiếm và bị ảnh hưởng cơ chế thị trường khi thực hành các nghi lễ nhằm vụ lợi cá nhân thì cũng tạo ra bất cập đối với việc duy trì và phát huy giá trị tín ngưỡng truyền thống. Qua kết quả khảo sát tại một số địa phương cho thấy, nhiều nơi nhiều tộc người hiện tại rất khan hiếm thầy cúng, nhất là các tộc người có dân số ít như Cống, Si La ở tỉnh Lai Châu (1); Pu Péo, Cơ Lao, Lô Lô ở Hà Giang (2); kể cả các tộc người Tày, Nùng, Thái, Hmông, Dao, Mnông,... ở một số địa phương (3);... Năm là, vấn đề mang lại lợi ích cho người dân và cộng đồng bản làng đối với việc phát huy các giá trị tín ngưỡng truyền thống trong bối cảnh cơ chế thị trường, hội nhập và phát triển du lịch,... Đây là vấn đề khó cho nhiều địa phương cũng như các ngành văn hóa, du lịch,... Tuy vậy, hiện nay có một số địa phương, nhất là những nơi thuận tiện phát triển du lịch như các huyện thuộc Công viên Địa chất Toàn cầu UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn đã có cơ hội gắn giá trị tín ngưỡng truyền thống tộc người với du lịch nhằm tạo ra thu nhập cho người dân. Song, liên quan tới vấn đề này là cần đảm bảo tính thiêng liêng các nghi lễ, lễ hội tín ngưỡng mỗi khi gắn với đời sống tâm linh của đồng bào thì mới không làm cho các hình thức tín ngưỡng, diễn trình của các nghi lễ, lễ hội bị thương mại hóa do phát triển du lịch, bởi nếu như vậy sẽ dễ đánh mất giá trị tín ngưỡng truyền thống vốn có của tộc người. Bên cạnh đó, còn không ít vấn đề như: vấn đề cải biến nghi lễ tín ngưỡng cho phù hợp với bối cảnh mới; vấn đề đưa một số lễ thức của những nghi lễ lớn thành sinh hoạt văn hóa quần chúng phục vụ cho du lịch;... 3.2. Kiến nghị giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị tín ngưỡng của các tộc người thiểu số trong bối cảnh mới Về quan điểm, trong bối cảnh hiện nay rất khó bảo tồn nguyên gốc, mà chỉ phát huy các giá trị để hài hoà giữa cái cũ với cái mới. Theo đó, bảo tồn các giá trị tín ngưỡng của tộc người không nhất thiết phải giữ nguyên bản truyền thống, vì biến đổi văn hoá đôi khi là động lực cho phát triển. Do vậy, một số kiến nghị mang tính giải pháp ở đây về bảo tồn và phát huy giá trị tín ngưỡng của tộc người thiểu số nước ta luôn gắn với sự biến đổi cho phù hợp với bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay. - Đối với việc đổi mới chính sách về văn hóa, tín ngưỡng Cần tiếp tục triển khai các chương trình biên dịch, nghiên cứu chuyên sâu về hệ Vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị 31 thống các tín ngưỡng cổ truyền thông qua các hình thức thờ cúng và các nghi lễ, lễ hội của các tộc người nhằm xây dựng bức tranh tổng thể về hệ giá trị tín ngưỡng của các tộc người thiểu số ở nước ta. Kết quả nghiên cứu còn là nhân tố quan trọng giúp các địa phương và các tộc người nâng cao ý thức gìn giữ những yếu tố tiêu biểu trong tín ngưỡng, nhất là các hình thức thờ cúng và các nghi lễ, lễ hội truyền thống phục vụ co nhu cầu tâm linh và phát triển du lịch. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh thêm công tác tuyên truyền, vận động mỗi người dân tộc thiểu số, nhất là các trí thức của họ thực hành nghiêm cẩn các nghi lễ tín ngưỡng của tộc người mình trong phạm vi cộng đồng, dòng họ, gia đình. Thông qua đó, giáo dục cá nhân và cộng đồng nhận thức rõ hơn về các giá trị của đời sống văn hóa cũng như các thành tựu mà chính sách của Đảng, Nhà nước mang lại để người dân hôm nay có cuộc sống ổn định cả về vật chất và tinh thần, nhưng vẫn giữ được các đặc trưng văn hóa của tộc người. Theo Luật Di sản văn hóa, Nhà nước tăng cường các nguồn lực để: Xây dựng các thiết chế văn hóa cơ sở; Tổ chức kiểm kê, phân loại di sản văn hóa các tộc người thiểu số, trong