Vai trò và những thách thức từ các công trình thủy điện – thủy lợi ở miền Trung Việt Nam

Tài liệu Vai trò và những thách thức từ các công trình thủy điện – thủy lợi ở miền Trung Việt Nam: 79 TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 68, 2011 VAI TRÒ VÀ NHỮNG THÁCH THỨC TỪ CÁC CÔNG TRÌNH THỦY ĐIỆN – THỦY LỢI Ở MIỀN TRUNG VIỆT NAM Lê Thị Nguyện, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế TÓM TẮT Việt Nam đang bước vào giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì thế một hiện tượng phổ biến cho việc điện khí hóa “đi trước một bước” là tình trạng phát triển rầm rộ các công trình thủy điện. Việt Nam đã được EIA (Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ) đánh giá là quốc gia đứng đầu Đông Nam Á về việc khai thác thủy điện. Do đặc điểm địa lý, thủy văn của hệ thống sông ở miền Trung - Tây Nguyên với lưu lượng mưa hằng năm rất lớn so với cả nước (từ 2.000 mm/năm trở lên) nên hệ thống sông suối ở khu vực này ẩn chứa một tiềm năng thủy điện rất lớn. Tuy nhiên, do sự phát triển tràn lan các công trình thủy điện, thủy lợi đã gây ra nhiều tác động không mong muốn đến cả môi trường tự nhiên và môi trường kinh tế - xã hội. 1. Đặt vấn đề Không ai phủ nhận những cái lợi...

pdf10 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 419 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò và những thách thức từ các công trình thủy điện – thủy lợi ở miền Trung Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
79 TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 68, 2011 VAI TRÒ VÀ NHỮNG THÁCH THỨC TỪ CÁC CÔNG TRÌNH THỦY ĐIỆN – THỦY LỢI Ở MIỀN TRUNG VIỆT NAM Lê Thị Nguyện, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế TÓM TẮT Việt Nam đang bước vào giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì thế một hiện tượng phổ biến cho việc điện khí hóa “đi trước một bước” là tình trạng phát triển rầm rộ các công trình thủy điện. Việt Nam đã được EIA (Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ) đánh giá là quốc gia đứng đầu Đông Nam Á về việc khai thác thủy điện. Do đặc điểm địa lý, thủy văn của hệ thống sông ở miền Trung - Tây Nguyên với lưu lượng mưa hằng năm rất lớn so với cả nước (từ 2.000 mm/năm trở lên) nên hệ thống sông suối ở khu vực này ẩn chứa một tiềm năng thủy điện rất lớn. Tuy nhiên, do sự phát triển tràn lan các công trình thủy điện, thủy lợi đã gây ra nhiều tác động không mong muốn đến cả môi trường tự nhiên và môi trường kinh tế - xã hội. 1. Đặt vấn đề Không ai phủ nhận những cái lợi từ việc đầu tư xây dựng các nhà máy thủy điện. Thủy điện có thể được coi là một nguồn năng lượng tái tạo như những nguồn năng lượng tái tạo khác như năng lượng gió, năng lượng bức xạ Mặt trời... Thủy năng thải rất ít khí thải nhà kính so với phương thức sản xuất điện khác. Lượng khí nhà kính mà thủy điện thải ra nhỏ hơn 10 lần so với các nhà máy tuocbin khí chu kì hỗn hợp và nhỏ hơn 25 lần so với các nhà máy