Tài liệu Vai trò của phẫu thuật TVT trong thời đại phổ biến của phẫu thuật tot điều trị tiểu không tự chủ do áp lực ở phụ nữ: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 91
VAI TRÒ CỦA PHẪU THUẬT TVT TRONG THỜI ĐẠI PHỔ BIẾN CỦA
PHẪU THUẬT TOT ĐIỀU TRỊ TIỂU KHÔNG TỰ CHỦ
DO ÁP LỰC Ở PHỤ NỮ
Nguyễn Văn Ân*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Phẫu thuật TVT (Tension-free Vaginal Tape) xuất hiện từ năm 1996, sớm trở thành trào
lưu mới trong điều trị tiểu không tự chủ (TKTC) do áp lực ở phụ nữ. Phẫu thuật TOT (Transobturator
Tape) ra đời muộn hơn từ năm 2001 với cùng chỉ định điều trị và cũng được chứng tỏ có hiệu quả tương
đương. Dường như các nhà phẫu thuật niệu khoa và sản phụ khoa ngày càng ưa chuộng phương pháp TOT
hơn, có lẽ do rất ít bị biến chứng thủng bàng quang. Vậy hiện nay phương pháp TVT có còn vai trò trong
điều trị TKTC do áp lực ở phụ nữ?
Đối tượng và phương pháp: Đây là báo cáo loạt trường hợp lâm sàng. Đối tượng nghiên cứu là
những trường hợp (TH) TKTC do áp lực, nhưng được đánh giá là khó thành công bởi các kỹ thuật mổ đặt
dải tr...
5 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 03/07/2023 | Lượt xem: 388 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của phẫu thuật TVT trong thời đại phổ biến của phẫu thuật tot điều trị tiểu không tự chủ do áp lực ở phụ nữ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 91
VAI TRÒ CỦA PHẪU THUẬT TVT TRONG THỜI ĐẠI PHỔ BIẾN CỦA
PHẪU THUẬT TOT ĐIỀU TRỊ TIỂU KHÔNG TỰ CHỦ
DO ÁP LỰC Ở PHỤ NỮ
Nguyễn Văn Ân*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Phẫu thuật TVT (Tension-free Vaginal Tape) xuất hiện từ năm 1996, sớm trở thành trào
lưu mới trong điều trị tiểu không tự chủ (TKTC) do áp lực ở phụ nữ. Phẫu thuật TOT (Transobturator
Tape) ra đời muộn hơn từ năm 2001 với cùng chỉ định điều trị và cũng được chứng tỏ có hiệu quả tương
đương. Dường như các nhà phẫu thuật niệu khoa và sản phụ khoa ngày càng ưa chuộng phương pháp TOT
hơn, có lẽ do rất ít bị biến chứng thủng bàng quang. Vậy hiện nay phương pháp TVT có còn vai trò trong
điều trị TKTC do áp lực ở phụ nữ?
Đối tượng và phương pháp: Đây là báo cáo loạt trường hợp lâm sàng. Đối tượng nghiên cứu là
những trường hợp (TH) TKTC do áp lực, nhưng được đánh giá là khó thành công bởi các kỹ thuật mổ đặt
dải treo dưới niệu đạo thông thường. Chúng tôi thực hiện kỹ thuật mổ tương tự phương pháp TVT của
Umsten đề xuất từ năm 1996, nhưng với sự cải biên là có điều chỉnh sức căng của mảnh ghép prolene vừa
đủ để hết són tiểu tại bàn mổ.
Kết quả: Từ 11/2016-3/2019, chúng tôi đã thực hiện 11 phẫu thuật TVT cải biên cho 11 bệnh nhân TKKC
do áp lực dạng khó, gồm 5 TH đã được mổ trước đó mà thất bại và 6 TH bị suy cơ thắt nội tại niệu đạo. Theo dõi
từ 3 tháng tới 24 tháng: 7 trường hợp hết són tiểu hoàn toàn, 2 TH cải thiện rõ tình trạng són tiểu, còn 2 TH
không cải thiện.
Kết luận: Đối với trường hợp TKTC do áp lực có suy cơ thắt trong niệu đạo hoặc tái phát sau phẫu thuật
điều trị TKTC trước đó, loạt bệnh của chúng tôi ghi nhận 81,8% khỏi bệnh hoặc cải thiện đáng kể tình trạng són
tiểu. Như thế, phẫu thuật TVT (cải biên) vẫn giúp điều trị thành công với tỉ lệ cao cho những trường hợp TKKC
do áp lực loại khó ở phụ nữ.
