Vai trò của tổ chức quốc tế pháp ngữ tại Việt Nam trước và sau 1975: Quá trình hình thành và đóng góp - Nguyễn Thảo Hương

Tài liệu Vai trò của tổ chức quốc tế pháp ngữ tại Việt Nam trước và sau 1975: Quá trình hình thành và đóng góp - Nguyễn Thảo Hương: JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2018-0012 Social Science, 2018, Vol. 63, Iss. 1, pp. 81-89 This paper is available online at VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC QUỐC TẾ PHÁP NGỮ TẠI VIỆT NAM TRƯỚC VÀ SAU 1975: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ ĐÓNG GÓP Nguyễn Thảo Hương Phòng Hợp tác Quốc tế, trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Quá trình Việt Nam gia nhập Tổ chức quốc tế Pháp ngữ (TCQTPN) gắn liền với các mốc lịch sử phát triển của Việt Nam từ khi đất nước còn đang trong giai đoạn chiến tranh và hai miền Bắc Nam bị chia cắt cho đến khi đất nước hoàn toàn giải phóng và bắt đầu quá trình xây dựng đất nước. Trong bài viết, tác giả tập trung tóm lược quá trình hình thành và phát triển của Tổ chức quốc tế Pháp ngữ trên thế giới, đồng thời nêu lên sự tham gia của Việt Nam trong hai thời kì: bắt đầu với sự tham gia của chính quyền Việt Nam Cộng hòa và quá trình tiếp quản của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam từ năm 1979 cho tới nay. Bài viết cũng sẽ so sánh động cơ và mục đích tha...

pdf9 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 714 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của tổ chức quốc tế pháp ngữ tại Việt Nam trước và sau 1975: Quá trình hình thành và đóng góp - Nguyễn Thảo Hương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2018-0012 Social Science, 2018, Vol. 63, Iss. 1, pp. 81-89 This paper is available online at VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC QUỐC TẾ PHÁP NGỮ TẠI VIỆT NAM TRƯỚC VÀ SAU 1975: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ ĐÓNG GÓP Nguyễn Thảo Hương Phòng Hợp tác Quốc tế, trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Quá trình Việt Nam gia nhập Tổ chức quốc tế Pháp ngữ (TCQTPN) gắn liền với các mốc lịch sử phát triển của Việt Nam từ khi đất nước còn đang trong giai đoạn chiến tranh và hai miền Bắc Nam bị chia cắt cho đến khi đất nước hoàn toàn giải phóng và bắt đầu quá trình xây dựng đất nước. Trong bài viết, tác giả tập trung tóm lược quá trình hình thành và phát triển của Tổ chức quốc tế Pháp ngữ trên thế giới, đồng thời nêu lên sự tham gia của Việt Nam trong hai thời kì: bắt đầu với sự tham gia của chính quyền Việt Nam Cộng hòa và quá trình tiếp quản của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam từ năm 1979 cho tới nay. Bài viết cũng sẽ so sánh động cơ và mục đích tham gia TCQTPN của Việt Nam dưới hai chính thể chính trị khác nhau để từ đó hiểu rõ hơn vai trò và những đóng góp của Tổ chức quốc tế Pháp ngữ trong những giai đoạn lịch sử nhất định của Việt Nam. Từ khóa: Pháp ngữ, chính sách đối ngoại, động cơ, đóng góp, Tổ chức quốc tế. Chữ viết tắt sử dụng trong bài:ACCT: Agence de coopération culturelle et technique (Hiệp hội hợp tác văn hóa và kĩ thuật); OIF: Organisation internationale de la Francophonie (Tổ chức quốc tế Pháp ngữ); TCQTPN: Tổ chức quốc tế Pháp ngữ; UACE: Union africaine de coopération économique (Liên minh châu Phi về hợp tác kinh tế); UAM: Union Africaine et Malgache (Liên minh châu Phi và Malgache); VNCH: Việt Nam Cộng hòa; CHXHCNVN: Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. 1. Mở đầu Tổ chức Quốc tế Pháp ngữ (TCQTPN) tên tiếng Pháp là Organisation internationale de la Francophonie, là một trong những tổ chức lâu đời nhất mà Việt Nam làm thành viên kể từ khi tổ chức này được thành lập song có lẽ cho đến giờ vẫn ít ai biết được sự ra đời của tổ chức này cũng như quá trình tham gia của Việt Nam từ những ngày đầu đã diễn ra như thế nào. Cụ thể là có hai giai đoạn, giai đoạn đầu Chính quyền Sài Gòn là một trong các thành viên sáng lập TCQTPN vào năm 1970, giai đoạn sau bắt đầu từ sự kiện tiếp quản mối quan hệ này của CHXHCNVN vào cuối năm 1978 đầu 1979. Các nghiên cứu về TCQTPN cũng như về sự hình thành và quá trình phát triển của TCQTPN ở Việt Nam rất ít, chủ yếu là các bài viết mang tính thông tin, muốn tiếp cận đa phần phải sử dụng tiếng Pháp để tìm hiểu, và như vậy chỉ có người biết tiếng Pháp mới có thể tiếp cận được nguồn thông tin này. Chúng ta có thể xem xét một vài nghiên cứu của các tác giả trong