đó có giá trị tín ngưỡng; Xây dựng kế hoạch bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa trong đời sống đương đại, bao gồm bảo tồn động và bảo tồn tĩnh; Xây dựng chính sách đãi ngộ, tôn vinh các nghệ nhân tộc người thiểu số đang nắm giữ và có công phổ biến nghệ thuật truyền thống, bí quyết nghề nghiệp có giá trị đặc biệt; Tạo nguồn kinh phí hỗ trợ các nghệ nhân tổ chức các lớp trao truyền tri thức, kinh nghiệm trong dòng họ, gia đình, cộng đồng,... Như vậy, việc bảo tồn và phát huy giá trị tín ngưỡng của tộc người thiểu số đòi hỏi nỗ lực từ hai phía: Nhà nước và người dân. Nhà nước đảm bảo về chính sách, cơ chế quản lý linh hoạt, các thiết chế cơ sở phù hợp, hỗ trợ bảo tồn dưới dạng tĩnh,... Người dân không chỉ vừa là chủ thể vừa là người thực hành các hình thức thờ cúng, các nghi lễ và lễ hội của tộc người mình, mà còn là người quyết định việc duy trì hay chuyển đổi, thậm chí bỏ bớt đi những chi tiết trong mỗi nghi lễ hoặc những nghi lễ không còn phù hợp với cuộc sống mới. - Đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở vùng tộc người thiểu số Một thực tế là tộc người hay một bộ phận sinh sống ở những nơi còn khó khăn về điều kiện cơ sở vật chất thì khả năng lưu giữ, thực hành các hình thức tín ngưỡng của tộc người sẽ càng nhiều hơn, nghĩa là sự “lạc hậu” đôi khi tỷ lệ thuận với hoạt động bảo tồn di sản văn hóa tộc người. Song, đây cũng là vấn đề dễ bị thế lực thù địch và tôn giáo ngoại lai lợi dụng, do vậy cần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội kết hợp nâng cao trình độ dân trí cho các tộc người ở các vùng miền. Đó là mục tiêu, tác động trực tiếp đến các hoạt động văn hóa tại cơ sở, bao gồm phát huy các giá trị tín ngưỡng. Khi người dân có cuộc sống ổn định, có trình độ hiểu biết thì việc vận động họ duy trì và phát huy giá trị tín ngưỡng truyền thống sẽ rất thuận lợi, mà không bị tôn giáo ngoại lai lợi dụng. Hơn nữa, phát triển kinh tế - xã hội kết hợp nâng cao dân trí cho người dân ở mọi vùng miền còn góp phần hình thành những giá trị văn hóa mới trong quá trình bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa và giá trị tín ngưỡng truyền thống của tộc người, khiến cho các di sản và giá trị tín ngưỡng ngày càng phong phú, phù hợp với đời sống đương đại. Qua đó, gìn giữ được bản sắc tín ngưỡng riêng ở mỗi tộc người trên cơ sở vừa có yếu tố truyền thống vừa có yếu tố đương đại - bản sắc có sức đề kháng để “hòa nhập mà không hòa tan” trong quá trình hội nhập với văn hóa, văn minh của nhân loại. Đây cũng chính là nhằm giải quyết tốt hơn vấn đề tự đổi mới các hình thức thờ cúng, các nghi lễ và lễ hội truyền thống cho phù hợp với bối cảnh mới, để không bị coi là “lạc hậu”, nhưng quan trọng nhất là vẫn giữ được hầu hết các giá trị truyền thống mà không bị tôn giáo khác lợi dụng, lôi kéo. 3 (43) - 2019: CHUYÊN ĐỀ: BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY... 32 - Đối với các ban, ngành, đoàn thể ở địa phương Người dân và cộng đồng tộc người thiểu số ở mỗi địa phương cần được tuyên truyền thường xuyên để họ tự ý thức về giá trị tín ngưỡng cổ truyền; cần được tham gia có hiệu quả vào công tác phát huy bản sắc của tộc người mình. Vì vậy, các ban, ngành ở địa phương không nên áp đặt mà cần kiên trì tuyên truyền, khuyến khích đồng bào lựa chọn đúng hướng, phù hợp với nhu cầu cá nhân, gia đình, cộng đồng nhưng vẫn giữ được giá trị các hình thức tín ngưỡng, các nghi lễ, lễ hội truyền thống. Vấn đề là lớp trẻ hiện nay ít chú trọng tới văn hóa tộc người mình, bởi họ sớm giao lưu với bên ngoài và sống trong môi trường văn hóa hiện đại. Song, do lớp trẻ là chủ nhân tương lai, nên các ban, ngành và đoàn thể ở địa phương