Từ khóa: tiểu không tự chủ, suy cơ thắt trong niệu đạo
ABSTRACT
ROLE OF TVT PROCEDURE IN THE WIDESPREAD PERIOD OF TOT PROCEDURE FOR
TREATMENT OF STRESS URINARY INCONTINENCE IN WOMEN
Nguyen Van An * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 3 - 2019: 91 – 95
Objective: TVT procedure (Tension-free Vaginal Tape) appeared in 1996 then has early become new model
for treatment of stress urinary incontinence (SUI) in women. TOT (Transobturator Tape) was born later in 2001
with the same indication for SUI and has been proved have similar efficacy compared with TVT. It seems that
urologists and gynecologists have preferred to apply TOT more than TVT recently. The reason may be very low
risk of bladder perforation while performing TOT procedure. We wonder that do TVT still has a role for treatment
of SUI at the moment?
Methods: This is case series study. Women who were diagnosed severe SUI such as ISD (intrinsic sphincter
insufficiency) or recurrence after former treatment were collected. Our techniques are modified by the TVT
*Khoa Niệu học chức năng, BV Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: PGS.TS.BS. Nguyễn Văn Ân ĐT: 0908163284 Email: bsan.nieukhoa@gmail.com
Comment [LT1]: Đè nghị đổi thành “
We wonder if TVT still has a role for treatment
of SUI”
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 92
procedure of Umsten, but with a little bit tension of the tape to cease urinary leakage while making Valsava’s
pression on full bladder.
Results: From Nov 2016 to March 2019, we have realized 11 cases of severe SUI in women, composed
of 5 recurrences and 6 ISD. Following-up from 3 to 24 months: 7 cases have been cured, 2 improved
significantly and 2 failed.
Conclusion: For treatment of complicated SUI caused by ISD or recurrence, our series reports 81.8% cured
or improved results. Therefore, TVT procedure (modified) still have a role for treatment of severe SUI in women.
Keywords: urinary incontinence, intrinsic sphincter insufficiency
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo dõi y văn thế giới
Phương pháp mổ TVT (Tension-free Vaginal
Tape) do tác giả Umsten (Thụy điển) khởi xướng
từ năm 1996 đã mở đầu một trào lưu mới trong
điều trị tiểu không tự chủ do áp lực (Stress
Urinary Incontinence- SUI) ở phụ nữ(17). Do kỹ
thuật thực hiện đơn giản mà đem lại hiệu quả
điều trị rất cao, nên phương pháp TVT nhanh
chóng được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước. Tuy
nhiên, do kỹ thuật thực hiện TVT có xuyên thích
kim đi vào hốc chậu có thể gây một số tai biến
như thủng bàng quang, tổn thương ruột, tổn
thương mạch máu lớn, cho nên dù có tỉ lệ biến
chứng thấp nhưng cần phải soi bàng quang
trong khi mổ và cẩn thận khi thao tác. Năm 2001,
tác giả Delorme (Pháp) trình bày một phương
pháp tương tự để điều trị SUI gọi là TOT (Trans
Obturator Tape)(3), có tỉ lệ thành công tương
đương với TVT. Nghiên cứu tổng quan và phân
tích gộp trên gần 2000 bài báo y văn quốc tế về
điều trị SUI ở phụ nữ bằng đặt mảnh ghép dưới
niệu đạo, khảo sát trong 16 năm 2000-2016 với
việc theo dõi dài hạn trên 5 năm, Maggiore & cs
(2017) kết luận rằng hiệu quả của 2 phương
pháp là tương đương nhau về tính hiệu quả và
an toàn(10). Tương tự, Huang & cs (2018) cũng
báo cáo nghiên cứu tổng quan và phân tích gộp
các bài báo với khoảng 5.000 trường hợp SUI
được điều trị bằng đặt mảnh ghép dưới niệu
đạo, gồm khoảng 2.500 trường hợp TVT và
khoảng 2.500 trường hợp TOT: báo cáo ghi nhận
không có khác biệt đáng kể về hiệu quả và biến
chứng giữa 2 phương pháp(7).
Tuy nhiên trên thực tế, càng về sau này các
báo cáo trong y văn thế giới có khuynh hướng
áp dụng phương pháp TOT phổ biến hơn
phương pháp TVT. Có lẽ vì việc xuyên thích chỉ
giới hạn trong vùng bẹn nên hầu như không làm
thủng bàng quang và ruột hoặc các cơ quan khác
trong bụng và hốc chậu, thậm chí không nhất
thiết phải soi bàng quang trong lúc mổ.
