Tài liệu Vai trò của giáo dục - Đào tạo trong việc góp phần xây dựng, phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay: VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO TRONG VIỆC GÓP PHẦN
XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Nguyễn Thị Bích Thủy*
TÓM TẮT
Con người là trung tâm của mọi hoạt động xã hội, vừa là mục đích, vừa là động lực của sự phát triển.
Xây dựng, phát triển con người là sự gia tăng giá trị cho con người cả về tinh thần, đạo đức, tâm hồn, trí
tuệ, kỹ năng,.... lẫn thể chất. Khi nguồn lực con người được coi là yếu tố quyết định sự phát triển của mỗi
quốc gia, thì phát triển giáo dục – đào tạo là phương tiện chủ yếu quyết định chất lượng con người, là nền
tảng của chiến lược con người.
SUMMARY
THE ROLE OF EDUCATION AND TRAINING IN CONTRIBUTION TO THE
DEVELOPMENT OF HUMAN RESOURCE IN VIETNAM NOWADAYS.
Nguyen Thi Bich Thuy * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 9 * Supplement of No 1 * 2005: 36 – 40
Human is the key for any social activities, which is bot purpose and motiv...
5 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 04/07/2023 | Lượt xem: 399 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của giáo dục - Đào tạo trong việc góp phần xây dựng, phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO TRONG VIỆC GÓP PHẦN
XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Nguyễn Thị Bích Thủy*
TÓM TẮT
Con người là trung tâm của mọi hoạt động xã hội, vừa là mục đích, vừa là động lực của sự phát triển.
Xây dựng, phát triển con người là sự gia tăng giá trị cho con người cả về tinh thần, đạo đức, tâm hồn, trí
tuệ, kỹ năng,.... lẫn thể chất. Khi nguồn lực con người được coi là yếu tố quyết định sự phát triển của mỗi
quốc gia, thì phát triển giáo dục – đào tạo là phương tiện chủ yếu quyết định chất lượng con người, là nền
tảng của chiến lược con người.
SUMMARY
THE ROLE OF EDUCATION AND TRAINING IN CONTRIBUTION TO THE
DEVELOPMENT OF HUMAN RESOURCE IN VIETNAM NOWADAYS.
Nguyen Thi Bich Thuy * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 9 * Supplement of No 1 * 2005: 36 – 40
Human is the key for any social activities, which is bot purpose and motivation of development.
Building, developing human is increasing huma’s value in aspects of spirit, moral, soul, mind, skill,... and
physical. While human resource is treated as key factor for development of each country, development of
education – training is the significant means in defining human’s quality, is foundation of human
strategy.
* Khoa Khoa học cơ bản – Đại học Y Dược TP. HCM.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong công cuộc đổi mới đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, cùng với khoa học – công
nghệ, giáo dục – đào tạo đã được Đảng ta xác định là
“quốc sách hàng đầu”; phát triển giáo dục – đào tạo
là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để
phát huy nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để
phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững. Vì thế, việc nghiên cứu “vai trò của giáo dục –
đào tạo trong việc góp phần xây dựng, phát triển
nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay” là vấn đề hết
sức cấp thiết, có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và đang
được rất nhiều người quan tâm.
Trong công trình nghiên cứu của mình, chúng
tôi đã kế thừa và phát triển kết quả nghiên cứu của
nhiều tác giả trong và ngoài nước để có thể đề cập
một cách có hệ thống về các vấn đề con người, nhân
tố con người, nguồn lực con người, vai trò của giáo
dục – đào tạo và đặc biệt là đề xuất một số giải pháp
chủ yếu mang tính định hướng để góp phần phát huy
vai trò của giáo dục – đào tạo trong việc xây dựng,
phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay.
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên
cứu
Đề tài được thực hiện dựa trên những nguyên lý
của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng ta về nguồn nhân lực và chiến
lược phát triển con người trên cơ sở tiếp tục đổi mới
giáo dục – đào tạo.