cần gia tăng thời lượng tuyên truyền cho họ hiểu và biết trân trọng các giá trị văn hóa của tộc người mình, trong đó có tín ngưỡng truyền thống: i) Tiếp tục nâng cao nhận thức cho cán bộ cơ sở về vai trò tín ngưỡng của các dân tộc ở địa phương. Từ đó, cán bộ cơ sở sẽ được củng cố thêm ý thức bảo tồn văn hóa dân tộc, tích cực phối hợp với các trưởng thôn/làng, các trưởng họ, các thầy cúng cùng tham gia duy trì, thực hành nghiêm cẩn các hình thức thờ cúng, nghi lễ tín ngưỡng, nhằm phát huy và làm phong phú thêm bản sắc các dân tộc trên địa bàn, tạo điều kiện hướng tới phát triển du lịch thông qua các hình thức quảng bá. ii) Phát huy hơn nữa vai trò các đoàn thể như Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ,... Đặc biệt, cần đưa nội dung tuyên truyền về bảo tồn giá trị tín ngưỡng vào các cuộc sinh hoạt của hội, thôn/làng; vận động các thành viên các hội, nhất là Hội Người cao tuổi để nhắc nhở con cháu giữ gìn các nghi lễ tín ngưỡng. iii) Tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, vì hiện nay đa số các gia đình đều có tivi, sử dụng điện thoại,... Cần gia tăng chương trình về trang tin địa phương giới thiệu các dân tộc ở nước ta để đồng bào thấy sự phong phú trong văn hóa các dân tộc, sẽ thêm trân trọng bản sắc dân tộc mình, nhất là các nghi lễ tiêu biểu gắn với đó là lễ phục, nhạc cụ, tranh thờ, nghệ thuật trang trí,... iv) Các ban, ngành, đoàn thể ở địa phương cần phát triển đội văn nghệ thôn/làng với nhiều tiết mục trích xuất từ các nghi lễ của tộc người và khuyến khích các đội văn nghệ này hoạt động thường xuyên, kết hợp biểu diễn cùng với đội thông tin lưu động của xã, huyện và biểu diễn trong các nghi lễ dân tộc. v) Cộng đồng các bản/làng là chủ thể các nghi lễ, lễ hội, ngoài tuyên truyền cho đồng bào có ý thức tự giữ gìn, các ban ngành và đoàn thể cần thu hút họ vào các buổi sinh hoạt văn hoá dân tộc ở địa phương. Song, cần có chế độ tôn vinh những thầy cúng có uy tín, trưởng họ giữ được nhiều hình thức thờ cúng, nghi lễ, lễ hội cổ truyền, nhằm khuyến khích họ trao truyền lại cho thế hệ trẻ. - Đối với mỗi gia đình và cộng đồng bản/làng Mỗi gia đình, dòng họ, cộng đồng bản/làng tộc người thiểu số và cá nhân thầy cúng cần thấy rõ việc thực hành các hình thức thờ cúng theo tín ngưỡng của mình là vinh dự, góp phần duy trì bản sắc tộc người. Việc tổ chức các nghi lễ, lễ hội của tộc người cần tiết kiệm thời gian, công sức và tiền của, song không vì thế mà giản lược, bỏ qua những chi tiết đặc trưng, tức cần làm đầy đủ: từ cách trang trí không gian, dựng đàn cúng, sử dụng đầy đủ các lễ phục, lễ vật, nhạc cụ, tranh thờ,... cho đến các bước diễn trình, các bài cúng, múa, bùa chú, phép thuật, kiêng kỵ. Việc đổi mới cần đảm bảo không làm mất giá trị của truyền thống, nhưng sẽ giảm được thời gian, bởi vì đa số chi tiết nếu làm đúng tập quán sẽ ít tốn kém. Sự lãng phí hiện nay chủ yếu do thương mại hóa, đua đòi về lễ vật dâng cúng, tổ chức ăn uống đa dạng món ăn, trang hoàng nghi lễ, mời khách đến đông,... Trên cơ sở thực hành đủ các hình thức thờ cúng, nghi lễ và lễ hội đúng theo tập quán thì mỗi gia đình, dòng họ, cộng đồng và thầy cúng Vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị 33 có uy tín cần tự giác phát huy vai trò giáo dục con em giữ lấy những giá trị truyền thống như tiếng nói, chữ viết nếu có, các nghi lễ của gia đình hoặc trong dòng họ, cộng đồng bản/làng. Thời điểm nông nhàn cuối năm, trưởng họ và thầy cúng có uy tín nên xin phép chính quyền địa phương mở lớp học theo tập quán tộc người để dạy cho lớp trẻ về các giá trị trong tín ngưỡng của tộc người mình, về các bài cúng lễ, múa, cách sử dụng nhạc cụ dân tộc, diễn trình một số nghi