Tình hình cũng tương tự ở Việt Nam
Lúc đầu chỉ có một tác giả báo cáo về
TVT(12,13), rồi sau đó có vài tác giả áp dụng cả
TVT và TOT(6,11), nhưng về sau hầu như chỉ thấy
các bài trình bày về TOT(9,14,15). Như vậy, trên thế
giới cũng như ở trong nước, phương pháp TOT
dần dần đã trở nên phổ biến hơn TVT.
Chúng tôi tự hỏi: phương pháp TVT có còn
vai trò trong điều trị SUI ở phụ nữ? Theo dõi y
văn trên thế giới, chúng tôi nhận thấy có
không ít các báo cáo vẫn còn sử dụng TVT, đặc
biệt cho những bệnh nhân có suy cơ thắt nội
tại (ISD - Intrinsic Sphincter Defficiency) của
niệu đạo, hoặc những trường hợp đã phẫu
thuật bằng phương pháp khác để điều trị SUI
mà thất bại(4,8,16).
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu
Đây là báo cáo loạt trường hợp lâm sàng.
Đối tượng nghiên cứu
Loại trừ
Tiểu không tự chủ gấp (UUI- urge urinary
incontinence),
Đang bị nhiễm khuẩn niệu,
Đang bị viêm nhiễm cấp tính vùng âm hộ -
âm đạo,
Bệnh lý ác tính vùng âm hộ - âm đạo,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 93
Rối loạn đông máu chưa điều chỉnh.
Chọn bệnh
Những phụ nữ bị tiểu không tự chủ do áp
lực được đánh giá là khó thành công nếu áp
dụng phương pháp TOT. Cụ thể:
Kỹ thuật mổ
Dùng kỹ thuật của Umsten, xuyên thích và
đặt mảnh ghép nâng đỡ dưới niệu đạo ra sau
xương mu hướng lên phía trên. Tuy nhiên,
chúng tôi có điều chỉnh áp lực của mảnh ghép
đủ căng để làm hết són tiểu khi làm nghiệm
pháp Valsava với bàng quang chứa > 300 ml
nước, nghĩa là không thực sự tension-free.
KẾT QUẢ
Từ 11/2016-3/2019, chúng tôi đã thực hiện 11
phẫu thuật TVT cải biên cho 11 phụ nữ bị TKKC
do áp lực dạng khó:
Tuổi trung bình (TB) = 54,4 ± 3,7 (min = 49,
max = 61). Trong số 11 bệnh nhân có đặc điểm
nguyên nhân sau:
Bảng 1. Đặc điểm nguyên nhân
Đặc điểm nguyên nhân Số trường hợp
Tiền căn phẫu thuật điều trị tiểu
không tự chủ nhưng thất bại
5
Suy cơ thắt nội tại niệu đạo, niệu
đạo không tăng động
6
Bảng 2. Các phẫu thuật đã thực hiện bị thất bại
Bệnh nhân Tiền căn phẫu thuật Năm
Nguyễn Thị A., 1949 PT dải treo mu-âm đạo 2005
Đặng Tuyết M., 1960 Phẫu thuật nội soi Burch 2005
Nguyễn Thị C., 1958 - Phẫu thuật nội soi cố định
âm đạo vào mỏm nhô
- Đặt mesh ngả âm đạo
điều trị sa bàng quang
2005
2010
Nguyễn T. Thu Ng, 1966 Phẫu thuật nội soi Burch 2006
Trương Thị Ng., 1957 Phẫu thuật TPT 2016
5 BN đã được mổ trước đó mà thất bại, gồm:
1 TH đã phẫu thuật TOT năm 2006, 2 TH đã
phẫu thuật nội soi theo phương pháp Burch năm
2006 và 2007, 1 TH phẫu thuật dải treo bằng cơ
thẳng bụng (pubovaginal sling) năm 2005, 1 TH
được phẫu thuật nội soi cố định âm đạo vào
mỏm nhô năm 2005 rồi đặt mảnh ghép ngả âm
đạo điều trị sa bàng quang (Bảng 2).