nước như: luận án đã được xuất bản sách mang tựa đề Pháp ngữ tại Việt Nam từ thời kì thuộc địa Ngày nhận bài: 15/12/2017. Ngày sửa bài: 20/12/2017. Ngày nhận đăng: 20/1/2018. Liên hệ: Nguyễn Thảo Hương, e-mail: thaohuong@hnue.edu.vn. 81 Nguyễn Thảo Hương đến thời kì toàn cầu hóa: thách thức giữ gìn một bản sắc của tác giả Trang Phan Labays chủ yếu khai thác ở khía cạnh ngôn ngữ, sự phát triển của tiếng Pháp và những ảnh hưởng của tiếng Pháp, văn hóa Pháp đối với ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam cũng những vấn đề đặt ra cho việc gìn giữ một bản sắc Pháp ngữ khi Việt Nam bước chân vào kỉ nguyên toàn cầu hóa. Nghiên cứu TCQTPN và hợp tác Việt Nam-Châu Phi của tác giả Đặng Hồng Khanh tập trung vào khai thác vai trò và những đóng góp của TCQTPN đối với quan hệ kinh tế, thương mại, văn hóa giữa Việt Nam với các nước nói tiếng Pháp ở châu Phi trong giai đoạn hiện tại. Nghiên cứu của Nguyễn Anh Thư với tựa đề Ngoại giao văn hóa của Việt Nam: một chiến lược đẩy mạnh tiến trình hội nhập toàn cầu lại khai thác vai trò của TCQTPN như một tác nhân có những đóng góp mạnh mẽ trong ngoại giao văn hóa. Hay như tác giả Nguyễn Khánh Toàn với nghiên cứu TCQTPN – một chủ thể quan hệ quốc tế thì tập trung khai thác vai trò của TCQTPN như một tổ chức liên chính phủ lớn trên chính trường quốc tế nói chung với lượng thành viên chiếm 1/3 số lượng của Liên Hiệp quốc. Các tác giả nước ngoài cũng không nhiều, có thể kể đến như Valérie DANIEL với nghiên cứu thuộc ngành xã hội học có tên gọi hết sức ngắn gọn Pháp ngữ tại Việt Nam xuất bản năm 2001 trong đó khai thác sự có mặt của “pháp ngữ” nói chung trên khắp Việt Nam trong suốt giai đoạn từ 1986 đến năm 2000. Hay như tác giả Trung Quốc Jing Geng với nghiên cứu Pháp ngữ - một công cụ trong chính sách đối ngoại của Pháp: trường hợp 3 nước Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia) đã nói đến tác động của nước Pháp đối với sự hình thành và phát triển của TCQTPN cùng những can thiệp chính trị thông qua tổ chức này đối với 3 nước thuộc địa cũ Việt Nam, Lào, Campuchia. Ngoài ra, chủ thể TCQTPN còn xuất hiện trong nhiều nghiên cứu ở các tạp chí thuộc các ngành Lịch sử, Chính trị, Quan hệ Quốc tế và cả xã hội học. Tuy vậy, trong mối quan hệ giữa TCQTPN với Việt Nam nói riêng, khoảng thời gian từ khi gia nhập vào năm 1970 cho đến năm 1979 hầu như bị bỏ quên, chưa từng được khai thác ở bất kì tài liệu nào cả trong nước lẫn quốc tế. Đây thực sự là một thiếu hụt lớn bởi chính trong bối cảnh chuyển giao giữa hai nền chính trị, thì việc gia nhập một tổ chức quốc tế và việc tiếp quản vai trò thành viên chắc chắn có những vấn đề mà qua đó sẽ giúp chúng ta đánh giá được ý nghĩa của việc gia nhập tổ chức Pháp ngữ cũng như vai trò của TCQTPN đối với chính trị, xã hội của Việt Nam trong những giai đoạn nhất định. Đó chính là lí do tác giả lựa chọn đề tài này để nghiên cứu với mục đích góp phần làm rõ thêm vai trò của TCQTPN trong các vấn đề chính trị, ngoại giao, những đóng góp trong văn hóa giáo dục, đặc biệt qua đó làm rõ động cơ thúc đẩy việc tham gia làm thành viên chính thức của Việt Nam thời kì trước và sau ngày thống nhất đất nước. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Quá trình ra đời và phát triển của TCQTPN Sự ra đời của TCQTPN được đánh dấu bằng sự kiện nhóm họp các đại diện quốc gia năm 1970 trong Hội nghị Niamey và lễ kí kết bản tuyên bố thành lập Hiệp hội hợp tác văn hóa và kĩ thuật ACCT, song trên thực tế, các phong trào thành lập các tổ chức, các câu lạc bộ xuyên quốc gia có liên quan đến tiếng Pháp đã nhen nhóm từ trước đó rất lâu, mang đậm dấu ấn của sự kết hợp hài hòa giữa hợp tác văn hóa, giáo dục với đường hướng chính trị, ngoại giao của các quốc gia thành viên. Về mặt chính trị, chúng ta không thể không nói đến vai trò của Pháp trong các phong trào thành lập các tổ chức có liên quan đến tiếng Pháp cũng như có xu hướng thân Pháp. Như chúng ta đã biết, với chính sách Phi thực dân hóa của Pháp đối với các nước thuộc địa châu Phi và Đông Dương, năm 1960 đã đi vào lịch sử thế giới và được coi là “Năm châu Phi” với việc 17 nước châu Phi tuyên bố độc lập, khẳng định chủ quyền, hoàn toàn tách khỏi nước Pháp “chính quốc”. Ngày 82 Vai trò của Tổ chức quốc tế Pháp ngữ tại Việt Nam trước và sau 1975: quá trình hình thành... 26/5/1959, Hội đồng liên hiệp (Conseil de l’Entente) do tổng thống Houphouet-Boigny (Bờ biển Ngà) đứng đầu được thành lập nhằm mục đích tăng cường hợp tác kinh tế giữa các nước Tây Phi, bao gồm Bờ biển Ngà, Thượng Volta (nay là Burkina-Faso), Dahomey (nay là Bênanh) và Niger. Tháng 12/1960, tất cả các nước nói tiếng Pháp ở châu Phi ngoại trừ Togo, Mali và Gui-nê đã thành lập “nhóm Brazzaville” tập hợp các nước có xu hướng ôn hòa, tán thành hợp tác với nước Pháp. Sau những cố gắng ngoại giao cùng với những sức ép về kinh tế, quân sự đã dẫn tới kết quả là 12 nước thuộc địa cũ của Pháp đã tập hợp thành Liên minh châu Phi và Malgache (Union Africaine et Malgache) gọi tắt là UAM. Liên minh này trên danh nghĩa là những nước mới độc lập của châu Phi nhưng trên thực tế chịu sự kiểm soát của Pháp. Tuy nhiên trái với dự kiến của Pháp, liên minh UAM không thoả thuận được với nhau trong việc kí kết hiệp nghị quân sự để bảo vệ các chế độ đang nắm chính quyền ở các nước này. Do đó, tháng 3/1964, Liên minh này được thay thế bằng liên minh châu Phi và Malgache về hợp tác kinh tế UACE (Union Africaine de Coopération Economique). Năm 1965, Pháp lại lập ra tổ chức OCAM dựa trên UACE với 14 thành viên trong đó đại đa số là thuộc địa cũ của Pháp. Đặc biệt, Pháp ra sức ủng hộ những người có xu hướng thân Pháp lên nắm chính quyền, thậm chí dùng cả sức mạnh quân sự để thực hiện những cuộc đảo chính ở các nước châu Phi nhằm đưa những người thân Pháp lên nắm chính quyền. Điển hình là, Pháp đã thay thế Jean Bedel Bokassa tại Trung Phi, tại Tchad thay Franc¸ois Tour Balbaye, tại Niger thay Diori Hamani. Như vậy, có thể thấy việc thành lập nhiều tổ chức các nước nói tiếng Pháp và các tổ chức của các nước thuộc địa cũ của Pháp tại châu Phi hầu hết có liên quan đến việc duy trì ảnh hưởng của chính phủ Pháp trên phương diện chính trị, cho dù là từ phía Pháp hay từ phía các nước thuộc địa cũ, nhằm mục đích duy trì sự hỗ trợ của Pháp về mặt kinh tế tại các nước này. Về mặt văn hóa giáo dục và xã hội, phong trào thành lập các tổ chức có liên quan đến tiếng Pháp được khởi nguồn từ rất lâu trước đó với việc các nhà văn Pháp ngữ cùng thành lập Hiệp hội các nhà văn sử dụng tiếng Pháp (Association des écrivains de langue francaise - Adelf) năm 1926 nhằm phục vụ nhu cầu trao đổi học thuật, tác phẩm và ý tưởng với những người có chung niềm đam mê với ngôn ngữ và văn hóa Pháp. Không lâu sau, phong trào này được tiếp nối bởi các nhà báo Pháp ngữ với việc thành lập Liên hiệp quốc tế các nhà báo và báo chí tiếng Pháp năm 1950 (sau này là Hiệp hội báo chí Pháp ngữ) và Tổ chức các đài phát thanh công cộng Pháp ngữ năm 1955 cùng với sự tham gia của Đài phát thanh Pháp, Đài phát thanh Thụy Sĩ, Đài phát thanh Canada và Đài phát thanh Pháp ngữ Bỉ. Tổ chức này cho đến nay vẫn phát triển mạnh mẽ với các chương trình được phát đi đồng thời trên các sóng phát thanh khắp thế giới góp phần củng cố các phong trào Pháp ngữ khắp năm châu. Cũng trong năm 1960, tổ chức liên chính phủ Pháp ngữ đầu tiên ra đời mang tên Hội nghị các Bộ trưởng Giáo dục với sự tham gia đầu tiên của các Bộ trưởng đến từ 15 nước và một năm sau đó, năm 1961, tổ chức Đại học Pháp ngữ được thành lập với tên gọi ban đầu là Tổ chức các trường đại học có sử dụng một phần hoặc toàn phần tiếng Pháp (Aupelf), có trụ sở tại Mongrean, Canada. Đặc biệt, năm 1962, tổng thống Léopold Sédar Senghor của Xê-nê-gan công bố trên tạp chí Esprit một bài viết có tựa đề “Tiếng Pháp, ngôn ngữ của văn hóa” được xem như văn bản đầu tiên đề cập đến ý tưởng thành lập Tổ chức các nước có sử dụng tiếng Pháp. Trong bài viết này, Léopold Sedar Sengor đã đề cập đến hai thuật ngữ “Francophonie” và “Négritude”. Mặc dù thuật ngữ “Francophonie” được sử dụng lần đầu tiên bởi nhà Địa lí học Onésime Reclus trong cuốn sách “Pháp, An-giê-ri và các thuộc địa” xuất bản năm 1880 dùng để chỉ những nhóm người và những quốc gia sử dụng tiếng Pháp trên khắp thế giới, nhưng thuật ngữ này hầu như được rất ít người biết đến cho đến khi nó xuất hiện trong bài viết của Lepold Sedar Sengor. "Négritude" là một phong trào tri thức nhằm tìm kiếm bản sắc chung để "nhận diện" Tổ chức nói tiếng Pháp ở châu Phi, chống lại chủ nghĩa thực dân Pháp và các nước châu Âu về chính trị lẫn văn hóa. Theo Leopold Sedar Sengor, "Négritude" là một sự nhận diện về một "người da đen" không câu nệ đến 83 Nguyễn Thảo Hương văn hóa, ngôn ngữ hoặc địa lí. Trên phương diện này, "Négritude" vượt qua ngăn cách lớn lao ở giữa (và cả bên trong) những người