nhiệt điện than. Về mặt kinh tế, việc đầu tư thủy điện thật sự có hiệu quả kinh tế cao, thu hồi vốn nhanh. Thủy điện có công suất càng lớn, địa hình tốt thì suất đầu tư thấp, với suất đầu tư bình quân 25 tỉ đồng/ MW thì chỉ từ 8 – 10 năm sẽ thu hồi vốn. Chính vì thế, trong những năm gần đây, phong trào đầu tư các dự án thủy điện đang trở nên rất sôi động. Trong khi đất nước đang thiếu điện trầm trọng, trách nhiệm của các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên vốn có lợi thế về thủy điện nên phải góp phần bảo đảm năng lượng cho đất nước phát triển. Có lẽ vì thế mà các tỉnh miền Trung đã, đang và sẽ xây dựng gần 150 nhà máy thủy điện vừa và nhỏ. Tuy nhiên, việc xây dựng tràn lan các nhà máy thủy điện đã để lại những hiểm họa khôn lường. Những cánh rừng bị phá hủy tan nát khiến lũ ngày càng hung hãn, hiện tượng “lũ chồng lũ” xuất hiện, môi trường sinh thái thay đổi làm biến mất nhiều loài động vật, thực vật, nguồn nước trên các sông bị suy thoái, cạn kiệt nghiêm trọng. Cuộc sống của người dân bị đảo lộn, nhiều vùng đất sản xuất bị biến mất... Đặc biệt cuộc sống của người dân ở nhiều khu tái định cư thủy 80 điện hiện đang là những vấn đề bức xúc do quá trình thực hiện các chính sách tái định cư chưa được nghiêm túc, nhất là đối với dân tộc thiểu số, cuộc sống của họ càng khốn đốn hơn. 2. Nội dung 2.1. Khái quát hệ thống sông miền Trung và hiện trạng sử dụng nguồn nước Việt Nam có 9 hệ thống sông có diện tích lưu vực sông trên 10.000km2, nhưng riêng khu vực miền Trung và Tây Nguyên đã chiếm hết 7 hệ thống sông, bao gồm hệ thống sông Mã, sông Cả, sông Vu Gia – Thu Bồn, sông Sê San, sông Srêpok, sông Ba và hệ thống sông Đồng Nai, các yếu tố thủy văn liên quan đến các hệ thống sông như sau: Bảng 1. Các hệ thống sông lớn ở miền Trung STT Hệ thống sông Diện tích lưu vực (km2) Tổng lượng dòng chảy (tỷ m3) Nhu cầu nước (tỷ m3) 1 Mả 28.400/ 17.600 18 4,5 7,807 36,478 2 Cả 27.200/ 17.730 23,5 4,7 3,749 4,294 3 Vu Gia – Thu Bồn 10.350 19,9 5,78 2,473 3,522 4 Sê San 11.450 12,9 4,63 1,327 1,625 5 Srêpôk 18.480 15,04 2,83 1,37 2,002 6 Ba 13.900 10,34 2,39 2,709 3,182 7 Đồng Nai 38.600 33,64 9,603 8,061 9,635 Nguồn [2]. Nếu tính đến các hệ thống sông có diện tích lưu vực trên 2.500km2 thì Việt Nam có 16 hệ thống sông và riêng khu vực miền Trung – Tây Nguyên đã chiếm 12 hệ thống sông. Nghĩa là ngoài 7 hệ thống sông kể trên còn có hệ thống sông Gianh (Quảng Bình), sông Thạch Hãn (Quảng Trị), sông Hương (Thừa Thiên Huế), sông Trà Khúc (Quảng Ngãi) và sông Kone (Bình Định). Nhìn chung, khu vực miền Trung và Tây Nguyên Việt Nam có mật độ hệ thống sông dày đặc và rất đa dạng. Hầu hết, sông đều ngắn, dốc và được phân bố đồng đều khắp các tỉnh. Đại đa số các sông được bắt nguồn từ sườn Đông dải Trường Sơn, ngoại trừ sông Cả bắt nguồn từ Lào, sông Mã bắt nguồn từ phía Nam Điện Biên nhưng sau đó chảy qua Lào rồi vào Việt Nam ở tỉnh Thanh Hóa, còn sông Đồng Nai bắt nguồn từ cao nguyên Lâm Viên, địa phận tỉnh Lâm Đồng, sau đó chảy qua tỉnh Đắk Nông trước khi chảy qua các tỉnh Đông Nam Bộ. Hệ thống sông của miền Trung đã đóng góp tích cực vào tiến trình phát triển 81 kinh tế của các tỉnh. Tuy nhiên do dòng chảy của các sông này thường tập trung nhanh, lưu lượng lớn nên thường gây ngập lụt ở vùng hạ lưu, nhất là vào mùa mưa lũ, làm thiệt hại đến đời sống của người dân vùng hạ lưu và ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh. Theo tài liệu điều tra của Bộ Tài nguyên – Môi trường, hiện trạng sử dụng tài nguyên nước ở các hệ thống sông miền Trung – Tây Nguyên được xác định như sau: Hình 1. Cơ cấu sử dụng nguồn nước theo ngành Hình 2. Tỉ lệ (%) dân đô thị được cấp nước sạch từ các hệ thống sông Nguồn [2]. 0 20 40 60 80 Bằng Giang – Kỳ Red - Thai Binh Mã Cả Gianh Thạch Hãn Hương Thu Bồn & Vu Gia Tra Khuc Kone Ba Đồng Nai Nhóm sông ĐNB Sê San Srê Pok ĐBSCL Khu vực đô thịdo trung ương hoặc tỉnh quản lý % 0 10 20 30 Khu vực huyện lỵ 84 83 88 81 67 71 88 82 94 93 96 72 58 84 87 81 5 9 2 1 13 9 1 7 1 3 1 14 11 6 2 1 3 4 2 5 9 5 4 3 1 2 2 8 5 4 5 1 8 4 8 14 11 14 7 8 4 2 2 6 26 6 7 16 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100 Bằng Giang-Kỳ Cung Hồng-Thái Bình Mã Cả Gianh Thạch Hãn Hương Vu Gia-Thu Bồn Trà Khúc Kone Ba Đồng Nai Nhóm sông ĐNB Sê San Srê Pok CĐBSCL Sử dụng nước theo ngành Tưới Công nghiệp Cấp nước sinh hoạt Nuôi trồng thủy sản % i c sinh hoạt i trồng thủy sản c thị do trung ương hoặc tỉnh quản lý Khu vực huyện lỵ 82 2.2. Khả năng khai thác thủy điện từ các hệ thống sông miền Trung Trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, một hiện tượng phổ biến cho việc điện khí hóa “đi trước một bước” ở Việt Nam là sự phát triển tràn lan các nhà máy thủy điện. Việt Nam được EIA (Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ) đánh giá là nước đứng đầu Đông Nam Á về việc khai thác thủy điện. Thật vậy, đối với các nước phát triển, thủy điện chỉ chiếm vai trò thứ yếu, như ở Nhật Bản thủy điện chỉ chiếm 3% nguồn cung cấp năng lượng trong năm (20% năng lượng than đá, 13% năng lượng nguyên tử...). Đối với khu vực Đông Nam Á, Malaysia, Indonesia thủy điện cũng chỉ chiếm 2%, Trung Quốc mặc dù thủy điện xây dựng khá rầm rộ nhưng cũng chỉ chiếm 6% so với tổng nguồn cung cấp năng lượng trong năm. Trong khi đối với Việt Nam, thủy điện chiếm đến 20% tổng nguồn cung cấp năng lượng trong năm. Với điều kiện tự nhiên của hệ thống sông ngòi ở miền Trung là bắt nguồn từ các núi cao nên sông có độ dốc lớn, có nhiều thác ghềnh và với khả năng hiện có của các tỉnh, nên trong thời gian qua UBND các tỉnh cùng với các Sở, Ban ngành đã tiến hành lập nhiều đề án, chiến lược trong việc xây dựng và khai thác thủy điện, thủy lợi. Đồng thời, bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, như vốn ngân sách, vốn của một số tập đoàn kinh tế... đã đầu tư nhiều công trình thủy lợi, thủy điện khắp trên các sông. Có thể nói