Bảng 3.Các g iá trị LPP được ghi nhận
Bệnh nhân Leak point pressure (cm
H2O)
Bùi Thị S., 1962 55
Mai Thị Tuyết Ng., 1968 40
Nguyễn Thị L., 1964 47
Nguyễn Thị Th., 1966 35
Phạm Thị Đ., 1963 37
Bùi Thị Hồng Th., 1964 35
Trung bình 41,5 ± 7,3 cm H2O
6 BN được chẩn đoán suy cơ thắt nội tại niệu
đạo (khám lâm sàng không ghi nhận tăng động
niệu đạo và thực hiện niệu động lực học ghi
nhận Leak Point Pressure thấp) (Bảng 3).
ALPP TB = 42,8 ± 7,3 (min=35, max=55 cm H2O).
Theo dõi từ 3 tháng tới 24 tháng
Bảng 4. Tỉ lệ cải thiện tình trạng són tiểu
Kết quả điều trị Số BN Tỉ lệ %
Hết són tiểu hoàn toàn 7 63,6 %
Cải thiện khá (giảm 70 – 80%)
tình trạng són tiểu
2 18,2 %
Cải thiện ít (~ 50 – 60%) 0 0 %
Cải thiện kém 2 18,2 %
Về tai biến – biến chứng
Không có trường hợp nào bị biến chứng
trong mổ hoặc ngay sau mổ, như thủng bàng
quang, thủng ruột, tổn thương tạng hay mạch
máu lớn để phải mổ lại.
Theo dõi ngắn hạn và trung hạn, chúng tôi
chưa ghi nhận những biến chứng sau mổ như
nhiễm khuẩn niệu hay nhễm trùng vết mổ, tụ
máu hốc chậu, đau vùng hạ vị hay hội âm
Cho đến nay cũng chưa ghi nhận biến chứng lộ
TKTC do áp lực đã được phẫu thuật
nhưng thất bại hoặc tái phát
TKTC do áp lực có suy cơ thắt nội
tại niệu đạo
Chọn bệnh = TKTC do áp lực
dạng phức tạp
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 94
mảnh ghép.
BÀN LUẬN
Bàn về các trường hợp TKTC do áp lực (SUI)
xếp loại khó (nghĩa là nếu phẫu thuật để điều
trị có tỉ lệ thành công thấp)
Abdel-Hardy (2005) chia 4 phân nhóm gọi
là dạng phức tạp của TKTC do áp lực
(complicating SUI)(1): suy cơ thắt nội tại của
niệu đạo (ISD), phẫu thuật thất bại trước đó,
béo phì (BMI > 30) và tuổi già (>70). Các phân
nhóm này thường có tỉ lệ thành công kém hơn
SUI thông thường.
Loạt bệnh của chúng tôi còn ít (chỉ 11 TH),
không có người nào quá già (49 – 61 tuổi), cũng
không có người nào quá mập, nên chúng tôi chỉ
có 2 nhóm SUI khó trị là ISD và phẫu thuật trước
đây để điều trị SUI mà thất bại.
Về tiêu chuẩn đánh giá bệnh nhân bị suy cơ
thắt nội tại của niệu đạo - ISD:
Các sách giáo khoa và nhiều báo cáo đều
thống nhất tiêu chuẩn để xác định tình trạng
ISD: khi Valsava Leak Point Pressure < 60 cm
H2O hoặc khi Maximal Urethral (MUCP) < 20 cm
H2O. Ghezzi và cs (2006) đánh giá bằng 35 TH bị
ISD bằng cả 2 tiêu chuẩn VLPP và MUCP(4).
Trong khi Bai và cs (2007) báo cáo 111 SUI gồm
31 ISD và 80 non-ISD, được đánh giá bằng VLPP
hoặc MUCP(2).
Chúng tôi chọn tiêu chuẩn VLPP (còn gọi là
ALPP) vì dễ thực hiện và thuận tiện khi dùng
vật tư tiêu hao để đo niệu động lực học.
Chọn kỹ thuật mổ cho những trường hợp tiểu
không tự chủ do áp lực mà có suy cơ thắt nội
tại của niệu đạo
Nghiên cứu của Schierlitz và cs (2012)(16)
trên 147 BN bị SUI-ISD theo dõi được 3 năm
sau khi đặt dải treo niệu đạo giữa, gồm 75 BN
được làm TOT và 72 BN được làm TVT. Kết
quả tái phát của nhóm TOT là 20% (15/75)
trong khi của nhóm TVT rất thấp 1,4% (1/72).
Số liệu trên là minh chứng rất tốt cho ưu thế
của phương pháp TVT so với TOT cho những
BN bị SUI mà có ISD.