Ảrập, những người châu Phi, Tổ chức người châu Phi theo đạo Do Thái. Tất cả họ đều được gắn kết bởi một mối liên hệ chủng tộc chung. "Négritude" là tiếng nói mạnh mẽ của "sức mạnh da đen" trên khắp thế giới. Ở phương diện nào đấy, nó được hiểu là tinh thần chung của châu Phi. Văn bản này được coi là một trong những văn bản đầu tiên thể hiện tinh thần và ý tưởng hình thành một Tổ chức dành cho những người nói tiếng Pháp trên khắp thế giới, trong đó sự tham gia của người châu Phi nói tiếng Pháp với những đặc trưng văn hóa riêng biệt đóng một vai trò quan trọng. Tiếp theo đó, năm 1967 đánh dấu bước ngoặt lớn trong phong trào Pháp ngữ ở cấp chính phủ với sự tham gia của các nghị sĩ qua việc thành lập Nghị viện Pháp ngữ (APF). Ngày 18/05/1967, Hiệp hội quốc tế các nghị sĩ các nước nói tiếng Pháp (AIPLF) được thành lập tại Lucxămbua. Tổ chức ngôn ngữ này tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ trao đổi và hợp tác nhiều mặt giữa Pháp với các nước có sử dụng tiếng Pháp. Năm 1969 Hội nghị các Bộ trưởng Thanh niên và Thể thao (Confejes) được thành lập và cũng là Hội nghị thứ 2 giữa các Bộ trưởng Pháp ngữ. Như vậy, đây là một hiện tượng những con người đến từ các quốc tịch khác nhau, văn hóa khác nhau, ngôn ngữ mẹ đẻ khác nhau, có chung niềm đam mê với ngôn ngữ và văn hóa Pháp, đã hình thành nên những Tổ chức nhỏ xuyên quốc gia dùng tiếng Pháp làm phương tiện chia sẻ, tìm hiểu lẫn nhau. Có thể nói, phong trào thành lập các tổ chức có liên quan đến tiếng Pháp đã phát triển mạnh mẽ trên toàn thế giới mà không chịu sự chi phối của các vấn đề chính trị, ngoại giao hay kinh tế. Hai hiện tượng trên, cả sự ủng hộ của Pháp lẫn sự ngưỡng vọng của giới Pháp ngữ trên thế giới nói chung, đã tạo nên một điều kiện hết sức thuận lợi cho việc thành lập một tổ chức gắn kết cả hai xu hướng trên. Và như một điều tất yếu, một hội nghị đặc biệt được tổ chức tại Niamey (Ni-giê-ri-a) từ ngày 17 đến ngày 20 tháng 2/1969 triệu tập đại diện cấp cao của các nước có sử dụng tiếng Pháp (gọi tắt là Hội nghị Niamey 1) với mong muốn xây dựng một Tổ chức để chia sẻ, tương trợ lẫn nhau trong các vấn đề khoa học kĩ thuật và văn hóa, giáo dục. Hội nghị này do một nhóm các tổng thống gồm Leopold Sedar Sengor (tổng thống Xê-nê-gan), Hamani Diori (tổng thống Niger), Habib Bourguiba (tổng thống Tuy-ni-di) – là những tổng thống theo chiều hướng “thân Pháp” và được Pháp ủng hộ - và sau đó là cả hoàng thân Norodom Sihanouk (Campuchia) đứng ra triệu tập và là hội nghị đặt nền móng cho sự ra đời của tổ chức TCQTPN hiện nay. Một năm sau đó, vào ngày 20/3/1970, cũng tại Niamey, cùng với sự hỗ trợ về mặt tài chính và ủng hộ về mặt chính trị của Pháp, Hội nghị các nước có sử dụng tiếng pháp lần thứ 2 được triệu tập và đánh dấu sự ra đời của Hiệp hội hợp tác văn hóa và kĩ thuật (ACCT – Agence de Cooperation culturelle et technique), tiền thân của TCQTPN ngày nay. Từ đây, phong trào Pháp ngữ đã bước sang một trang mới, không chỉ là những trào lưu đơn lẻ ở một số lĩnh vực cụ thể, phòng trào Pháp ngữ đã lan rộng ra nhiều lĩnh vực khác nhau đồng thời có sự tham gia ở cấp chính phủ với sự kiện gặp gỡ của đại diện các quốc gia và vùng lãnh thổ thành viên 2 năm một lần. Đây là một tiền đề quan trọng để việc hợp tác giữa các nước nói tiếng Pháp được đẩy mạnh cả ở tầm vi mô lẫn vĩ mô. Năm 1978, tổ chức ACCT trở thành quan sát viên tại Liên hiệp quốc, cho thấy vị trí quốc tế cũng như nhiệm vụ chính trị liên quốc gia của ACCT đã được khẳng định. Từ năm 1986, Hội nghị thượng đỉnh (Sommet) đầu tiên được tổ chức tại Versailles (Paris, Pháp), đã triệu tập tất cả các lãnh đạo cấp cao của các quốc gia và vùng lãnh thổ thành viên và cứ 2 năm một lần Hội nghị lại được tổ chức ở một nước thành viên. Cho tới năm 1997, tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 7 tổ chức tại Hà Nội (Việt Nam), tổ chức đã quyết định lấy tên gọi “Tổ chức quốc tế Pháp ngữ - Organisation internationale de la Francophonie (OIF) làm tên gọi quốc tế chính thức của mình, và Boutros Boutros Ghali – nguyên thứ trưởng Bộ ngoại giao Ai Cập, người vừa hết nhiệm kì tổng thư kí thứ 6 của Liên hợp Quốc (1992-1996) đã 84 Vai trò của Tổ chức quốc tế Pháp ngữ tại Việt Nam trước và sau 1975: quá trình hình thành... được bầu làm tổng thư kí đầu tiên của OIF. Tiếp bước tiền thân của mình, một năm sau đó, Tổ chức quốc tế Pháp ngữ cũng trở thành quan sát viên tại Liên hợp quốc. Không