Quá trình nghiên cứu và trình bày đề tài, chúng
tôi đã sử dụng các phương pháp như: tiếp cận hệ
thống, logic và lịch sử, phân tích tổng hợp, phương
pháp so sánh và phương pháp khái quát hóa...
36
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Một số vấn đề lý luận chung về con
người. Nhân tố con người – động lực
của sự phát triển sản xuất xã hội.
Trong suốt quá trình phát triển lâu dài của lịch sử
tư tưởng nhân loại, chung quanh vấn đề con người đã
diễn ra những cuộc đấu tranh không ngừng, và cuộc
đấu tranh ấy ngày càng trở nên gay gắt sau khi chủ
nghĩa Mác – Lênin ra đời.
Lịch sử phát triển xã hội loài người cho đến nay,
về cơ bản, là lịch sử vận động, phát triển của sản xuất
và tái sản xuất xã hội. Lao động sản xuất là ranh giới
phân biệt về chất giữa con người và con vật, giữa thế
giới động vật và xã hội loài người. Trong quá trình lao
động ấy, con người đã bộc lộ bản chất của mình và
thể hiện một vai trò đặc biệt quan trọng – động lực
của sự phát triển sản xuất xã hội.
Thông qua việc phân tích vai trò của nhân tố con
người trong nền sản xuất xã hội, chúng tôi muốn
nhấn mạnh rằng, nếu không xuất phát từ con người,
nếu không được tiến hành bởi con người và hướng về
phục vụ con người, thì sẽ không có bất cứ loại hình
nào và quá trình sản xuất nào có đủ lý do để tồn tại và
phát triển. Có thể nói, con người vừa là xuất phát
điểm, là lực lượng chủ đạo; vừa là mục đích, là yếu tố
quyết định nhất của lực lượng sản xuất, của nền sản
xuất xã hội. Cho nên, việc đề cao trí tuệ và vai trò của
tri thức khoa học chẳng qua chỉ là một cách gián tiếp
đề cao vai trò của con người.
Giáo dục – đào tạo với việc xây dựng,
phát triển nguồn lực con người.
Giáo dục – đào tạo là một lĩnh vực hoạt động của
đời sống xã hội, thuộc về bản chất xã hội của con
người và loài người. Lịch sử giáo dục – đào tạo đồng
thời với lịch sử nhân loại. Không đi qua giáo dục –
đào tạo, con người không thể có nhân tính và xã hội
không thể đạt tới tiến bộ và phát triển. Theo đó, hoạt
động giáo dục – đào tạo gắn bó mật thiết với hoạt
động sáng tạo văn hóa, cả văn hóa vật chất - bản thể,
vật thể lẫn văn hóa tinh thần, phi vật thể.
Giáo dục không chỉ là khoa học, mà còn là nghệ
thuật đào tạo con người, làm cho con người chuyển từ
đối tượng của giáo dục thành chủ thể giáo dục chính
bản thân mình. Đó là tính qui luật của sự chuyển hóa
từ giáo dục - đào tạo thành tự giáo dục, tự đào tạo. Đây
là cơ sở sâu xa của triết lý giáo dục: giáo dục liên tục,
giáo dục thường xuyên, giáo dục suốt đời.
Trong thời đại ngày nay, sự nghiệp giáo dục –
đào tạo có vai trò to lớn đối việc xây dựng, phát triển
nguồn lực con người, nhằm đáp ứng yêu cầu của quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hơn ai hết, chúng ta thấy rất rõ vai trò của giáo
dục – đào tạo trong thời đại ngày nay là nó đã và
đang tạo ra cho nền kinh tế quốc dân những nhà bác
học, những chuyên gia, những kỹ sư trên các lĩnh vực
mà nhờ họ mới có thể sáng tạo, tiếp thu kỹ thuật tiên
tiến, công nghệ mới, những hình thức quản lý mới có
khả năng đạt đến hiệu quả kinh tế cao. Giáo dục –
đào tạo trực tiếp quyết định việc nâng cao trình độ
học vấn, trình độ khoa học - kỹ thuật, tổ chức quản
lý, năng lực thực tiễn của người lao động.