mật độ các dự án nhà máy thủy điện đã và đang được xây dựng dày đặc, cụ thể: - Quảng Nam có đến 62 dự án thủy điện được phê duyệt. Riêng hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn đã có 10 dự án hoạt động và 47 dự án thủy điện vừa và nhỏ đã được địa phương cho phép lập kế hoạch nghiên cứu và đầu tư. - Thừa Thiên Huế cũng có một loạt nhà máy thủy điện nằm trên các nhánh của sông Hương đang được thi công ồ ạt. Hệ thống sông Hương là hợp lưu của 3 nhánh sông lớn, sông Bồ, sông Tả Trạch và Hữu Trạch. Tổng diện tích lưu vực khoảng 2.960km2. + Sông Bồ: Có diện tích lưu vực 780km2, nhập lưu với sông Hương ở ngã ba Sình. Chiều dài dòng chính sông Bồ đến ngã ba Sình là 94km. Hiện nay trên thượng nguồn sông Bồ đang được Công ty cổ phần Thủy điện Hương Điền đầu tư xây dựng hồ thủy điện Hương Điền để tạo nguồn phát điện cung cấp cho lưới điện quốc gia phục vụ miền Trung và miền Nam với công suất 81MW, điện lượng trung bình năm là 197,7.106kwh. Công trình thủy điện Hương Điền còn đón thêm lưu lượng xã từ nhà máy thủy điện A Lưới và các thủy điện nhỏ khác trên sông Bồ để tăng thêm công suất. + Sông Hữu Trạch: Bắt nguồn từ vùng rừng núi huyện A Lưới và Nam Đông, nhập lưu với sông Tả Trạch tại ngã ba Tuần, có diện tích tính đến của nhập lưu là 729km2, chiều dài sông chính 51km. Hiện trên sông Hữu Trạch đã được đầu tư xây dựng công trình thủy điện Bình Điền với công suất 44MW. + Sông Tả Trạch: Sông Tả Trạch được coi là dòng chính phía thượng nguồn của 83 sông Hương. Sông bắt nguồn từ vùng rừng núi huyện Nam Đông và nhập lưu cùng sông Tả Trạch tại ngã ba Tuần. Diện tích lưu vực đến ngã ba Tuần là 821km2. Từ năm 2005 ở Dương Hòa đã khởi công xây dựng công trình hồ chứa nước Tả Trạch, đây được coi là công trình đập lớn nhất Việt Nam, dự kiến công trình sẽ hoàn thành vào năm 2011. Hồ chứa nước Tả Trạch ngoài nhiệm vụ cắt lũ cho hạ lưu, cung cấp nước tưới, cải tạo môi trường, công trình còn có nhiệm vụ phát điện với công suất 19,5MW. - Sông A Sáp: Sông bắt nguồn từ nước Lào và chảy vào địa phận tỉnh Thừa Thiên Huế. Ngày 26/04/2008, Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải đã chính thức phát lệnh chặn dòng sông A Sáp tại huyện A Lưới để xây dựng công trình Thủy điện A Lưới với công suất 170MW, công trình này do Công ty cổ phần Thủy điện miền Trung làm chủ đầu tư, điện lượng bình quân năm là 686,5.106kwh và nhiều công trình thủy điện nhỏ khác (dưới 10MW). - Đối với khu vực Tây Nguyên, riêng 3 tỉnh Gia Lai, Đắk Nông và Kon Tum đã có 11 nhà máy thủy điện lớn đang vận hành, với tổng công suất trên 5.000 MW, chiếm 25% tổng công suất nguồn thủy điện của cả nước. Theo quy hoạch của 3 tỉnh này thì có đến 257 dự án xây dựng nhà máy thủy điện vừa và nhỏ. Trong đó Gia Lai có đến 113 nhà máy với tổng công suất 549,78MW, Đắk Nông 70 nhà máy với tổng công suất 241,07MW, Đắk Lắk 104 nhà máy... Trên sông Đắk Mi dài chưa đến 100km đã có 4 nhà máy thủy điện bậc thang, gồm Đắk