Một báo cáo khác của Kim và cs (2012)(8) với
157 BN bị SUI-ISD, gồm 105 được làm TVT và 52
được làm TOT. Thời điểm theo dõi sau 12 tháng:
tỉ lệ thành công của nhóm TVT là 95,2% cao hơn
nhiều so với nhóm TOT là 82,7% (p = 0,009).
Do vậy, chúng tôi mạnh dạn chọn phẫu
thuật TVT (và có cải biên bằng điều chỉnh mức
độ căng đủ để hết són tiểu trong lúc mổ) cho
những BN bị SUI có ISD.
Chọn kỹ thuật mổ khi phẫu thuật điều trị SUI
trước đó đã thất bại
Han và cs (2012)(5) trình bày 66 TH đã thực
hiện phẫu thuật đặt dải treo dưới niệu đạo
(MUS) trước đó để điều trị SUI nhưng thất bại
do vẫn bị hay tái phát són tiểu. Nghiên cứu chia
các bệnh nhân làm 2 nhóm: nhóm SUI có ISD và
nhóm SUI có mức độ nặng. Tác giả mổ lại với 36
TH đặt MUS khác và 30 TH làm ngắn dải treo.
Đối với các BN bị SUI-ISD thì làm lại MUS cho tỉ
lệ thành công là 76,5% cao hơn nhiều so với làm
ngắn dải treo với tỉ lệ thành công chỉ 40,0%. Còn
đối với các BN bị SUI mức độ nặng thì tỉ lệ thành
công của làm lại MUS là 79,2% vẫn cao hơn
nhiều so với làm ngắn dải treo là 43,8%.
Theo kinh nghiệm đó, chúng tôi thường
chọn đặt lại dải treo kiểu TVT (cải biên) cho
những BN đã phẫu thuật trước đó bị thất bại.
Về hiệu quả điều trị của phương pháp TVT
trên các bệnh nhân SUI loại khó
Theo Ghezzi và cs (2006)(4), tỉ lệ thành công
của chung của phẫu thuật TVT trên SUI nói
chung là 91,4%, trong khi nhóm có ISD là 87% và
nhóm có phẫu thuật trước đo là 86%.
Số liệu của Bai và cs (2007)(2): kết quả sau 1
tháng cho tỉ lệ thành công của nhóm ISD là 87%
trong khi nhóm non-ISD là 100%, khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p = 0,0053. Tuy nhiên, theo
dõi sau 3, 6, 12 tháng thì tỉ lệ thành công của 2
nhóm lại tương đương. Tác giả cũng tự nhận xét
sự giới hạn của kết luận do số lượng không
tương đồng giữa 2 nhóm.
Kết quả của chúng tôi khi thực hiện phương
pháp TVT cải biên cho các BN bị SUI xếp loại
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 95
khó: 63,6% hết són tiểu, và 81,8% hết hoặc cải
thiện nhiều tình trạng són tiểu. Tỉ lệ này dường
như khiêm tốn hơn 2 báo cáo của Ghezzi và Bai,
nhưng được xem là khả quan so với tác giả Han.
KẾT LUẬN
Tỉ lệ 81,8% hết hoặc cải thiện són tiểu cho
những trường hợp tiểu không tự chủ do áp lực
loại khó, bao gồm nhóm suy cơ thắt nội tại của
niệu đạo và nhóm đã thất bại sau phẫu thuật
trước đây, được xem là đáng khích kệ. Chúng tôi
cần nghiên cứu thêm để số liệu có nhiều bệnh
nhânh hơn và thời gian theo dõi kéo dài hơn
nhằm có kết luận đúng đắn hơn. Dù sao, kết quả
nêu trên cũng chứng tỏ rằng phương pháp TVT
vẫn còn vai trò trong trào lưu nhiều phẫu thuật
viên niệu khoa và sản phụ khoa ưa thích
phương pháp TOT.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abdel-Hady ES, Constantine G (2005). “Outcome of the use of
tension-free vaginal tape in women with mixed urinary
incontinence, previous failed surgery, or low valsalva pressure”.
J. Obstet. Gynaecol. Res, 31 (1):38–42.
2. Bai SW, Jung IH, Jeon MJ, et al (2007). “Treatment outcome of
tension-free vaginal tape in stress urinary incontinence:
comparison of intrinsic sphincter deficiency and nonintrinsic
sphincter deficiency patients”. Int Urogynecol J, 18:1431–1434.
3. Delorme E (2001). “Transobturator urethral suspension: mini-
invasive procedure in the treatment of stress urinary
incontinence in women”. Prog Urol, 11(6):1306-13.