Cuộc chạy đua về kinh tế giữa các nước, các khu
vực trở thành cuộc đua tranh về chất lượng giáo dục
– đào tạo. Con người được coi là tài nguyên quí giá
nhất, hơn hẳn mọi tài nguyên thiên nhiên quí giá
khác. Mọi năng lực xã hội qui tụ lại ở năng lực con
người, ở trình độ phát triển con người. Con người,
“vốn” người, “tư bản” người là giá trị cao nhất. Giáo
dục là “quốc sách hàng đầu” chính bởi lẽ đó, bởi chỉ
có giáo dục – đào tạo, đặc biệt là giáo dục học đường
– mới có thể sản sinh ra, sáng tạo được những giá trị
như thế.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, một lần
nữa, Đảng ta đã khẳng định rằng, phát triển giáo dục
và đào tạo là một trong những động lực quan trọng
thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là
điều kiện để phát huy nguồn lực con người – yếu tố
cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững.
Phát triển giáo dục – đào tạo với tư
cách là điều kiện phát huy nguồn lực
con người: Thực trạng và giải pháp
Hơn nửa thế kỷ qua, đặc biệt là từ khi chúng ta
37
tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, nền giáo dục
nước ta đã có những tiến bộ đáng kể:
Qui mô giáo dục tiếp tục tăng ở hầu hết các cấp
học, bậc học, trình độ đào tạo, đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhu cầu học tập của các tầng lớp nhân dân.
Mạng lưới trường lớp được củng cố và phát triển
rộng khắp trong cả nước, kể cả ở vùng sâu, vùng xa,
miền núi, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Trình độ dân trí được nâng lên rõ rệt: từ chỗ 95%
dân số mù chữ (vào năm 1945), đến nay gần 90%
dân số biết chữ. Đại bộ phận nhân dân có trình độ
tiểu học trở lên, đưa nước ta từ chỗ chỉ có 3 trường
phổ thông trung học đến nay có trên 35.000 trường
phổ thông các cấp với hơn 20 triệu học sinh, sinh
viên. Năm 2000, cả nước về cơ bản đã hoàn thành
xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học...
Những thành tựu đã đạt được của sự nghiệp giáo
dục nước ta trong những năm qua là không thể phủ
nhận, song giáo dục – đào tạo ở nước ta cũng đã bộc lộ
những yếu kém và khuyết điểm: chất lượng và hiệu
quả giáo dục– đào tạo còn thấp so với yêu cầu phát
triển của đất nước và so với trình độ tiên tiến của các
nước trong khu vực và trên thế giới. Qui mô đào tạo
giáo dục chuyên nghiệp còn nhỏ và manh mún, chưa
đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao về nguồn lực con người
trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Đặc biệt, hiện nay chúng ta còn thiếu hẳn một
đội ngũ cán bộ khoa học giỏi về chuyên môn nghiệp
vụ, tốt về đạo đức, trẻ về tuổi tác và sức khỏe, vững
vàng về bản lĩnh chính trị và giàu kinh nghiệm...
Theo chúng tôi, những nguyên nhân chính khiến
cho chất lượng giáo dục giảm là:
- Qui mô giáo dục – đào tạo mở rộng, nhưng
thiếu định hướng về chiều sâu, thiếu qui hoạch
ngành nghề đào tạo cho các trường, thiếu sự chỉ đạo
đồng bộ về nội dung, chương trình đào tạo. Còn nặng
về đào tạo đại học, chưa chú trọng đúng mức đến đào
tạo nghề, đặc biệt là đào tạo công nhân kỹ thuật có
trình độ cao.
- Phương pháp đào tạo chậm đổi mới, chưa phát
huy được tính chủ động sáng tạo của học sinh, sinh
viên. Việc giáo dục đạo đức, lý tưởng, thẩm mỹ, sức
khỏe trong nhà trường chưa được quan tâm đúng
mức. Chế độ thi cử, nhất là các kỳ thi tuyển sinh còn
nặng nề, căng thẳng, tốn kém và dễ làm nảy sinh
tiêu cực.