Mi 1 (58MW, Kon Tum), Đắk Mi 2 (90MW), Đắk Mi 3 (45MW) và Đắk Mi 4 (210MW). Như vậy, “1 giọt nước” chảy từ nguồn ra biển phải qua 4 cửa tuốc bin. Hình 3. Các nhà máy thủy điện đã, đang và sẽ xây dựng ở tỉnh Quảng Nam 84 Có thể thấy mức độ phát triển các công trình thủy điện trên các lưu vực sông ở miền Trung và Tây Nguyên qua hình sau: Hình 4. Mức độ phát triển thủy điện trên các hệ thống sông Nguồn [3]. Việc đầu tư xây dựng các công trình thủy lợi, thủy điện nêu trên sẽ mang lại nhiều hiệu quả về mặt kinh tế và xã hội, như cung cấp điện năng, các hồ chứa sẽ tham gia giảm nhẹ và phòng chống thiên tai, nghĩa là sẽ cắt được lũ và chống được hạn, sẽ bảo đảm nguồn nước nuôi trồng thủy sản và canh tác. Cụ thể như hồ Tả Trạch (Thừa Thiên Huế) theo quy hoạch sẽ kết hợp với hồ Bình Điền để cắt 100% lũ tiểu mãn và lũ sớm (theo tính toán của Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam trong dự án Quy hoạch ổn định sông Hương đã phê duyệt), từ đó sẽ giảm thiệt hại cơ sở hạ tầng, ổn định đời sống nhân dân, đặc biệt là bảo vệ được khu di sản Kinh Thành Huế và vùng phụ cận. Hệ thống các công trình thủy lợi, thủy điện này sẽ bổ sung nguồn nước tưới cho 34.728ha, cấp nước sinh hoạt và hoạt động công nghiệp với lưu lượng Q = 2m3/s và bổ sung nước để đẩy mặn với lưu lượng Q = 25km3/s. Ngoài ra, khi toàn bộ các công trình được xây dựng hoàn thành sẽ hòa vào mạng lưới điện quốc gia với công suất 260MW, trong đó Tả Trạch: 19,5MW, Bình Điền: 48MW, Hương Điền: 50MW và A Lưới: 150MW. 2.3. Những tác hại từ các công trình thủy điện – thủy lợi ở miền Trung Song song với những hiệu quả tích cực từ các công trình thủy lợi, thủy điện thì những tác động tiêu cực đưa đến từ các công trình này là không nhỏ, cụ thể: - Do sợ tốn kém nhiều nhà máy đã không xây dựng các hồ phòng lũ, vì vậy để tránh hiện tượng vỡ đập nhiều nhà máy buộc phải xả lũ trong lúc lũ ở hạ lưu đang dâng cao. Thủy điện A Vương (Quảng Nam) với công suất 210MW, lớn gấp đôi thủy điện 0 1000 2000 3000 4000 5000 6000 7000 8000 Lo - Gam - Chay Da Ma Ca Vu Gia -Thu Bon Tra Khuc - Huong Ba Se San Sre Pok Dong Nai Cô ng su ất (M w ) Trữ năng Kinh tế Kỹ thuật Công suất đã khai thác Công suất sẽ khai thác đến 2025 85 Thác Bà (Yên Bái) nhưng phạm vi mặt thoáng tạo thành hồ chứa chỉ có 9,09km2, một cái mặt hồ rất bé và dung tích toàn bộ của hồ chứa chỉ 343,55 triệu m3, trong khi dung tích hồ chứa của Thác Bà lên tới 1,4 tỉ m3, gấp gần năm lần hồ chứa của A Vương [1], [4]. Chính vì vậy, bao nhiêu năm nay hồ Thác Bà chứa và điều tiết nước rất tốt, không gây ra vấn đề gì đối với hạ lưu. Còn A Vương, chỉ cần một trận lũ lớn sẽ làm đầy hồ rất nhanh chóng, vì vậy buộc phải tính đến phương án giữ an toàn cho bản thân công trình là phải đưa nước xuống hết và hạ lưu đương nhiên phải chấp nhận một đợt đại hồng thủy. Hiện tượng xả lũ của thủy điện A Vương từ ngày 28-30 tháng 09 năm 2009 là điển hình. Ngoài ra, vào mùa mưa lũ, hiện tượng