Tài liệu Vai trò của giáo dục - Đào tạo trong quá trình xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm hướng tới nền kinh tế tri thức ở thành phố Hồ Chí Minh: 109
Vai trò của giáo dục . . .
Nghiên cứu – Trao đổi
VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG
VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO NHẰM
HƯỚNG TỚI NỀN KINH TẾ TRI THỨC Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Phương Nam*
TÓM TẮT
Theo nghiên cứu của World Bank một nền kinh tế tri thức cần dựa trên 4 cột trụ, trong đó
giáo dục - đào tạo là một trong tứ trụ này và có một vai trò quan trọng trong việc tạo ra lực lượng
lao động chất lượng cao góp phần hình thành một nền kinh tế dựa vào tri thức, tăng năng suất và
giá trị đầu ra cho nền kinh tế. Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua đã nỗ lực phát triển
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm hướng đến nền kinh tế phát triển dựa trên tri thức, do đó lực
lượng lao động chất lượng cao và có tri thức là nhu cầu cấp thiết cho mục tiêu phát triển của thành
phố, trong khi đó theo báo cáo của trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao
động thành phố Hồ Chí Minh cho thấy lực lượng lao động ch...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 344 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của giáo dục - Đào tạo trong quá trình xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm hướng tới nền kinh tế tri thức ở thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
109
Vai trò của giáo dục . . .
Nghiên cứu – Trao đổi
VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG
VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO NHẰM
HƯỚNG TỚI NỀN KINH TẾ TRI THỨC Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Phương Nam*
TÓM TẮT
Theo nghiên cứu của World Bank một nền kinh tế tri thức cần dựa trên 4 cột trụ, trong đó
giáo dục - đào tạo là một trong tứ trụ này và có một vai trò quan trọng trong việc tạo ra lực lượng
lao động chất lượng cao góp phần hình thành một nền kinh tế dựa vào tri thức, tăng năng suất và
giá trị đầu ra cho nền kinh tế. Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua đã nỗ lực phát triển
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm hướng đến nền kinh tế phát triển dựa trên tri thức, do đó lực
lượng lao động chất lượng cao và có tri thức là nhu cầu cấp thiết cho mục tiêu phát triển của thành
phố, trong khi đó theo báo cáo của trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao
động thành phố Hồ Chí Minh cho thấy lực lượng lao động chưa qua đào tạo trên địa bàn thành phố
chiếm đến 33.27%. Do đó cần có những chính sách và giải pháp nhằm thúc đẩy việc giáo dục và
đào tạo nhân lực cho thành phố trong giai đoạn tới. Trong bài viết này sẽ nê lên vai trò và tầm quan
trọng của giáo dục - đào tạo trong việc hình thành đội ngũ nhân lực chất lượng cao nhằm đáp ứng
mục tiêu phát triển của thành phố trong thời gian tới.
Từ khoá: vai trò giáo dục - đào tạo, nguồn nhân lực chất lượng cao, kinh tế tri thức,
thành phố Hồ Chí Minh
ROLE OF EDUCATION - TRAINING AND DEVELOPMENT DURING
HIGH QUALITY HUMAN RESOURCES FOR FOUNDATION TOWARDS
ECONOMIC KNOWLEDGE IN HO CHI MINH
ABSTRACT
According to World Bank Report, knowledge based economy needs 4 pillars, in which
education and training play a vital role in generating and forging high quality manpower for
the development of the economy. In recent years, HCMC had great efforts in restructuring the
economy for the development toward a knowledge based economy therefore the demand for
high quality human resource is essential. Whilst the Center of Forecasting Manpower Needs
and Labor Market Information HCMC (FALMI) showed untrained labors account for 33.27% in
the labor forcel. Hence, this paper show the role of education and training for the development
of HCMC’s high quality labor force
Keywords: the role of education - training, high-quality human resources, knowledge
economy, Ho Chi Minh City.