- Nội dung giáo dục – đào tạo chưa gắn chặt với
lao động sản xuất. Nhà trường – gia đình – xã hội
chưa kết hợp chặt chẽ với nhau. Nhà nước chưa có cơ
chế để gắn trách nhiệm của các cơ sở sản xuất đối với
nhà trường, cơ sở đào tạo.
- Chưa có chính sách cụ thể đối với giáo viên để
khuyến khích họ nâng cao trình độ. Cơ chế đào tạo
khoa học đỉnh cao và nhân tài còn gặp nhiều trở ngại
do chính sách đãi ngộ chưa thỏa đáng. Vì thế, tình
trạng thiếu giáo viên phổ thông đã trở nên phổ biến.
Chất lượng của đội ngũ giáo viên hiện có chưa đáp
ứng được yêu cầu của giáo dục – đào tạo.
- Đầu tư cơ sở vật chất – kỹ thuật cho các trường
thiếu đồng bộ. Trang thiết bị và đồ dùng dạy học lạc
hậu, chậm cải tiến so với sự phát triển của khoa học –
kỹ thuật trên thế giới.
Bên cạnh đó, giáo dục – đào tạo ở nước ta trong
những năm qua còn chịu ảnh hưởng tiêu cực của cơ
chế thị trường và những khó khăn do nền kinh tế
nước ta còn ở mức độ thấp kém, chưa đủ đáp ứng
những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục
– đào tạo con người Việt Nam hiện đại. Các hiện
tượng tiêu cực, thiếu kỷ cương, nề nếp trong giáo dục
chưa được ngăn chặn kịp thời và xử lý chưa nghiêm.
Thanh tra giáo dục vẫn còn là một trong những khâu
yếu nhất của công tác quản lý giáo dục...
Những chậm trễ trong cải cách hành chính nhà
nước, đổi mới quản lý kinh tế, sử dụng lao động,
chính sách tiền lương, ... cũng là những yếu tố cản
trở việc giải quyết những vấn đề vướng mắc trong
quá trình phát triển giáo dục – đào tạo.
Đối với sự nghiệp giáo dục – đào tạo ở nước ta
hiện nay, việc quan trọng hàng đầu là đầu tư đúng
mức cho nó. Đó là quá trình đầu tư lâu dài và có ý
nghĩa chiến lược. Nếu chúng ta đạt được mức tăng
15% tổng ngân sách thì cũng vẫn chưa đạt được mức
bình quân trong khu vực hiện nay là 20 – 25%.
15%vẫn còn là mức đầu tư quá thấp so với các nước
38
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
khác trong khu vực. Các nước xung quanh chúng ta
sở dĩ có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, một phần
quan trọng là do họ đầu tư lớn cho giáo dục.
Để đạt các mục tiêu của Chiến lược phát triển
giáo dục 2001 – 2010 được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt, trên cơ sở tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung
ương 2 (khóa VIII) và triển khai Nghị quyết Đại hội
IX; để làm cho giáo dục – đào tạo thực sự trở thành
“quốc sách hàng đầu”; để phát huy nhân tố con người
với tư cách là động lực trực tiếp cho sự phát triển đất
nước, chúng tôi xin mạnh dạn đề xuất một số giải
pháp chủ yếu sau đây:
Một là, chúng ta trước hết cần phải nhận thức
đúng vị trí và vai trò của giáo dục – đào tạo, phải làm
cho toàn Đảng, toàn dân nhận thức sâu sắc rằng, giáo
dục – đào tạo là nền tảng của chiến lược con người.
Mọi chiến lược phát triển kinh tế – xã hội sẽ không
thể thành công nếu không thực hiện tốt nhiệm vụ
phát triển giáo dục – đào tạo. Cho nên, để đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì giáo dục – đào tạo
phải đi trước một bước, thậm chí đi trước nhiều bước.