lễ lớn,... Tuy nhiên, lớp trẻ hiện nay thường không thích văn hóa dân tộc mình nhưng lại tiếp thu rất nhanh luồng văn hóa mới, do đó đòi hỏi sự nỗ lực thuyết phục của lớp người già, nhất là trợ giúp của trưởng thôn, trưởng dòng họ, chủ mỗi gia đình. Việc làm này có ý nghĩa rất lớn, bởi vì tín ngưỡng và các nghi lễ, lễ hội liên quan là tài sản quý giá của thế hệ trước dành tặng cho thế hệ kế tiếp, nếu chủ nhân văn hóa bảo tồn không tốt thì sẽ làm đứt mạch với quá khứ, tạo nguy cơ mai một các đặc trưng của văn hóa truyền thống, mở đường cho tôn giáo mới xâm nhập. Kết luận Ở nước ta, tín ngưỡng cổ truyền của các tộc người thiểu số rất phong phú, thể hiện qua thế giới quan dân gian, các hình thức thờ cúng, nghi lễ, lễ hội diễn ra hàng năm trong mỗi gia đình, dòng họ, cộng đồng cư trú. Nó có giá trị bảo tồn văn hóa tộc người: từ tập quán tương trợ, truyền thống giáo dục, cố kết cộng đồng,... đến việc duy trì lễ phục, nhạc cụ, các điệu múa, bài cúng,... Tuy nhiên, trong bối cảnh mới, có không ít vấn đề đang đặt ra. Đó là: sự mai một đi một số hình thức thờ cúng, nghi lễ và lễ hội, nhất là những nghi lễ liên quan tới trồng trọt, thủ công gia đình; đạo Tin lành xâm nhập vào một vài tộc người ở một số địa phương; lớp trẻ ít quan tâm đến việc học hỏi để trở thành những người có khả năng thực hành các nghi lễ tín ngưỡng truyền thống;... Vì vậy, rất cần những giải pháp thiết thực với thực tiễn mỗi địa phương để bảo tồn, phát huy các giá trị tín ngưỡng của các tộc người. Trong đó đặc biệt chú ý tới một số giải pháp như: đổi mới chính sách văn hóa, tín ngưỡng; phát triển kinh tế - xã hội ở vùng tộc người thiểu số; nâng cao nhận thức và vai trò của các ban ngành, đoàn thể địa phương; phát huy vai trò của chủ thể tín ngưỡng;... L.H.S ___________________ 1. Lê Minh Anh và Hoàng Lê Thảo (Chủ nhiệm, 2019), Ảnh hưởng của một số yếu tố văn hóa tới chăm sóc sức khỏe của hai tộc người Cống và Si La ở tỉnh Lai Châu, Báo cáo kết quả thực hiện đề tài cấp Bộ, lưu tại Thư viện Viện Dân tộc học, Hà Nội. 2. Tư liệu điền dã tháng 4-2019 của Lý Hành Sơn. 3. Lý Hành Sơn (Chủ nhiệm, 2012), Một số vấn đề cơ bản về dân tộc - tôn giáo trong phát triển bền vững các tỉnh biên giới Việt Nam, Báo cáo kết quả thực hiện đề tài cấp Bộ, lưu tại Thư viện Viện Dân tộc học, Hà Nội. Tài liệu tham khảo khác 1. Nguyễn Văn Minh (2006), “Một số vấn đề về Tin lành ở Tây Nguyên hiện nay”, Tạp chí Dân tộc học, số 4. 2. Nguyễn Văn Minh (2009), Tôn giáo tín ngưỡng của người Ve ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. Lý Hành Sơn: Preserving and promoting traditional beliefs of ethnic minorities in our country today Traditional beliefs of an ethnic minority are the values, maintaining people’s rituals and festivals formed in the history of ethnic development. In particular, they are associated with preservation of ethnic cultural features such as musical instruments, dance in festivals, songs and worship poetry, decorative arts in rituals, various types of offerings, costumes, worship paintings,... It is necessary to recognize tradition beliefs of ethnic minorities in our country as cultural heritage, especially in the context of globalization and integration. Authorities and departments at all levels should work out practical solutions to preserve and promote the positive elements of traditional beliefs, to prevent ethnic people to be induced by exotic religions. Keywords: Preservation, values of traditional religious, ethnic minorities.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfvan_de_bao_ton_va_phat_huy_gia_tri_tin_nguong_truyen_thong_cua_cac_toc_nguoi_thieu_so_o_nuoc_ta_hien.pdf
Tài liệu liên quan