* ThS. Công ty Dịch vụ Mobifone khu vực II. M: 090 3333 079. E: nam.ntp@mobifone.vn
110
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đầu thế kỷ 20 khoảng cách thu nhập bình
quân giữa nước giàu nhất so với nước nghèo
nhất là 10 lần, thì đầu thế kỷ 21, khoảng cách
đó là 400 lần. Không cập nhật tri thức mới
trong quá trình lão hóa tri thức tăng tốc, bất
cập với công nghệ mới, công nghệ cao là yếu
tố hàng đầu dẫn tới sự phân hóa phát triển -
kém phát triển. Khoảng 30 năm trở lại đây,
lượng kiến thức nhân loại thu được từ khoa
học và công nghệ bằng tổng số kiến thức trong
hai ngàn năm trước đó. Theo dự báo, đến năm
2020, những tri thức khoa học sẽ tăng khoảng
4 lần so với năm 2000. Với xu thế hội nhập
hiện nay vai trò của tri thức ngày càng trở nên
quan trọng, nó trở thành động lực của tăng
trưởng kinh tế, cũng vì lẽ đó mà ra đời thuật
ngữ “kinh tế tri thức”. Theo Ngân hang thế
giới (World Bank) đưa ra khái niệm về kinh tế
tri thức vào năm 1999 như sau: “Là nền kinh
tế sử dụng hiệu quả tri thức cho sự phát triển
kinh tế và xã hội, bao gồm việc thu nhận và
khai thác nguồn tri thức toàn cầu cũng như
thích ứng và sáng tạo tri thức để dùng cho
các nhu cầu riêng”. Theo Tổ chức hợp tác
và phát triển kinh tế (OECD) “kinh tế tri thức
là nền kinh tế được xây dựng trên cơ sở sản
xuất phân phối và sử dụng tri thức thông tin”.
Tri thức có vai trò to lớn đối với việc tăng
năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản
phẩm Phát triển kinh tế tri thức sẽ tiết kiệm
được tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu ô
nhiễm môi trường, giảm bớt nặng nhọc trong
lao động. Vì vậy, hiện nay, các nước đều dành
sự quan tâm hàng đầu cho việc xây dựng và
thực hiện chiến lược quốc gia về tri thức và
phát triển đội ngũ trí thức. Ở đâu có nhiều tri
thức hơn, ở đó có nền kinh tế phát triển hơn;
những công ty, đơn vị nào có nhiều tri thức sẽ
phát triển mạnh hơn; những cá nhân nào có
tri thức, có trình độ sẽ nhận được việc làm tốt
hơn, thu nhập cao hơn. Phát triển kinh tế tri
thức là xu thế tất yếu của mọi quốc gia, phù
hợp với quy luật vận động và phát triển của
xã hội.
Hiện nay cuộc cách mạng khoa học công
nghệ phát triển như vũ bão đã tác động sâu
sắc đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và quá trình
toàn cầu hoá có ảnh hưởng sâu rộng đến sự
phát triển của tất cả các quốc gia trên thế giới.
Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới
đều có chiến luợc phát triển kinh tế tri thức
theo những cách thức riêng phù hợp với điều
kiện cụ thể của từng nước. Các nước phát
triển tập trung thu hút lao động trí tuệ, và
thành tựu khoa học công nghệ ở nhiều nước
khác, nghiên cứu sâu vào lĩnh vực năng lượng
mới, vật liệu mới, hoá sinh học, khám phá vũ
trụ để phát triển nền kinh tế. Các nước đang
phát triển chọn hướng đi tắt, tạo động lực phát
triển nhanh nhằm rút ngắn khoảng cách đối
với các nước phát triển.
Tại đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
IX năm 2001, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
đưa vào văn kiện định hướng phát triển kinh
tế tri thức (KTTT) như sau: “Đi nhanh vào
công nghệ hiện đại ở những ngành và lĩnh
vực then chốt để tạo bước nhảy vọt về công
nghệ và kinh tế, tạo tốc độ tăng trưởng vượt
trội ở những sản phẩm và dịch vụ chủ lực.
Công nghiệp hóa (CNH) gắn với hiện đại hóa
(HĐH) ngay từ đầu và trong suốt các giai
đoạn phát triển. Nâng cao hàm lượng tri thức
trong các nhân tố phát triển kinh tế - xã hội,
từng bước phát triển KTTT ở nước ta”. Việc
phát triển KTTT tiếp tục được làm rõ và được
xem như một yếu tố cấu thành nên đường lối
CNH và HĐH đất nước tại đại hội Đảng lần
thứ X năm 2006, với những luận điểm như
111
Vai trò của giáo dục . . .
sau: “Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh
quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước
ta để rút ngắn quá trình CNH-HĐH đất nước
theo định hướng phát triển KTTT, coi KTTT
là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH-
HĐH. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm
kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào
tri thức; kết hợp việc sử dụng vốn tri thức của
con người Việt Nam với tri thức mới nhất
của nhân loại”. Năm 2011 tại Đại hội XI, với
định hướng chiến lược cơ cấu lại nền kinh tế,
chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu
phát triển theo chiều rộng, sang phát triển hợp
lý giữa các chiều rộng và sâu, chú trọng nâng
cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững, Đảng
Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định vai
trò của KTTT cho quá trình phát triển của đất
nước: “phát triển mạnh khoa học, công nghệ
làm động lực đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH,
phát triển KTTT, góp phần tăng nhanh năng
suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của
nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của
đất nước”.