Hai là, phải kiên quyết và nhanh chóng tăng
nguồn đầu tư ngân sách hơn nữa cho giáo dục – đào
tạo. Mặc dù nước ta còn nhiều khó khăn về kinh tế –
xã hội, nhưng không thể để tổng mức kinh phí đầu tư
cho giáo dục – đào tạo dưới 15% tổng chi phí ngân
sách nhà nước. Vì vậy, Nhà nước cần điều chỉnh ngân
sách cho giáo dục – đào tạo ít ra cũng nên bằng mức
đầu tư của các nước đang phát triển ở khu vực châu Á
– 20%. Đồng thời, cần phải có cơ chế và con người
quản lý, sử dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả
cao. Đặc biệt, cần tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo
của Đảng, sự quản lí của Nhà nước đối với giáo dục –
đào tạo để giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
Chống khuynh hướng “thương mại hóa” giáo dục –
đào tạo.
Ba là, thực hiện xã hội hóa giáo dục – đào tạo.
Chúng ta cần phải làm cho mọi người thông suốt
quan điểm “giáo dục – đào tạo là sự nghiệp của toàn
Đảng, toàn dân”, cho nên việc đầu tư cho giáo dục –
đào tạo không phải chỉ là công việc của Nhà nước.
Cần phải kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội
trong phát triển đào tạo. Đặc biệt, Nhà nước cần sớm
ban hành chính sách đóng góp phí đào tạo từ phía
các cơ sở sử dụng lao động qua đào tạo, nhất là với
những đơn vị ngoài khu vực nhà nước. Nghĩa là cần
phải đa dạng hóa các nguồn đầu tư từ các thành phần
kinh tế.
Bốn là, cần tiếp tục đổi mới hệ thống giáo dục –
đào tạo ở tất cả các bậc học. Đổi mới từ nội dung
chương trình đến phương pháp giáo dục – đào tạo
theo hướng “chuẩn hóa, hiện đại hóa, tăng cường tư
duy sáng tạo, năng lực tự học, tự tu dưỡng, tự tạo việc
làm” để sản phẩm đào tạo ra có chất lượng cao, đáp
ứng được yêu cầu của đất nước. Gắn dạy chữ, dạy
nghề với dạy người thành tư tưởng xuyên suốt, chỉ
đạo mọi hoạt động, mọi lĩnh vực liên quan đến giáo
dục – đào tạo. Điều đó làm cho mỗi người không
những được đào tạo chuyên môn, có trình độ học
vấn, mà còn giúp cho họ có một “sức khỏe tinh
thần”, tạo môi trường xã hội lành mạnh để phát triển
con người, xây dựng nguồn nhân lực.
Năm là, cần phải xây dựng được một đội ngũ cán
bộ, quản lý giáo dục – đào tạo giỏi và đội ngũ giáo viên
tốt đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, có trách
nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, tập trung tâm lực
vào sự nghiệp giáo dục – đào tạo... Muốn vậy, đòi hỏi
Nhà nước phải có những chính sách tích cực, thỏa
đáng đối với việc đào tạo và sử dụng đội ngũ giáo viên,
cụ thể là cần nâng cao mức sống và điều kiện làm việc
cho giáo viên, cần phải có chính sách lương hợp lý để
giáo viên đủ sống bằng chính nghề của mình, từ đó
chuyên tâm vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy.
Cần phải thường xuyên bồi dưỡng, chuẩn hóa đội ngũ
giáo viên ở tất cả các cấp học, bậc học; phải kết hợp
việc giảng dạy với việc nghiên cứu khoa học; phải có
chính sách khuyến khích những người giỏi vào các
trường Sư phạm và các cơ quan nghiên cứu.
Sáu là, cần nâng cao hiệu quả giáo dục – đào tạo
bằng cách gắn đào tạo với sử dụng nhằm khắc phục
tình trạng bất cập giữa đào tạo với thị trường lao
động, dẫn đến hiện tượng sản phẩm đào tạo ra vừa
thừa, lại vừa thiếu như hiện nay. Đặc biệt phải có
chiến lược giáo dục – đào tạo hữu hiệu, phải gắn giáo
dục – đào tạo với nhu cầu thị trường lao động trong
39
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phải
mang chức năng dự báo, đón đầu được các kế hoạch
phát triển kinh tế – xã hội như nhiều nước đã làm.
