Tài liệu Vai trò của doanh nghiệp trong việc nâng cao chất lượng giáo dục Đại học: TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 61 (01/2019) No. 61 (01/2019)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn
61
VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP TRONG VIỆC NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
The role of enterprises in improving higher education
TS. Trần Thị Sáu
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
Tóm tắt
Giáo dục và đào tạo gắn với thực tiễn nghề nghiệp là yêu cầu tất yếu đối với các trường đại học, nhất là
trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế. Để làm tốt điều này các trường đại học
cần thiết lập mối quan hệ gắn kết với các doanh nghiệp. Nhà trường và doanh nghiệp cùng tham gia đào
tạo. Bài viết đề cập đến vai trò của doanh nghiệp trong quá trình nâng cao chất lượng giáo dục đại học
và bước đầu nghiên cứu những biện pháp tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa nhà trường và doanh
nghiệp, qua đó nâng cao hiệu quả đào tạo.
...
8 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 378 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của doanh nghiệp trong việc nâng cao chất lượng giáo dục Đại học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 61 (01/2019) No. 61 (01/2019)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn
61
VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP TRONG VIỆC NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
The role of enterprises in improving higher education
TS. Trần Thị Sáu
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
Tóm tắt
Giáo dục và đào tạo gắn với thực tiễn nghề nghiệp là yêu cầu tất yếu đối với các trường đại học, nhất là
trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế. Để làm tốt điều này các trường đại học
cần thiết lập mối quan hệ gắn kết với các doanh nghiệp. Nhà trường và doanh nghiệp cùng tham gia đào
tạo. Bài viết đề cập đến vai trò của doanh nghiệp trong quá trình nâng cao chất lượng giáo dục đại học
và bước đầu nghiên cứu những biện pháp tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa nhà trường và doanh
nghiệp, qua đó nâng cao hiệu quả đào tạo.
Từ khóa: doanh nghiệp, giáo dục đại học, trường đại học.
Abstract
Education and training associated with professional practice is an indispensable requirement for
universities, especially in terms of intellectual economic and international integration. In order to do this
well, universities should establish relationships with enterprises by joint training. The article mentions
the role of enterprises in the process of improving the quality of higher education and initially
investigates measures to strengthen cooperation ties between universities and enterprises, thereby
improving training effectiveness.
Keywords: interprise, higher education, universities.
1. Đặt vấn đề
Giáo dục là cách thức cơ bản để con
người và xã hội loài người phát triển. Chất
lượng nền giáo dục quyết định đến tốc độ
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Chính vì vậy, đổi mới căn bản, toàn diện
hoạt động giáo dục nhằm phát triển mạnh
mẽ nền giáo dục Việt Nam là một trong
những nội dung quan trọng được quán triệt
tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
XII và nghị quyết số 29-NQ/TW ngày
4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI.
Để triển khai có hiệu quả chủ trương đổi
mới, một trong những giải pháp mang tính
chiến lược là đổi mới tư duy giáo dục, gắn
giáo dục của nhà trường với thực tiễn nghề
nghiệp. Hoạt động này diễn ra liên tục từ
khâu tuyển sinh (đầu vào) đến khi sinh
viên tốt nghiệp (đầu ra) với mục tiêu đào
tạo người học ra trường đáp ứng tốt nhất
nhu cầu của nhà tuyển dụng và yêu cầu của
xã hội. Do đó, mọi giải pháp, biện pháp đổi
mới, nâng cao chất lượng giáo dục đại học
không thể tách rời với thực tiễn và hỗ trợ
Email: ttsau1509@gmail.com
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019)
62
của doanh nghiệp đối với hoạt động giáo
dục và đào tạo của nhà trường.
2. Nội dung
2.1. Vai trò của doanh nghiệp đối với
giáo dục đại học
Trong quá trình đào tạo ở trường đại
học, mối quan hệ gắn kết với doanh nghiệp
nhằm tạo môi trường thực hành nghề
nghiệp cho sinh viên và thu thập thông tin
từ người sử dụng lao động về trình độ
chuyên môn, năng lực hoạt động thực tiễn
và những phẩm chất cần thiết của lực
lượng lao động do nhà trường giáo dục và
đào tạo có vai trò đặc biệt quan trọng. Điều
đó thể hiện:
Thứ nhất, thông tin đa chiều từ doanh
nghiệp về trình độ chuyên môn, yêu cầu
nghề nghiệp, kỹ năng cứng, kỹ năng
mềm là cơ sở giúp lãnh đạo cơ sở giáo
dục đại học nhìn nhận và đánh giá khách
quan, toàn diện về sứ mạng, mục tiêu giáo
dục mà nhà trường đã xây dựng và triển
khai thực hiện. Qua hệ thống thông tin do
các nhà tuyển dụng cung cấp nhà trường
điều chỉnh mục tiêu, hoạch định chính sách
và triển khai kế hoạch hành động phù hợp
nhằm cung ứng nguồn nhân lực chất lượng
cao, đáp ứng yêu cầu phát triển của doanh
nghiệp trong điều kiện toàn cầu hóa và vận
hành nền kinh tế tri thức.