Do quá trình phát triển của lịch sử và do
điều kiện tự nhiên, Sài Gòn - Gia Định (thành
phố Hồ Chí Minh) ngày nay đã là một trung
tâm kinh tế và giao lưu quốc tế của khu vực
Đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông
Nam Bộ, sự phát triển của Thành phố đã gắn
kết với sự phát triển của cả địa bàn kinh tế
phía Nam. Từ năm 1982 đến nay, Bộ Chính
trị đã có 3 lần ban hành nghị quyết về thành
phố Hồ Chí Minh (TPHCM): Nghị quyết 01-
NQ/TW ngày 14/9/1982, Nghị quyết 20-NQ/
TW ngày 18/11/2002 và Nghị quyết 16-NQ/
TW ngày 10/8/2012. Thành phố Hồ Chí Minh
được xác định là hạt nhân trọng điểm của phía
Nam bao gồm 8 địa phương: TPHCM, Bà
Rịa-Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, Bình
Phước, Tây Ninh, Long An và Tiền Giang. Từ
lâu sự phát triển của TPHCM gắn liền với sự
phát triển của Vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam trên cả 4 lĩnh vực phân bố lực lượng
sản xuất; kết cấu hạ tầng giao thông; đào tạo
nguồn nhân lực, thị trường lao động và bảo vệ
môi trường.
Trong 30 năm thực hiện CNH-HĐH và
phát triển đô thị, vị trí vai trò của thành phố
Hồ Chí Minh ngày càng được khẳng định và
nâng cao. Nếu năm 1991, TPHCM đóng góp
khoảng 15% GDP của cả nước chiếm 6,4%
dân số và 5,3% lao động thì đến năm 2013
con số tương ứng là 20,8%, 8,8% và 7,7%.
So với năm 1991 quy mô dân số Thành phố
đã tăng gần 2 lần nhưng nhờ sự tăng trưởng
nhanh về kinh tế nên tổng sản phẩm nội địa
tính theo đầu người đã tăng gần 8 lần (Trần
Du Lịch, 2015). Năm 2016, TPHCM đề ra
12 chỉ tiêu chủ yếu phát triển KTXH. Một số
chỉ tiêu quan trọng như: Tốc độ tăng trưởng
tổng sản phẩm nội địa trên địa bàn (GRDP)
đạt 8%; tạo việc làm mới cho 125.000 người
lao động, tỉ lệ thất nghiệp đô thị dưới 4,5%;
giảm 1% tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn Chương
trình “Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 -
2020” (Văn phòng UBND Thành phố Hồ Chí
Minh, 2016). Điều này đòi hỏi thành phố cần
có nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng
được nhu cầu phát triển và đạt được các mục
tiêu theo kế hoạch phát triển của thành phố.
Vai trò của nguồn lực con người được
khẳng định là một yếu tố cơ bản cho sự phát
triển. Trong các nguồn lực như: vốn, tài
nguyên, vị trí địa lý, nguồn lực nước ngoài và
nguồn lực con người, các nguồn lực khác đều
phụ thuộc và thông qua hoạt động thực tiễn
của con người, bởi con người là nguồn lực duy
nhất biết tư duy, biết sáng tạo, có ý tri thức và
ý chí, chỉ có con người mới có thể gắn kết các
nguồn lực khác tạo thành sức mạnh tổng hợp
112
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
nhằm đạt đến một mục tiêu nhất định. Do đó,
nguồn lực con người là quan trọng nhất trong
sự phát triển của mỗi quốc gia1.
Trong xu thế phát triển tri thức ngày nay,
giáo dục - đào tạo được xem là chính sách,
biện pháp quan trọng hàng đầu để phát triển
ở nhiều quốc gia trên thế giới và Việt Nam
không phải là ngoại lệ. Giáo dục – đào tạo
góp phần nâng cao dân trí ở mọi quốc gia,
dân tộc. Ngày nay, giáo dục - đào tạo còn góp
phần tạo ra hệ thống giá trị xã hội mới. Trong
nền kinh tế tri thức hiện nay, tri thức là sản
phẩm của giáo dục - đào tạo, đồng thời là tài
sản quý giá nhất của con người và xã hội. Sở
hữu tri thức trở thành sở hữu quan trọng nhất
được các nước thừa nhận và bảo hộ. Nguồn
lực phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia,
dân tộc từ tài nguyên, sức lao động cơ bắp là
chính chuyển sang nguồn lực con người có
tri thức là cơ bản nhất. Do đó Nhà nước cần
xem “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Việc
đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay
đang là mối quan tâm của các cấp, ngành, các
nhà khoa học và toàn xã hội. Chọn khoa học
và giáo dục làm khâu đột phá cho phát triển.
Chọn giáo dục làm tiền đề, làm xương sống
của phát triển bền vững là xác định đúng đắn
và khoa học2.
2. NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT
LƯỢNG CAO
Theo Liên Hợp Quốc, “Nguồn nhân lực là
tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm,
năng lực và tính sáng tạo của con người có
quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và
của đất nước”. Ngân hàng thế giới cho rằng:
nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con người bao
1 Nguyễn Đức Khiêm, (2016). Các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn
nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay.
anh-huong-den-nguon-nhan-luc-cho-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-
o-nuoc-ta-hien-nay-209/
2 Trần Duy (2015), Vai trò của giáo dục và đào tạo đối với
sự phát triển,
cateID/4/artilceID/15531/language/vi-VN/Default.aspx
gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp
của mỗi cá nhân. Như vậy, ở đây nguồn lực
con người được coi như một nguồn vốn bên
cạnh các loại vốn vật chất khác: vốn tiền tệ,
công nghệ, tài nguyên thiên nhiên. Dưới góc
độ của Kinh tế - Chính trị có thể hiểu: nguồn
nhân lực là tổng hoà thể lực và trí lực tồn tại
trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của
một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống
và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân
tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra
của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu
cầu hiện tại và tương lai của đất nước.
Tóm lại, nguồn nhân lực chất lượng cao
là lực lượng lao động có học vấn, có trình độ
chuyên môn cao, nhất là có khả năng đáp ứng
các yêu cầu phức tạp và luôn thay đổi của công
việc để tạo ra năng suất và hiệu quả cao, đóng
góp cho sự tăng trưởng và phát triển của mỗi
đơn vị nói riêng và toàn xã hội nói chung3.
Thứ nhất, nguồn nhân lực chất lượng cao
là nguồn lực chính quyết định quá trình tăng
trưởng và phát triển kinh tế- xã hội. Nguồn
nhân lực, nguồn lao động là nhân tố quyết
định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái
tạo các nguồn lực khác. Thứ hai, nguồn nhân
lực chất lượng cao là một trong những yếu tố
quyết định sự thành công của sự nghiệp CNH,
HĐH; là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xã
hội, từ sử dụng lao động thủ công là phổ biến
sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động
được đào tạo cùng với công nghệ tiên tiến,
phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện
đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Đối với nước ta đó là một quá trình tất yếu
để phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Thứ ba, nguồn nhân lực chất lượng
cao là điều kiện để rút ngắn khoảng cách
3 Nguyễn Tiến Dzũng & Nguyễn Phan Thu Hằng (2011), Phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh, Tạp chí Phát triển KH-CN, 14(1), Tr.101-111.
113
Vai trò của giáo dục . . .
tụt hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy
nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nhằm
phát triển bền vững. Thứ tư là, nguồn nhân
lực chất lượng cao là điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế
3. PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
CHẤT LƯỢNG CAO HƯỚNG TỚI NỀN
KINH TẾ TRI THỨC Ở THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH
Theo WB (2007) nền kinh tế tri thức
cần được xây dựng dựa trên 4 trụ cột: (1) cơ
chế kinh tế và thể chế; (2) Giáo dục; (3) Hệ
thống đổi mới sáng tạo và (4) Cơ sở hạ tầng
về thông tin và truyền thông. Hiện nay một
số các nghiên cứu liên quan đến kinh doanh
cũng có những mô hình sử dụng các thành
phần tương tự như 4 trụ cột này.
Cơ chế kinh tế và thể chế: bao gồm các
chính sách và thể chế cho phép việc huy động
và phân bổ nguồn lực hiệu quả, khuyến khích
tinh thần doanh nghiệp, thúc đẩy sự sáng tạo,
phổ biến, và sử dụng hiệu quả tri thức. Giáo
dục: là đào tạo những lao động có trình độ và
tay nghề cao, có khả năng cập nhật kiến thức
và kĩ năng liên tục để sáng tạo và sử dụng tri
thức một các hiệu quả. Hệ thống giáo dục -
đào tạo bao gồm trường tiểu học, trung học,
trường nghề, cao đẳng, đại học, và cơ chế
học tập trọn đời. Học tập trọn đời đang ngày
càng đóng vai trò quan trọng trong bối cảnh
cuộc cách mạng tri thức hiện nay, khi tri thức
mới liên tục được tạo ra, nó đòi hỏi con người
luôn hoàn thiện theo tốc độ phát triển tri thức
của nhân loại. Hệ thống đổi mới sáng tạo:
bao gồm các công công ty, viện nghiên cứu,
trường đại học, và các tổ chức khá mà có thể
tiếp cận và theo kịp các công nghệ, kĩ thuật,
tri thức mới để tiếp thu và sử dụng nguồn tri
thức này phục vụ cho nhu cầu cụ thể của tổ
chức doanh nghiệp. Hỗ trợ cho sự đổi mới,
khoa học, và công nghệ bao gồm một loạt các
yếu tố từ cơ sở hạ tầng đến thể chế, từ sự phổ
biến của công nghệ cơ bản đến các hoạt động
nghiên cứu tiên tiến.