4. Ghezzi F, Serati M, Cromi A, et al (2006). “Tension-free vaginal
tape for the treatment of urodynamic stress incontinence with
intrinsic sphincteric deficiency”. Int Urogynecol J, 17: 335–339.
5. Han JY, Moon KH, Park CM, Choo MS (2012). “Management of
recurrent stress urinary incontinence after failed midurethral
sling: tape tightening or repeat sling?”. Int Urogynecol J, 23:1279–
1284.
6. Hồ Nguyên Tiến & cs (2010). “Kết quả điều trị són tiểu khi gắng
sức bằng kỹ thuật đặt bandelette dưới niệu đạo”. Y học TPHCM,
10(2): 80-84.
7. Huang ZM, Xiao H, Ji ZG, et al (2018). “TVT versus TOT in the
treatment of female stress urinary incontinence: a systematic
review and meta-analysis”. Therapeutics and Clinical Risk
Management, 14:2293–2303.
8. Kim HG, Park HK, Paick SH, Choi WS (2016). “Comparison of
Effectiveness between Tension-Free Vaginal Tape (TVT) and
TransObturator Tape (TOT) in Patients with Stress Urinary
Incontinence and Intrinsic Sphincter Deficiency”. PLOS
ONE, May 26;11(5): e0156306
9. Lê Sĩ Trung (2012). “Điều trị tiểu không kiểm soát khi gắng sức
ở phụ nữ bằng phương pháp Trans-Obsturator-Tape (T.O.T):
Kinh nghiệm 15 trường hợp đầu tiên”. Y học TP. Hồ Chí Minh,
16(3):249-254.
10. Maggiore ULR, Agrò EF, Soligo M et al (2017). “Long-term
outcomes of TOT and TVT procedures for the treatment of
female stress urinary incontinence: a systematic review and
meta-analysis”. Int Urogynecol J, 28:1119–1130.
11. Nguyễn Ngọc Tiến, Nguyễn Thành Vinh (2008). “Điều trị tiểu
không kiểm soát khi gắng sức ở phụ nữ bằng phương pháp ít
xâm lấn: miếng nâng đỡ dưới niệu đạo TOT và TVT, kết quả
ban đầu tại bệnh viện FV TP. Hồ Chí Minh”. Y học TP. Hồ Chí
Minh, 12(1):335-341.
12. Nguyễn Văn Ân (2004). “Nhân 6 trường hợp áp dụng kỹ thuật
băng treo lỏng âm đạo TVT (Tension-free Vaginal Tape) để điều
trị tiểu không kiểm soát gắng sức ở phụ nữ”. Y học TP. Hồ Chí
Minh, 8(1):285-288.
13. Nguyễn Văn Ân (2006). “Điều trị tiểu không kiểm soát khi gắng
sức ở phụ nữ bằng phương pháp băng treo lỏng âm đạo TVT”.
Y học TP. Hồ Chí Minh, 10(1):154-159.
14. Nguyễn Văn Ân (2012). “Kết quả trung hạn điều trị tiểu không
kiểm soát khi gắng sức ở phụ nữ bằng phẫu thuật TOT”. Y học
TP. Hồ Chí Minh, 16(3):233-238.
15. Nguyễn Vũ Khải Ca, Hoàng Long, Nguyễn Hoài Bắc & cs
(2012). “Kết quả lâm sàng và niệu động học của phẫu thuật đặt
đai niệu đạo qua lỗ bịt điều trị đái rỉ khi gắng sức ở phụ nữ tại
bệnh viện Việt Đức”. Y Học TPHCM, 16(3): 156-159.
16. Schierlitz L, Dwyer PL, Rosamilia A, et al (2012). “Three-Year
Follow-Up of Tension-Free VaginalnTape Compared With
Transobturator Tape in Women With Stress Urinary
Incontinence and Intrinsic Sphincter Deficiency”. Obstetrics &
Gynecology, 119(2):321-327.
17. Ulmsten U, Falconer C, Johnson P, et al (1998). “A multicenter
study of tension-free vaginal tape (TVT) for surgical treatment
of stress urinary incontinence”. Int Urogynecol J Pelvic Floor
Dysfunct, 9(4):210-3.
Ngày nhận bài báo: 01/04/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 05/05/2019
Ngày bài báo được đăng: 10/06/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vai_tro_cua_phau_thuat_tvt_trong_thoi_dai_pho_bien_cua_phau.pdf