chỉ dừng ở việc bảo vệ và phát triển tiếng Pháp như là một di sản quốc tế, tổ chức quốc tế Pháp ngữ đã mang trong mình nhiều trọng trách lớn lao và có mong muốn được cùng góp tiếng nói của mình với các tổ chức thế giới khác để cùng giải quyết với những vấn đề toàn cầu như: biến đổi khí hậu, bảo vệ và tôn trọng sự đa dạng văn hóa, đa dạng ngôn ngữ và tôn trọng sự khác biệt, phát triển bền vững, chống đói nghèo lạc hậu, bảo vệ quyền con người, quyền phụ nữ và trẻ em, dự báo xung đột và gìn giữ hòa bình thế giới. . . Năm 2005, Tổ chức quốc tế Pháp ngữ đã cùng kí kết với UNESCOmột bản “Hiệp ước về bảo vệ và phát triển sự đa dạng của các nền văn hóa”, cũng trong năm này, tổ chức đã sửa đổi và cho ra bản “Hiến chương Pháp ngữ” (Charte de la Francophonie) với tôn chỉ sử dụng tiếng Pháp như một công cụ truyền đạt và lấy giáo dục làm phương thức hành động chính của mình. Ngày nay, Tổ chức Quốc tế Pháp ngữ là sân chơi chung của 84 quốc gia và vùng lãnh thổ, tức là chỉ đứng sau Liên hiệp quốc về số lượng thành viên. Trên đây là sơ lược quá trình ra đời và phát triển của TCQTPN với tên gọi “Tổ chức Quốc tế Pháp ngữ” từ khi ra đời cho tới ngày nay. Trong phần tiếp theo chúng tôi sẽ nêu lên quá trình tham gia của Việt Nam trước và sau ngày thống nhất đất nước cũng như nêu lên động cơ, mục đích của Việt Nam khi tham gia vào Tổ chức nafy. 2.2. Quan hệ giữa Việt Nam với TCQTPN trước và sau năm 1975 Việt Nam có tên trong danh sách thành viên của ACCT từ ngày đầu thành lập vào năm 1970, tuy nhiên từ 1954 Việt Nam bị chia cắt tại vĩ tuyến 17: miền Bắc do Đảng Cộng sản Việt Nam nắm chính quyền với sự lãnh đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh, miền Nam do Ngô Đình Diệm nằm quyền (1955-1963) sau đó là Nguyễn Văn Thiệu (1967-1975). Theo lịch sử ghi lại, việc hợp tác với TCQTPN do chính quyền Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam triển khai trước, Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chỉ bắt đầu tiếp cận với tổ chức này sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất. Chúng tôi sẽ làm rõ các biến cố trong quá trình tham gia của Việt Nam trong phần này. 2.2.1. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đặt quan hệ bước đầu Ngày 22/1/1969, Nguyễn Văn Thiệu khi đó là tổng thống của VNCH – chính quyền Sài gòn cũ – nhận được một bức thư gửi từ Niger của tổng thống Diori Hamani trong đó tổng thống Diori Hamani nêu rõ động lực của việc tổ chức Hội nghị này là nhằm nghiên cứu về dự định thành lập một Phân cục hợp tác văn hóa và kĩ thuật nhằm mục đích tăng cường hỗ trợ về văn hóa giữa các nước có sử dụng một phần hay hoàn toàn tiếng Pháp. Theo một số tư liệu ghi chép lại cũng như theo viện dẫn trong các tài liệu được tìm thấy tại Cục lưu trữ Nhà nước số 2, một bức thư tương tự cũng đã được gửi cho chính phủ của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ở miền Bắc. VNCH đã cử người tham dự Hội nghị lần 1 này. Năm 1970, VNCH tiếp tục nhận được thư mời tham dự Hội nghị Niamey lần 2. Ngay khi nhận được thư, ông Trần Văn Lắm khi đó là Ngoại trưởng của chính quyền Sài Gòn đã có bản báo cáo gửi cho Nguyễn Văn Thiệu trong đó đã phân tích và đưa ra một số lí do khẳng định chính phủ VNCH nên tham dự Hội nghị lần 2 như việc tham gia vào Hội nghị Niamey hoàn toàn phù hợp với đường lối ngoại giao “hiện diện” của chính quyền Sài Gòn, gây tình thân hữu với các Quốc gia có một di sản văn hóa chung với Việt Nam là Pháp ngữ, đóng góp vào việc cải thiện bang giao Việt – Pháp, sự tham dự Hội nghị của Việt Nam cộng hòa có thể được coi như một cử chỉ thiện chí đối với Pháp, là nước chủ xướng và giật dây hội nghị. Hội nghị Niamey lần 2 đã được tổ chức từ ngày 16 đến 20 tháng 3 năm 1970 với sự tham gia của 23 quốc gia và vùng lãnh thổ trong đó châu Á vẫn có 3 đại diện đến từ chính phủ VNCH, Lào và Campuchia. Tuy nhiên, chỉ có đại diện của VNCH khi đó là Ngoại trưởng Trần Văn Lắm đã cùng với đại diện của 85 Nguyễn Thảo Hương 21 quốc gia và vùng lãnh thổ khác kí vào biên bản Thỏa ước thành lập (Convention de fondation) vào ngày 20/3/1970. Sau khi trở thành thành viên chính thức, chính quyền Sài Gòn đã tham gia rất tích cực vào các hoạt động của tổ chức ACCT như tham dự hội nghị Ottawa-Québec năm 1971 (Bộ trưởng Bộ Giáo dục Ngô Khắc Tỉnh dẫn đoàn), cuộc họp lần thứ 3 của Hội đồng quản trị tại Paris vào tháng 6/1972. Bên cạnh đó chính khách của VNCH cũng giữ nhiều vị trí