Cơ sở hạ tầng về thông tin và truyền
thông: cơ sở hạ tầng về thông tin và truyền
thông hiện đại và hoàn chỉnh sẽ tạo điều kiện
cho việc trao đổi, xử lý, và phổ biến thông tin
hiệu quả. Công nghệ truyền thông bao gồm
mạng điện thoại, truyền hình, phát thanh,
internet là cơ sở hạ tầng thiết yếu của nền kinh
tế toàn cầu dựa trên thông tin trong thế kỉ 21.
Những cơ sở hạ tầng này có thể giảm dáng kể
chi phí giao dịch bằng cách cung cấp sự tiếp
cận thông tin mọi lúc mọi nơi. Các chính sách
liên quan đến công nghệ thông tin bao gồm
quy định về viễn thông cũng như các khoản
đầu tư cần thiết để xây dựng và khai thác công
nghệ thông tin và truyền thông trong nền kinh
tế và xã hội thông qua các ứng dụng điện tử
như chính phủ điện tử (e-government), kinh
doanh điện tử (E-business), học tập điện tử
(E-learning)
Bảng 1: Bước tiến về bốn trụ cột hướng đến nền kinh tế tri thức của VN
2012 2000 1995
Chỉ số về cơ chế kinh tế và thể chế 2,8 2,74 2,64
Chỉ số về giáo dục 2,99 2,82 2,28
Chỉ số về đổi mới sáng tạo 2,75 2,4 2,34
Chỉ số về công nghệ thông tin và truyền thông 5,05 2,92 4,5
Nguồn: Nguyễn Trọng Hoài 2013
114
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Theo số liệu đo lường 4 cột trụ của nền
kinh tế tri thức của Việt Nam giai đoạn 1995-
2012 cho thấy công nghệ thông tin truyền
thông có cải thiện, còn các trụ cột khác đều
không có thay đổi đáng kể, các cột trụ còn lại
đều có mức điểm dưới 3, chỉ số về giáo dục
có mức điểm 2,99. Các tiêu chí để đo lường
về giáo dục đều có mức tăng tuy nhiên vẫn
ở mức thấp so với khu vực và xét về chất
lượng vẫn còn nhiều hạn chế1. Do đó Việt
Nam cần đẩy mạnh hơn nữa về giáo dục cả
về chất và lượng.
Trước năm 2000, công nghiệp TPHCM
chủ yếu phát triển tự phát theo chiều ngang,
vai trò tác động định hướng điều tiết của Nhà
nước chưa nhiều. Nhưng từ năm 2001 với Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ VII
(tháng 12/2000) đã định hướng chuyển dịch cơ
cấu kinh tế dựa trên lợi thế cạnh tranh và dựa
trên quan hệ phân bố lực lượng sản xuất của cả
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và đã định
hướng phát triển 4 nhóm ngành công nghiệp và
9 nhóm ngành dịch vụ, cụ thể:
Trong lĩnh vực công nghiệp, tập trung vào
4 nhóm ngành: (1) cơ khí chế tạo; (2) điện
tử - viễn thông - tin học; (3) công nghiệp
hóa chất và dược phẩm; (4) chế biến lương
thực thực phẩm giá trị tăng cao và 9 nhóm
ngành dịch vụ tài chính - tín dụng - ngân
hàng - bảo hiểm; thương mại (tập trung các
loại dịch vụ phục vụ xuất khẩu); vận tải, kho
bãi, dịch vụ cảng (chú ý các dịch vụ hàng hải
quốc tế); bưu chính - viễn thông và công nghệ
thông tin - truyền thông; kinh doanh tài sản -
bất động sản (phát triển đô thị mới; nhà ở; văn
phòng cho thuê); dịch vụ tư vấn, khoa học -
công nghệ (thị trường công nghệ); du lịch (tập
trung du lịch quốc tế); y tế và giáo dục - đào
tạo chất lượng cao.
1 Nguyễn Trọng Hoài (2013), Nền kinh tế tri thức: Khung phân
tích và gợi ý chính sách cho Việt Nam
Chất lượng tăng trưởng kinh tế cũng
được nâng lên, tổng vốn đầu tư xã hội so với
GDP đã giảm từ 33,6% năm 2001 xuống còn
29,7% năm 2014. Hệ số ICOR giảm từ 4,31
năm 2001 xuống còn 3,61 năm 2014. Yếu
tố TFP trong cơ cấu tăng trưởng đã tăng từ
26,2% năm 2006 lên 30,1% năm 2012. Tuy
nhiên, do tính chất gia công của nền công
nghiệp chưa được thay đổi nên tỷ trọng giá trị
mới (VA) trong cơ cấu giá trị sản phẩm công
nghiệp chế biến đã giảm từ 26,07% năm 2000
xuống còn 21,62% năm 2014. Có thể nói đây
là điểm yếu trong quá trình phát triển công
nghiệp của Thành phố.