Thứ hai, thực tiễn của doanh nghiệp
với xu thế phát triển, cơ hội kinh doanh,
tiềm năng, thế mạnh của doanh nghiệp là
căn cứ giúp nhà trường xây dựng, đổi mới
các chương trình đào tạo, chương trình chi
tiết môn học của nhà trường phù hợp. Bốn
trăm năm trước Công nguyên khi được hỏi
người học nên được dạy điều gì triết gia
Aristippus của Hi Lạp đã trả lời. “Những
điều mà họ sẽ sử dụng khi họ trở thành
người lớn”. Điều này có nghĩa cần lựa
chọn những nội dung thiết thực, có ý nghĩa
đối với tương lai người học để đưa vào
chương trình giáo dục. Có những nội dung
rất quan trọng và hiển nhiên đối với người
dạy và người xây dựng chương trình nhưng
rất có thể với sinh viên lại không có nhiều
ý nghĩa cho công việc sau này của các em.
Chính vì vậy, những thông tin từ doanh
nghiệp sẽ hỗ trợ cho nhà trường xây dựng
chương trình giáo dục có chất lượng. Thực
tế hiện nay do thiếu kết nối thông tin giữa
nhà trường và doanh nghiệp nên khoảng
50% số sinh viên ra trường không kiếm
được việc làm hoặc làm việc không đúng
ngành nghề được đào tạo gây lãng phí
không nhỏ cho xã hội. Khảo sát của một số
trường trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh gần đây cho thấy, tỷ lệ sinh viên ra
trường có việc làm đúng với ngành học của
Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn (Ðại học Quốc gia thành phố Hồ Chí
Minh) khoảng 40%; Trường Đại học Bách
khoa (Ðại học Quốc gia thành phố Hồ Chí
Minh) 41%, Trường Ðại học Sư phạm Kỹ
thuật thành phố Hồ Chí Minh 65%, Trường
Cao đẳng Nguyễn Tất Thành (hệ cao đẳng)
63%.v.v.[7]. Khoảng 72.000 cử nhân, thạc
sĩ đang thất nghiệp mà Bộ Lao động-
Thương binh và Xã hội công bố năm 2014
là nỗi trăn trở lớn của xã hội. Không dừng
lại đó, theo thông tin từ thị trường lao động
Việt Nam quý I/2015 cho biết, số lao động
tốt nghiệp đại học, trên đại học thất nghiệp
là 177.700 người, cử nhân cao đẳng thất
nghiệp là 100.600 người [9]. Nhiều ngành
nghề mà những sinh viên tốt nghiệp xã hội
đang rất cần, tuy nhiên sinh viên vẫn thất
nghiệp do không đáp ứng được yêu cầu của
nhà tuyển dụng. Trong thời gian qua nhiều
công ty nước ngoài như công ty Intel, công
ty Samsung... hoặc công ty trong nước như
TRẦN THỊ SÁU TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
63
FPT có nhu cầu rất lớn về tuyển dụng sinh
viên tốt nghiệp vào làm việc nhưng chỉ có
một số ít sinh viên ra trường đáp ứng được
yêu cầu công việc. Trong lúc sinh viên ra
trường thất nghiệp rất nhiều thì thị trường
lao động thiếu hụt nghiêm trọng nguồn lực
lao động có khả năng đáp ứng yêu cầu của
nhà tuyển dụng, đó là thách thức lớn đối
với giáo dục đại học Việt Nam hiện nay.
Một trong những nguyên nhân của thực
trạng này là nội dung, chương trình đào tạo
của các trường đại học, cao đẳng chưa xuất
phát từ thực tế cuộc sống, chưa đáp ứng
yêu cầu về trình độ chuyên môn và năng
lực hoạt động trong môi trường toàn cầu
hóa, chương trình thiếu chú trọng rèn luyện
cho sinh viên kỹ năng giao tiếp, ứng xử, kỹ
năng làm việc nhóm, kỹ năng giải quyết
vấn đề, kỹ năng ra quyết định và chưa hình
thành, phát triển các đức tính, tác phong
cần thiết của người lao động hiện đại. Đặc
biệt, yêu cầu về những chuẩn mực trên đối
với mỗi ngành nghề, mỗi doanh nghiệp có
sự khác nhau, do vậy ý kiến từ doanh
nghiệp sẽ giúp nhà trường có cách tiếp cận
tổng thể và toàn diện khi xây dựng chương
trình đào tạo. Theo đánh giá của Ngân
hàng thế giới (WB), chất lượng nguồn
nhân lực hiện nay của Việt Nam đạt
3,79/10, xếp thứ 11/12 nước ở châu Á tham
gia xếp hạng. Chỉ số cạnh tranh nguồn
nhân lực Việt Nam chỉ đạt 3,39/10 điểm và
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế chỉ đạt
73/133 nước tham gia xếp hạng [6, tr.84].
Để khắc phục tình trạng trên, các trường
đại học phải tăng cường hợp tác với doanh
nghiệp trong quá trình xây dựng chương
trình đào tạo, chương trình chi tiết nhằm
đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
của các doanh nghiệp.