quan trọng trong khối ACCT như: Thứ trưởng Trần Lưu Cung giữ một trong năm ghế phó chủ tịch hội nghị tại Niamey năm 1970, Tổng trưởng giáo dục Ngô Khắc Tỉnh đắc cử phó chủ tịch đại hội ACCT ở Canada , giáo sư Nguyễn Quốc Định vừa là hội viên Ủy ban chương trình trong Hội đồng khoa học của ACCT vừa là chủ tịch Ủy ban Thỉnh cầu (Comission de recours) của Hội đồng chấp hành từ 1972. . . Từ 1973 trở đi, tình hình chính trị của VNCH gặp nhiều khó khăn do đó mối liên hệ này gần như bị quên lãng. Sau năm 1975, mối quan hệ giữa Việt Nam với ACCT gần như chấm dứt. Nước ta khi đó vô cùng khó khăn về mọi mặt nên việc tiếp quản vai trò thành viên của ACCT bị gác lại, phải đến cuối năm 1978 mới có một vài dấu hiệu của sự phục hồi. Chúng tôi xin được nói đến quan hệ trong giai đoạn này ở phần tiếp theo. 2.2.2. Sự tiếp quản của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Sau 1975, Việt Nam bắt đầu chống chọi với chính sách cấm vận, cô lập của Mỹ và các nước đồng minh, hầu như quan hệ ngoại giao của chúng ta chỉ tiến hành với các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa, quan hệ với các tổ chức quốc tế của chúng ta cũng còn rất hạn chế. Từ 1975 đến 1979, trong các cuộc sự kiện lớn của ACCT hoàn toàn không có sự xuất hiện của Việt Nam. Cho đến những năm 1978-1979, tình thế cô lập của Việt Nam càng trở nên gay gắt khi những cuộc xung đột biên giới với Campuchia ở phía Nam, xung đột với Trung Quốc ở phía Bắc liên tiếp nổ ra. Chúng ta lại không nhận được sự ủng hộ của Tổ chức quốc tế, trong đó có cả Pháp vốn là một trong số ít ỏi các nước tư bản vẫn duy trì quan hệ đối ngoại với Việt Nam. Trước bối cảnh đó, việc gia nhập tổ chức Pháp ngữ có một ý nghĩa hết sức lớn lao và cần thiết. Năm 1979, trước thiện chí của ACCT mà đại diện là ông Dankoulodo Dan Dicko – Giám đốc đương nhiệm, sự hưởng ứng của thủ tướng Phạm Văn Đồng và Bộ trưởng Bộ ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, Việt Nam đã chính thức nối lại quan hệ với tổ chức Pháp ngữ thông quan bản Tuyên bố về hợp tác của Việt Nam với ACCT tại Đại hội lần thứ 6 của ACCT tổ chức tại Lomé (Togo) vào tháng 12 năm 1979. Có thể nói ngay từ khi nối lại quan hệ, ACCT đã có rất nhiều hoạt động hỗ trợ Việt Nam trong nhiều lĩnh vực. Cụ thể, trong giáo dục đào tạo, ACCT đã hỗ trợ cho gần 100 lượt cán bộ đi thực tập các khóa đào tạo ngắn hạn ở nước ngoài; hỗ trợ việc xuất bản sách với số lượng lên tới hàng ngàn cuốn với nhiều đầu sách khác nhau, hỗ trợ chi phí cho rất nhiều cán bộ Việt Nam đi dự các hội nghị hội thảo khoa học quốc tế ở nhiều nước như Pháp, Mali, Senegal ở các lĩnh vực như nông nghiệp, thực phẩm, năng lượng, sinh học, hỗ trợ thực hiện dự án “nghiên cứu các quy trình trồng lại rừng trên đất khô cằn” cộng tác với Bộ Lâm nghiệp, hợp tác nghiên cứu trong lĩnh vực sinh học, y tế, và công nghiệp thực phẩm; Trong hợp tác về văn hóa, ACCT đã hỗ trợ phát hành sách, đĩa về các loại hình văn hóa dân tộc như âm nhạc cổ truyền, múa rối nước, nghề thủ công. . . với số lượng hàng ngàn ấn phẩm; trao đổi chuyên gia trong khối Pháp ngữ trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, kiến trúc để thực hiện các chương trình nghiên cứu, đặc biệt trong đó có việc hỗ trợ việc tổ chức hội thảo cấp quốc gia về các thể loại sân khấu truyền thống. . . Ngược lại phía Việt Nam cũng gửi cán bộ VN sang một số nước thuộc khối Pháp ngữ như Mali, Sê-nê-gan, Tuy-ni-di, Công-gô hay Ca-mơ-run. . . để làm chuyên gia trong một số lĩnh vực. Năm 1997 đã diễn ra một sự kiện lớn đánh dấu bước ngoặt trong quan hệ của Việt Nam với TCQTPN, đó là việc Việt Nam được chọn là nước chủ nhà tổ chức Hội nghị thượng đỉnh Pháp ngữ 86 Vai trò của Tổ chức quốc tế Pháp ngữ tại Việt Nam trước và sau 1975: quá trình hình thành... lần thứ 7 tại Hà Nội. Đây cũng là lần đầu tiên Việt Nam đứng ra tổ chức một hội nghị tầm cỡ quốc tế với sự tham gia góp mặt của 50 đoàn đại biểu đến từ các nước thành viên và quan sát viên, trong đó có 20 Tổng thống, 16 Thủ tướng, 1 Thái tử, 3 Phó Thủ tướng, 1 Phó Chủ tịch quốc hội và 48 Bộ trưởng. Ngoài ra, các đại diện của Tổng thư kí LHQ, Phong trào Không liên kết, EU, UNESCO cũng đến tham dự Hội nghị với tư cách khách mời. Chủ đề chính của Hội nghị là: "Hội nghị cấp cao Hà Nội: tăng cường hợp tác và đoàn kết trong Tổ chức các nước có sử dụng tiếng Pháp vì hoà bình và phát triển kinh tế - xã hội", gắn với chủ đề phụ: "Phát huy nguồn nhân