TPHCM đã chủ động và sáng tạo, đi đầu
trong nhiều mô hình để thúc đẩy quá trình
công nghiệp hóa kinh tế thành phố theo hướng
hiện đại như thí điểm xây dựng khu chế xuất,
phát triển các khu công nghiệp tập trung, xây
dựng khu công nghệ cao, xây dựng khu phần
mềm Quang Trung, khu nông nghiệp ứng
dụng kỹ thuật cao v.v cùng với nhiều biện
pháp khác để thúc đẩy quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, nhưng kết quả đạt được còn xa
so với yêu cầu và mục tiêu đề ra.
Mặc dù nhiều Nghị quyết của Đảng đã đặt
vị trí vai trò của khoa học - công nghệ; giáo
dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu trong
quá trình CNH-HĐH nền kinh tế đất nước
nhưng trên thực tế khoa học - công nghệ và
giáo dục - đào tạo chưa có tác động tích cực
thúc đẩy có hiệu quả quá trình CNH-HĐH các
ngành kinh tế. TPHCM đi đầu trong việc phát
triển công nghệ và có nhiều sáng tạo trong
việc hỗ trợ ứng dụng khoa học công nghệ
trong sản xuất kinh doanh, nhưng hàm lượng
khoa học công nghệ trong giá trị sản phẩm
chưa được nâng lên đáng kể. Thậm chí Thành
phố lại thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao
so với yêu cầu phát triển. Mặc dù được đánh
115
Vai trò của giáo dục . . .
giá là trung tâm khoa học công nghệ lớn của
cả nước, nhưng lại là nơi thiếu nguồn nhân
lực chất lượng cao theo yêu cầu chuyển dịch
cơ cấu kinh tế.
Theo số liệu sáu tháng đầu năm 2016 từ
Trung tâm dự báo nhu cầu nhân lực và thông
tin thị trường lao động TP.HCM cho thấy lực
lượng lao động chưa qua đào tạo chiếm tới
33.27%, công nhân kỹ thuật lành nghề chỉ
có 8.14%, số lượng lao động có trình độ cao
đẳng và đại học chỉ chiếm trên 28%, tuy nhiên
số lượng thất nghiệp cũng nhiều. Ngoài ra
hiện nay năng suất lao động của Việt Nam nói
chung và Thành phố nói riêng cũng đạt mức
rất thấp so với các nước trên thế giới, chẳng
hạn như theo báo của của CIEM cho biết 1 lao
động Singapore bằng 16 lao động Việt Nam,
một lao động Hàn Quốc bằng 7 lao động Việt
Nam (Vnexpress, 2016). Do đó có thể thấy
không chỉ vấn đề số lượng mà Thành phố cần
đầu tư hơn nữa cho chất lượng nguồn nhân
lực. Cách duy nhất đó chính là thông qua giáo
dục và đào tạo.
Bảng 2: Phân Tích Chỉ Số Cơ Cấu Cầu Nhân Lực Theo Trình Độ Nghề Trên Địa Bàn Thành
Phố Hồ Chí Minh 06 Tháng Đầu Năm 2016
STT Trình Độ
Chỉ số 06
tháng đầu năm
2015(%)
Chỉ số 06
tháng đầu năm
2016(%)
So sánh
chỉ số (%)
1 Lao động chưa qua đào tạo 33.19 33.27 2.77
2 Sơ cấp nghề 7.82 5.13 -32.70
3 Công nhân kỹ thuật lành nghề 5.44 8.14 53.52
4 Trung cấp (CN-TCN) 20.12 23.97 22.13
5 Cao đẳng (CN-CĐN) 17.46 13.75 -19.25
6 Đại học 15.53 15.62 3.12
7 Trên đại học 0.43 0.11 -73.85
Tổng số
(100% =
Số người)
80,692 82,732 2,040
Nguồn: Trung tâm dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động TP.HCM
Giáo dục - đào tạo ở đây có những vai
trò hết sức quan trọng, không chỉ trong việc
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực mà còn
có những tác động gián tiếp đến nền kinh tế
và xã hội, giúp thành phố từng bước thực hiện
mục tiêu CNH-HĐH và hướng đến nền kinh
tế tri thức. Thứ nhất giáo dục và đào tạo nhằm
nâng cao kỹ năng, hiểu biết chuyên môn giúp
tăng chất lượng nguồn nhân lực, cho cả khối
đơn vị hành chính nhà nước và doanh nghiệp,
từ đó tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển,
cải thiện năng suất lao động và giá trị đầu ra
của nền kinh tế. Thứ hai giáo dục đào tạo sẽ
nâng cao trình độ dân trí, và hiểu biết của toàn
xã hội, giúp tạo một xã hội văn minh và môi
trường thúc đẩy học hỏi và sáng tạo ở mỗi cá
nhân và tổ chức. Thứ ba đào tạo theo nhu cầu
xã hội giúp đáp ứng kịp thời nhu cầu nhân lực
và sự phát triển của nền kinh tế giúp hội nhập
nhanh với thế giới.