ngập lụt ở hạ lưu càng trầm trọng hơn khi lũ có kèm theo theo bùn cát sẽ dễ gây sụp đổ nhà cửa và lượng phù sa ở các con sông cũng sẽ bị bồi lắng quá mức. Như sông Vu Gia tại trạm quan trắc Thành Mỹ (Nam Giang) bình quân mỗi năm bị bồi lắng 460.000 tấn đất, cát [5]. - Để lấy mặt bằng xây dựng các công trình thủy điện, thủy lợi, để mở đường vào các công trình, để có mặt bằng xây dựng các khu tái định cư cho người dân thuộc phạm vi di dời... rừng già đã bị tàn phá mãnh liệt, tính trung bình để sản xuất 1MW thủy năng thì phải mất 100ha rừng. Như ở Quảng Nam, chỉ mới triển khai 4 nhà máy thủy điện trên 62 dự án đã phê duyệt mà đã mất trên 4.000ha rừng liên quan phục vụ cho các công trình xây dựng và 6.000ha rừng phải chặt bỏ để kéo đường dây điện [5]. Hình 5. Rừng già bị san ủi để mở đường vào thủy điện A Lưới - Việc xây dựng quá nhiều đập thủy điện trên cùng một con sông đã dẫn tới việc ngăn cản nhiều động vật thủy sinh không thể di cư bình thường và nhiều quần thể sẽ bị hủy diệt, hoặc gây ra nguy cơ thay đổi hệ sinh thái ở vùng hạ lưu. Việc đắp đập giữ nước còn làm suy giảm chất lượng nguồn nước sinh hoạt ở hạ lưu, như hoạt động của các công trình thủy điện trên hệ thống sông Hương đã làm cho hàm lượng chất Fe, Mn tăng lên gấp nhiều lần. Chỉ sau một năm hoạt động (2008-2009), hàm lượng chất Fe đã tăng gấp 3 lần, Mn tăng gấp 46,8 lần, chất hữu cơ tăng 2,5 lần, coliform tổng tăng 2 86 lần... (theo đánh giá của Công ty Cấp thoát nước Thừa Thiên Huế). Ngoài ra, còn làm cho nhiệt độ ở phía trước và sau đập sẽ bị chênh lệch, đồng nghĩa với việc đảo lộn môi trường sống của các loài sinh vật thủy sinh và thực vật sống dựa vào các con sông. - Việc đắp đập chứa nước sẽ làm ngập diện tích rừng tự nhiên, cây công nghiệp và hoa màu trong khu vực lòng hồ, như nhà máy thủy điện Đắk Pô Kô chỉ 15MW nhưng đã nhấn chìm 117,2 ha thảm thực vật và sau một thời gian khi chúng bị phân hủy sẽ bốc mùi hôi thối. Đồng thời, dòng nước sau khi qua tuốc bin phát điện sẽ có áp lực lớn gây xói lở ở phía hạ lưu là rất mạnh [4]. - Ngoài ra, trong quá trình thi công các công trình sẽ phát sinh bụi từ việc khai thác đá làm vật liệu xây dựng và quá trình san lấp mặt bằng. Như công trình thủy điện Đắk Pô Kô, huyện Đắk Tô, tỉnh Kon Tum có công suất chỉ 15MW nhưng khối lượng bụi phát sinh do khai thác đá và quá trình san lắp mặt bằng là 20.000m3. - Nhiều hồ chứa thủy điện lại thiếu cửa xả đáy vì thế vào mùa khô nếu một lý do nào đó nhà máy tạm ngưng không phát điện thì không một giọt nước nào có thể qua đập để đổ về hạ lưu. Như vậy, chắc chắn ở hạ lưu sẽ bị khô hạn, như công trình thủy điện Đắk Mi 4 và thủy điện A Vương. - Các công trình thủy điện, thủy lợi hầu như đều có liên quan đến việc di dân ra khỏi các khu vực xây dựng và số dân này sẽ được đưa đến định cư ở một khu vực mới. Nghị quyết số 26 được Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ VII, khóa IX thông qua là: “Nơi tái định cư phải có