lực: động lực và đối tượng của sự phát triển". Hội nghị đã thông qua Tuyên bố Hà Nội, Kế hoạch hành động Hà Nội và Hiến chương Pháp ngữ sửa đổi, bầu ra Tổng Thư kí đầu tiên của Tổ chức là ông Butrốt Butrốt Gali - cựu Tổng Thư kí Liên Hợp Quốc, và Tổng Giám đốc Cơ quan liên Chính phủ Pháp ngữ. Qua đó, Hội nghị thượng đỉnh Hà Nội đã làm nổi bật mối quan tâm rộng rãi của TCQTPN đối với mục tiêu hoà bình, ổn định và ngoại giao phòng ngừa do tình hình xung đột, đối với việc bảo vệ sự đa dạng và bản sắc văn hoá, khẳng định một cách sinh động và nổi bật sự có mặt của TCQTPN tại châu Á, thúc đẩy Tổ chức dành nhiều ưu tiên hơn cho hợp tác kinh tế, trên cơ sở đó đảm bảo sự cân bằng giữa 3 lĩnh vực hoạt động của Tổ chức là chính trị, văn hoá và kinh tế. Hội nghị thượng đỉnh Hà Nội không chỉ để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử ngoại giao hiện đại của Việt Nam mà còn là dấu mốc rất quan trọng của lịch sử TCQTPN cho đến giờ vẫn luôn được nhắc đến trong tiến trình hình thành và phát triển của tổ chức này. 2.3. Nhận xét Cả Việt Nam Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đều mong muốn tham gia vào TCQTPN, tuy nhiên, động cơ và mục đích tham gia có những điểm tương đồng và cũng nhiều điều khác biệt, có thể so sánh trong một vài nhận xét sau đây. Thứ nhất, nếu như trong thời chính quyền Việt Nam Cộng hòa, việc tham gia vào ACCT chính là cơ hội để nối lại quan hệ với Pháp vốn bị mai một dưới chính sách “bài phong, đả thực, diệt cộng” của Ngô Đình Diệm, thì với CHXHCNVN, đó là cơ hội để khẳng định mối quan hệ tốt đẹp với Pháp đồng thời đẩy mạnh quan hệ với một số nước phát triển nói tiếng Pháp như Bỉ, Canada, Thụy Sĩ. Thứ hai, nếu như ACCT có thể được coi như một “phương tiện” để Nguyễn Văn Thiệu thực hiện chính sách “hiện diện” trên trường quốc tế, nhằm khẳng định sự tồn tại và hi vọng có được “sự công nhận” từ phía Tổ chức quốc tế, thì với CHXHCNVN, ACCT đã trở thành một diễn đàn quốc tế mà ở đó Việt Nam có thể đưa tiếng nói của mình ra thế giới, có thể bày tỏ quan điểm, thái độ của mình trước Tổ chức quốc tế, đồng thời nâng cao uy tín và năng lực của mình thể hiện qua việc đăng cai tổ chức những sự kiện lớn của ACCT như Hội nghị thưởng đỉnh năm 1997. Thứ ba, ACCT tạo ra cơ hội để cả VNCH và CHXHCNVN có thể tiếp cận và đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các nước châu Phi, tuy nhiên, vị thế của 2 chính thể này hoàn toàn khác nhau. Với chính quyền Sài Gòn, ACCT đã trở thành một diễn đàn giúp cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa thể hiện thiện chí với các nước châu Phi mới thành lập, xóa bỏ khoảng cách trước đó. Thiệu đã đưa ra cả một “chính sách Phi châu” để mong phát huy được mối quan hệ với châu lục này thông qua ACCT nhưng các nước châu Phi có xu hướng hoặc có thiện cảm và ủng hộ chính phủ của chủ tịch Hồ Chí Minh và muốn công nhận Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, hoặc giữ thế trung lập. Trong khi đó, quan hệ giữa CHXHCNVN với các nước châu Phi hoàn toàn tốt đẹp, các nước châu Phi rất ủng hộ Việt Nam trong cuộc chiến chính nghĩa, nhưng các nước này lại không có đủ điều kiện cần thiết để có thể thực hiện được những kế hoạch hợp tác cùng nhau. ACCT chính là một sân chơi chung qua đó rất nhiều dự án hợp tác giữa các nước thành viên được triển khai và đó chính là một trong những động lực lớn thúc đẩy việc tham gia ngày càng sâu sắc vào ACCT của 87 Nguyễn Thảo Hương Việt Nam sau khi thống nhất đất nước. 3. Kết luận Guillaume Devin, nhà chính trị học nổi tiếng của Pháp đã nói “nhiệm vụ tối thượng của một tổ chức quốc tế là phục vụ các quốc gia, vì thế tùy vào lợi ích quốc gia của mình mà các thành viên trong tổ chức đó có cách sử dụng mối quan hệ với tổ chức và với các thành viên trong nó”, mối quan hệ này ta có thể hiểu là quan hệ song phương giữa thành viên với tổ chức hoặc giữa thành viên với 1 thành viên khác, nhưng cũng có thể hiểu là mối quan hệ đa phương giữa các thành viên trong tổ chức với nhau. Có thể nói TCQTPN có sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính trị và yếu tố văn hóa. Trong những giai đoạn cụ thể, TCQTPN đã ít nhiều có những đóng góp không chỉ vào việc phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học kĩ thuật và kinh tế của Việt Nam, mà còn góp phần không nhỏ đem lại hiệu quả cho những chiến lược ngoại giao của Việt Nam trên trường quốc tế. Phát triển song song với các dấu