Bảy là, cần mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về
giáo dục – đào tạo, mở nhiều hình thức liên kết đào tạo
với nước ngoài, tổ chức “du học tại chỗ”, khuyến khích
du học tự túc. Cùng với việc đào tạo nhân tài trong
nước, phải có chính sách cho những học sinh giỏi
được đào tạo ở nước ngoài trong các ngành chủ chốt,
... để tranh thủ tiếp thu công nghệ hiện đại, trao đổi
khoa học nhằm tăng cường và gây ảnh hưởng của Việt
Nam đối với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Chúng tôi ý thức rất rõ rằng những giải pháp nêu
trên có thể là chưa đủ, song theo chúng tôi, nếu việc
thực hiện các giải pháp này được tiến hành một cách
đồng bộ, có định hướng thì nhất định sẽ góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, làm cho con
người – sản phẩm của giáo dục – đào tạo có đủ năng
lực và phẩm chất cần thiết, đáp ứng được những yêu
cầu, đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
KẾT LUẬN
Vai trò của con người và trí tuệ của con người
không chỉ tăng lên trong lĩnh vực sản xuất vật chất,
mà còn tăng lên không ngừng trong tất cả mọi hoạt
động, mọi lĩnh vực của cuộc sống. Ý nghĩa to lớn của
giáo dục – đào tạo thể hiện ở chỗ, nó là nhân tố cơ
bản của văn hóa, là một trong những hiện tượng tiềm
ẩn, có khả năng “hóa thân”, “thẩm thấu” không chỉ
vào từng yếu tố của lực lượng sản xuất, mà cả trong
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Vì vậy, giáo dục – đào tạo luôn luôn là nền móng đối
với toàn bộ chiến lược phát triển con người và chiếm
vị trí trọng yếu trong chiến lược phát triển kinh tế –
xã hội.
Khi nguồn lực con người được coi là yếu tố quyết
định sự phát triển của mỗi quốc gia, thì phát triển
giáo dục – đào tạo là phương tiện chủ yếu quyết định
chất lượng con người, là nền tảng của chiến lược con
người. Với tính cách là động lực của sự phát triển
kinh tế – xã hội, giáo dục – đào tạo chuẩn bị con
người cho sự phát triển bền vững trên tất cả các lĩnh
vực, cho lợi ích hiện tại và cho lợi ích tương lai của
đất nước.
Phát triển nguồn lực con người là vấn đề lớn, vừa
cơ bản, lâu dài, vừa bức xúc trong sự nghiệp đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao về con người và nguồn lực con người –
yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững, chúng ta cần phải tạo ra những
chuyển biến căn bản, toàn diện về giáo dục – đào tạo,
lấy đó làm điều kiện cơ bản, làm phương tiện chủ yếu
để phát huy nguồn lực con người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Chí Bảo. Những vấn đề đặt ra trong việc thực
hiện cách mạng hoá GD – ĐT trong các nhà trường ở
nước ta hiện nay. Tạp chí KHXH số 5 (51) – 2001.
2. Nguyễn Trọng Chuẩn. Nguồn nhân lực trong công
nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Tạp chí Triết
học, số 3 – 1994.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2001.
4. Phạm Minh Hạc. Phát triển giáo dục – phát triển con
người phục vụ phát triển xã hội – kinh tế. Nxb Khoa
học xã hội, Hà nội, 1996.
5. Đặng Hữu. Phát triển nguồn lực con người cho công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trên cơ sở tiếp tục đổi mới
GD – ĐT. Tạp chí KHXH số 1 (59) – 2003
40
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vai_tro_cua_giao_duc_dao_tao_trong_viec_gop_phan_xay_dung_ph.pdf