điều kiện sống, sinh hoạt phát triển tốt hơn hoặc bằng so với nơi ở cũ”. Mặc dù hầu hết trong các dự án về tái định cư thủy điện đều tạo điều kiện cho người dân khi đến các khu tái định cư sẽ được hưởng các chính sách về hạ tầng, nhà cửa, đất sản xuất, đất canh tác, bằng hoặc cao hơn nơi ở cũ. Nhưng một thực tế là người dân thuộc diện di dời “nghèo vẫn hoàn nghèo”. Tại các khu tái định cư thủy điện ở miền Trung – Tây Nguyên nhìn chung điều kiện sống của bà con nhiều nơi không được thực hiện như các chính sách, các quy định đã đưa ra. Một khó khăn chung là người dân hầu như bất lực trong việc kiếm kế sinh nhai. Các dự án hỗ trợ từ chính quyền đều không có hiệu quả. Tình trạng phổ biến nhất ở các khu tái định cư là nông dân không có đất canh tác, nếu có thì đất cằn cỗi, trơ sỏi đá cũng không canh tác được. Nghĩa là định cư nhưng thiếu định canh. Thủy điện Pa Ôi (huyện Nam Giang, trên suối Tạp Rông và Laê, một nhánh sông Bung, Quảng Nam) đã đụng đến đất sản xuất của dân tộc Katu quá nhiều, hơn 16 ha đất ruộng bị chìm trong lòng hồ, nghĩa là 100% dân tộc Katu nơi đây không có đất để làm nương rẫy. Ông Nguyễn Chua - Trưởng thôn khu tái định cư Hoà Bình, Thừa Thiên Huế, ngậm ngùi: “Sau khi được Nhà nước bố trí tái định cư, dù nơi ở mới đầy đủ hơn về điện, đường, trường, trạm nhưng việc làm thì rất bấp bênh nên đời sống người dân gặp nhiều khó khăn”[1]. 87 Nhiều khu tái định cư ngay sát cạnh nhà máy phát điện thủy năng nhưng cũng thiếu điện, thiếu nước sinh hoạt, tình trạng sạt lở diễn ra nghiêm trọng như khu tái định cư thủy điện A Vương, Quảng Nam. Đặc biệt, cuộc sống của cộng đồng dân tộc thiểu số, họ đang gặp rất nhiều trở ngại, khó khăn trong việc tìm kế sinh nhai, có thể nói một hiện tượng phổ biến đối với người dân ở các khu tái định cư thủy điện miền Trung và Tây Nguyên là tình trạng “tái định cư đi đôi với tình trạng tái nghèo”. Mặc dù, cũng có nhiều khu tái định cư người dân nhận được số tiền đền bù giải tỏa không phải là nhỏ (có hộ đã nhận được tiền đền bù đến 500 triệu) nhưng do không biết cách tính toán làm ăn, không có sự hướng dẫn cách sử dụng đồng tiền sao cho có hiệu quả nên “tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống”, nghèo khổ vẫn hoàn lại nghèo khổ. Ngoài ra, nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số đang dần dần mất đi bản sắc văn hóa, nghĩa là đời sống tinh thần ngàn đời nguy cơ bị “tước đoạt” bởi sự tất trách, vô cảm của các chủ đầu tư. 3. Kết luận Với điều kiện địa hình và mạng lưới sông ngòi dày đặc thì khu vực miền Trung rất thuận lợi cho việc xây dựng các công trình thủy lợi, thủy điện. Bên cạnh những tác động tích cực từ các công trình này mang lại thì những tác động tiêu cực cũng đang là những vấn đề bức xúc gây nhiều tranh cãi. Sự xuất hiện các công trình thủy điện, thủy lợi đã tác động đến cả môi trường tự nhiên, môi trường kinh tế - xã hội ở các vùng liên quan đến việc xây dựng các công trình, cụ thể: - Vào