116
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
4. GIẢI PHÁP ĐÀO TẠO PHÁT
TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT
LƯỢNG CAO CHO THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH
Trong ngắn hạn, với vai trò của giáo dục
và đào tạo đối với tiến trình bồi dưỡng nguồn
nhân lực, cần thiết phải nâng cao chất lượng
giáo dục và đào tạo ở tất cả các bậc học.
Trong đó, bước quan trọng đầu tiên là phải
có sự đổi mới cả về mục tiêu, chương trình
và phương pháp dạy học ở tất cả các bậc học.
Phương pháp dạy học phải xuất phát từ mục
tiêu đào tạo, gắn với nội dung và phù hợp
với thực tiễn; rèn luyện và tạo điều kiện cho
người học nêu quan điểm và cách nhìn của
mình, tạo thói quen suy nghĩ độc lập. Chuẩn
hoá đội ngũ giảng viên, giáo viên, đảm bảo
sự kết hợp giữa kiến thức chuyên môn với
phương pháp sư phạm hiện đại, có tư cách
đạo đức tốt, phương pháp tư duy khoa học
Các cơ quan quản lý giáo dục, trước hết là
Bộ Giáo dục và Đào tạo, cần xây dựng lộ
trình triển khai chuẩn hoá giảng viên cả về
số lượng và chất lượng. Đặc biệt, cần tăng
cường giao lưu và hợp tác trong lĩnh vực
giáo dục và đào tạo với các nước có nền giáo
dục phát triển. Đồng thời, Nhà nước cần có
sự đầu tư thoả đáng nhằm hoàn thiện cơ sở
vật chất phục vụ công tác giảng dạy, học tập
và nghiên cứu ở các trường cao đẳng và đại
học, như hệ thống phòng thí nghiệm, thư
viện, giảng đường.
Bên cạnh đó, cần chuẩn hoá chương
trình và giáo trình đào tạo đảm bảo phù hợp
với yêu cầu của thực tiễn xã hội, xác định
ngành nghề mũi nhọn nhằm đào tạo đội ngũ
chuyên gia có trình độ cao. Đẩy mạnh công
tác nghiên cứu khoa học của giảng viên và
sinh viên. Đây là một yêu cầu bắt buộc đối
với chương trình đại học và cao đẳng. Các
đề tài nghiên cứu phải có tính thực tiễn cao.
Khắc phục tình trạng phiến diện, chỉ giỏi về lý
thuyết nhưng lại kém về thực hành – một thực
tế khá phổ biến mà sinh viên nước ta đang
mắc phải. Đổi mới công tác quản lý giáo dục
một cách cơ bản và toàn diện cả về tư duy
lẫn phương thức quản lý theo hướng nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục và đào
tạo. Tập trung vào quản lý nội dung và chất
lượng giáo dục và đào tạo, tăng cường công
tác kiểm tra, thanh tra đối với các cơ sở giáo
dục và đào tạo. Nhà nước cần giao quyền tự
chủ hơn nữa cho các trường đại học và cao
đẳng để các trường có điều kiện chủ động
trong việc hợp tác quốc tế và nghiên cứu khoa
học1. (Nguyễn Văn Sơn, 2007).