mốc lịch sử, phong trào Pháp ngữ đã được xây dựng và lan rộng trong rất nhiều lĩnh vực: văn học, giáo dục, báo chí, truyền thông, chính trị, văn hóa. . . với sự tham gia của các đại diện đến từ mọi thành phần. Sự phát triển rộng khắp này cho thấy nhu cầu trao đổi, chia sẻ và tương trợ nhau trong giới Pháp ngữ là rất lớn. Tiếng Pháp đã trở thành một thứ công cụ hữu hiệu kéo gần những dân tộc ở rất xa nhau, giúp những con người sinh ra từ các nền văn hóa khác biệt có thể hiểu được nhau một cách dễ dàng. Và đó chính là giá trị nhân văn cao nhất mà TCQTPN mong muốn gìn giữ, cũng là kim chỉ nam cho các phương hướng hành động và sự tồn tại của TCQTPN cho tới sau này. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Dang Hong Khanh, 2016. Pháp ngữ và quan hệ Việt Nam Châu Phi (La Francophonie et la coopération Vietnam – Affrique). Université Jean moulin Lyon III, 446 trang. [2] Dương Văn Quảng, 2014. Pháp ngữ - Một tổ chức quốc tế đặc thù. Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 4 (99) tháng 12/2014, tr. 119-133. [3] Guillaume DEVIN, Marie-Claude SMOUTS, 2011. Các tổ chức quốc tế (Les organisations internationales). Armand Colin, 253 trang. [4] Jing Geng, 2001. Pháp ngữ - một công cụ chính sách đối ngoại Pháp : trường hợp 3 nước Đông Dương Việt Nam, Lào, Campuchia (La Francophonie comme instrument de la politique extérieure de la France : le cas des pays indochinois (le Vietnam, le Laos, le Cambodge). Université Panthéon Sorbonne, Paris. [5] Michel Guillou, Trang Phan, 2011. Pháp ngữ và toàn cầu hóa : lịch sử và thể chế từ nguồn gốc đến hiện đại (La Francophonie et la mondialisation : histoire et institutions des origines à nos jours). Belin, 471 trang. [6] Nguyen Anh Thu, 2016. Ngoại giao văn hóa của Việt Nam : một chính sách đẩy mạnh hội nhập quốc tế (La diplomatie culturelle du Vietnam : un instrument au service de l’intégration internationale). Université Jean moulin Lyon III, 528 trang. [7] Nguyen Khanh Toan, 2012. Pháp ngữ như một tác nhân quan hệ quốc tế (La Francophonie comme acteur des relations internationales). Lyon, 452 trang. [8] Tài liệu các phông Phủ thủ tướng-Việt Nam Cộng Hòa, Đệ nhất Cộng hòa, Đệ nhị Cộng hòa tại Cục lưu trữ số 2. [9] Tài liệu các phông Phủ thủ tướng-Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Phông Chủ tịch nước tại Cục lưu trữ số 3. [10] Trần Nam Tiến, 2015. Hoạt động ngoại giao của chế độ “Việt Nam cộng hòa” thời kì Ngô Đình Diệm (1955-1963). Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 18, số X4-2015. 88 Vai trò của Tổ chức quốc tế Pháp ngữ tại Việt Nam trước và sau 1975: quá trình hình thành... [11] Trang Phan Labays, 2005. Pháp ngữ tại Việt Nam từ thời kì thuộc địa đến thời kì toàn cầu hóa : thách thức giữ gìn một bản sắc (La francophonie au Vietnam, du fait colonial à la mondialisation: un enjeu identitaire). Université Jean moulin Lyon III, 358 trang. [12] Valérie Daniel, 1992. Pháp ngữ tại Việt Nam (La francophonie au Vietnam). l’Harmantan, 141 trang. ABSTRACT The role of the international organization of Francophonie in Vietnam before and after 1975: evolution and contribution Nguyen Thao Huong International Cooperation Office, Hanoi National University of Education The processing that Vietnam admited to the international Francophone community is closely linked to Vietnam’s development milestones, since the country was still in the interior war when the North and the South were divided up until the reunification when Vietnam was completely liberated and started the process of building the country. In the article, the author focuses on the foundation and the development of the Francophone community in the world, and also highlights Vietnam’s involvement in two periods: beginning with the participation of the government The Republic of Vietnamand the process of taking over by the Democratic Republic of Vietnam from 1979 to the present. The article will also compare the motives and purposes of joining the international Francophone Community of Vietnam under two different political regimes in order to better understand the role and contributions of the international Francophone community during certain special periods in the history of Vietnam. Keywords: Francophonie, foreign affairs, motivation, contribution, international organization. 89

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf5065_nthuong_8619_2123615.pdf