mùa mưa tình trạng ngập lụt ở vùng hạ lưu ngày càng trầm trọng hơn. Điều này dẫn đến nhiều quần thể sinh vật nguy cơ bị hủy diệt, hoặc thay đổi hệ sinh thái và nhiều loài sinh vật thủy sinh ở trước và sau đập sẽ đảo lộn môi trường sống do nhiệt độ trước và sau đập rất chênh lệch. Ngược lại, vào mùa khô vùng hạ lưu cũng là nơi có nguy cơ bị khô hạn trầm trọng. - Diện tích rừng già bị tàn phá mãnh liệt để có mặt bằng xây dựng nhiều công trình có liên quan đến hệ thống thủy điện, thủy lợi. Đồng thời, trong khu vực lòng hồ sẽ làm ngập nhiều diện tích rừng tự nhiên, diện tích cây trồng công nghiệp và cây hoa màu. - Chất lượng nước sinh hoạt ở vùng hạ lưu bị suy giảm. - Việc di dân ra khỏi vùng lòng hồ và đưa dân đến các khu tái định cư cũng đã để lại nhiều hệ lụy. Quan trọng hơn cả là cuộc sống của người dân ở một số khu tái định cư trở nên bấp bênh vì phần lớn họ bị bế tắt trong việc tìm kiếm kế sinh nhai, nhất là đối với dân tộc thiểu số Với những thực trạng trên, để có thể khắc phục dần những tác động không mong muốn từ các công trình thủy điện, thủy lợi thì việc ban hành các nguyên tắc cần phải được thực thi nghiêm túc, phải được giám sát chặt chẽ và quan trọng hơn cả là công tác đánh giá tác động môi trường từ các công trình thủy lợi, thủy điện phải được tiến hành hết sức nghiêm túc, kĩ lưỡng. 88 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Báo Tuổi trẻ, phát hành ngày 09, 10, 17, 22 tháng 10 năm 2009. [2]. Lê Bắc Huỳnh, Lưu vực sông và thực trạng quản lý lưu vực sông ở Việt Nam, Báo cáo Hội thảo Các khuyến nghị của Ủy ban thế giới về đập, Hòa Bình, 2009. [3]. Nguyễn Danh Oanh, Tiềm năng, hiện trạng và kế hoạch phát triển thủy điện ở Việt Nam, Báo cáo Hội thảo Các khuyến nghị của Ủy ban thế giới về đập, Hòa Bình, 2009. [4]. Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Đăklăk, Tài nguyên nước Tây Nguyên và vấn đề khai thác sử dụng hiệu quả, Báo cáo của Sở năm 2009. [5]. Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Quảng Nam, Các vấn đề liên quan đến sông ngòi và tài nguyên nước ở Quảng Nam, Báo cáo của Sở năm 2009. ROLES AND CHALLENGES IN HYDROELECTRIC - IRRIGATIONAL WORKS IN CENTRAL VIET NAM Le Thi Nguyen, College of Sciences, Hue University SUMMARY Vietnam is in its stage of industrialization and modernization. So there is a popular phenomenon toward electrification - “the first step”- that is the development of hydroelectrical works. EIA assessed that Viet Nam is on top of the list of Southeast Asian countries with exploitation of hydropower. The Central – Western highland region has a dense, sloping river systerm, many waterfalls and rapids, which are favourable for the building of hydroelectrical – irigational works. However, dense develpoment of those works has resulted in undesirable impacts on the natural and ecomic- social environment.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf68_9_6062_6718_2117932.pdf
Tài liệu liên quan