Cũng cần đa dạng các loại hình đào tạo,
từ chính quy, không chính quy cho đến học
tập trực tuyến giúp người học có điều kiện
trau dồi nghề nghiệp, kiến thức, và hiểu biết
của mình cho những lĩnh vực mà mình quan
tâm. Hiện nay với sự phát triển về hệ thống
thông tin truyền thông hạ tầng giúp cho mọi
người có khả năng truy cập internet dễ dạng
hơn, ngoài ra loại hình đào tạo trực tuyến
cũng đang rất phát triển, thành phố cần quan
tâm và có những chương trình đầu tư khuyến
khích phát triển các loại hình này, vì giúp
cho người học có điều kiện học tập và trau
dồi bất cứ khi nào, và có thể tùy chỉnh lượng
kiến thức cho phù hợp với sở thích và khả
năng của người học. Chẳng hạn thành phố
có thể đầu tư để xây dựng một hệ thống trực
tuyến để đào tạo nghề và nâng cao kiến thức
cho người dân ở thành phố giúp nâng cao
dân trí, xây dựng một văn hóa và cộng đồng
1 Nguyễn Văn Sơn (2007), Nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
và phát triển kinh tế tri thức, Tạp chí Triết học, 9(196). http://
philosophy.vass.gov.vn/nghien-cuu-theo-chuyen-de/Chinh-
tri-Xa-hoi/Nang-cao-chat-luong-nguon-nhan-luc-phuc-vu-su-
nghiep-cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-dat-nuoc-va-phat-trien-
kinh-te-tri-thuc-446.html
117
Vai trò của giáo dục . . .
học tập, kích thích tinh thần học hỏi và sáng
tạo của người dân từ đó sẽ cải thiện và nâng
cao tri thức cho người dân.
Trong dài hạn cần làm cho người dân hiểu
được vấn đề là ai cũng cần học tập, ai cũng
phải có nghĩa vụ học vì một đất nước, vì một
thế giới phát triển, học hỏi bất cứ lúc nào, bất
cứ ở đâu, không phân biệt tuổi tác, giới tính,
nghề nghiệp, trình độ học vấn v.v, ai cũng
có thể làm trò và ai cũng có thể làm thầy để
mỗi người được đi vào nhiều dạng khác nhau
của tri thức, để tiếp thu những tri thức mà nhân
loại sáng tạo ra, và cũng là để tự mình góp
phần tạo ra những tri thức mới, như vậy mới
được gọi là xã hội học tập (Learning Society)
từ đó từng bước nâng cao tri thức của người
dân, cải thiện chất lượng nguồn nhân lực của
thành phố, và gia tăng giá trị đầu ra của nền
kinh tế, tiến tới hội nhập và bắt kịp các sự phát
triển của các quốc gia khác.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Đức Khiêm (2016), Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Nguồn Nhân Lực Cho Phát Triển Kinh
Tế - Xã Hội Ở Nước Ta Hiện Nay.
anh-huong-den-nguon-nhan-luc-cho-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-o-nuoc-ta-hien-nay-209/
[2] Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang (2012), Knowledge transfer from business schools to
business organizations through in-service training students, Working Paper Series No. 2012/ 21,
DEPOCEN
[3] Nguyễn Trọng Hoài (2013), Nền kinh tế tri thức: Khung phân tích và gợi ý chính sách cho Việt Nam
[4] Nguyễn Văn Sơn (2007), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và phát triển kinh tế tri thức, Tạp chí Triết học, 9(196).
gov.vn/nghien-cuu-theo-chuyen-de/Chinh-tri-Xa-hoi/Nang-cao-chat-luong-nguon-nhan-luc-phuc-
vu-su-nghiep-cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-dat-nuoc-va-phat-trien-kinh-te-tri-thuc-446.html
[5] Nguyễn Tiến Dzũng & Nguyễn Phan Thu Hằng (2011), Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí Phát triển KH7CN, 14(1), Tr.101-111.
[6] Trần Du Lịch, 11/06/2015, CNH-HĐH và phát triển đô thị ở Thành phố mang tên Bác, Cổng thông tin
điện tử chính phủ,
[7] Trần Duy (2015), Vai trò của giáo dục và đào tạo đối với sự phát triển,
chi_tiet_tin/tabid/204/cateID/4/artilceID/15531/language/vi-VN/Default.aspx
[8] Trung tâm dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động TP.HCM (2016), Phân Tích Chỉ
Số Cơ Cấu Cầu Nhân Lực Theo Ngành Nghề - Trình Độ Nghề Trên Địa Bàn Thành Phố Hồ Chí
Minh 06 Tháng Đầu Năm 2016,
[9] Văn phòng UBND Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Thành phố Hồ Chí Minh đặt 12 chỉ tiêu phát
triển kinh tế - xã hội,
Chi-Minh-dat-12-chi-tieu-phat-trien-ktpedqp1sdfi8.aspx
[10] Văn Đình Tấn (n.d), Nguồn nhân lực trong công cuộc CNH, HĐH ở nước ta,
gov.vn/ArticleDetail.aspx?_Article_ID=212
[11] Vnexpress (2016), Tại sao 16 người Việt làm việc bằng một người Singapore,
vnexpress.net/tin-tuc/doanh-nghiep/tai-sao-16-nguoi-viet-lam-viec-bang-mot-nguoi-
singapore-3392360.html
[12] World Bank (1999), “Knowledge for development”, World Development Report
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 84_8641_2122334.pdf