Thứ ba, sự kết nối với các doanh
nghiệp giúp nhà trường và các giảng viên
điều chỉnh hình thức, phương pháp dạy học
tích cực, chủ động nhằm hướng tới đào tạo
nguồn nhân lực không chỉ phát triển cao về
trí lực mà còn có đầy đủ năng lực và phẩm
chất để làm việc một cách hiệu quả. Qua hệ
thống thông tin này các giảng viên nắm
vững những yêu cầu về năng lực và kỹ
năng của người lao động, từ đó tiếp cận và
đổi mới phương pháp dạy theo hướng coi
trọng thực hành, tránh lối dạy thiên về lý
thuyết, khô khan, xa rời thực tế. Sở dĩ như
vậy vì "Nhà giáo dục lớn nhất vẫn là thực
tiễn, nhà trường lớn nhất vẫn là cuộc đời.
Không có gì làm mất uy tín của nhà giáo
dục hơn là sự tách rời giữa lời nói và việc
làm, giữa lý luận và việc làm" [4, tr.109].
Thứ tư, sự tham gia của doanh nghiệp
vào hoạt động đào tạo của nhà trường tạo
điều kiện cho sinh viên, giảng viên, các
nhà khoa học của nhà trường nghiên cứu,
sáng tạo và thực hiện các ý tưởng khoa học
của mình trên thực tế. Mô hình kết hợp
giáo dục giữa Nhà nước - Nhà trường -
Nhà nghiên cứu - Nhà tài trợ - Nhà tuyển
dụng sẽ tạo cơ hội huy động sức mạnh tổng
hợp của toàn xã hội trong quá trình đào tạo
nên lực lượng lao động có chất lượng cho
nền kinh tế.
Thứ năm, thường xuyên gắn kết giữa
hoạt động của doanh nghiệp với hoạt động
đào tạo của nhà trường đảm bảo lợi ích của
người học. Trước hết, qua thực tiễn của
doanh nghiệp sinh viên sẽ hiểu được thực
tế nghề nghiệp, những yêu cầu đối với
công việc và vị trí các em đảm nhận sau
này, qua đó có phương pháp học tập, rèn
luyện phù hợp với yêu cầu công việc trong
tương lai. Đồng thời, kênh thông tin của
doanh nghiệp và nhà trường được kết nối
thường xuyên tạo cơ hội cho các em, một
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019)
64
mặt có thể tiếp cận công việc khi còn đang
học, mặt khác có cơ hội tìm kiếm việc làm
ngay sau khi ra trường. Nhà trường chính
là cầu nối giữa sinh viên với doanh nghiệp.
Hiện nay, sinh viên ra trường tìm việc chủ
yếu qua thông tin mà các em cập nhật được
từ Internet, từ các phương tiện truyền
thông hoặc do nhà trường giới thiệu.v.v.
Tuy vậy, tỷ lệ sinh viên có được việc làm
qua giới thiệu của trường còn thấp. Điều
này, một phần do các trường đại học thiếu
thông tin về yêu cầu của các nhà tuyển
dụng để đổi mới chương trình đào tạo, một
phần do nhà tuyển dụng thiếu nhiệt tình
đón nhận sinh viên ra trường vì cho rằng
chất lượng đào tạo của nhà trường chưa sát
thực tế, khiến nhà tuyển dụng phải đào tạo
lại mới sử dụng được. Ðể giải quyết vấn đề
này, ngay từ khi đang học ở giảng đường,
nhà trường tạo điều kiện cho các em được
tiếp cận với công việc thực tế của các
doanh nghiệp.
Thứ sáu, bằng việc cung cấp cho nhà
trường những thông tin liên quan đến hoạt
động giáo dục, nhà trường điều chỉnh nội
dung, chương trình, phương pháp dạy học
tích cực và phù hợp, doanh nghiệp có cơ
hội được cung ứng nguồn nhân lực có chất
lượng cao, có khả năng làm việc hiệu quả
trong môi trường hợp tác và cạnh tranh.
Điều này mang lại lợi ích to lớn và lâu dài
cho các doanh nghiệp. Mối quan hệ hai
chiều này sẽ mang lại lợi ích to lớn và lâu
dài cho cả trường đại học, doanh nghiệp và
xã hội.
Thứ bảy, cơ sở vật chất, phòng thực
hành, thí nghiệm là một trong những yếu tố
quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng giáo
dục đại học. Trên cơ sở ý kiến của các nhà
tuyển dụng nhà trường xây dựng cơ sở
thực hành, thí nghiệm đảm bảo yêu cầu
nghề nghiệp trong thực tế. Điều này không
chỉ giúp nâng cao chất lượng dạy học mà
còn tránh lãng phí nguồn lực cho nhà
trường và xã hội.
Ngược lại doanh nghiệp cũng có lợi
ích to lớn khi kết nối với nhà trường. Lợi
ích này được xác định là lâu dài và bảo
đảm sự phát triển bền vững của doanh
nghiệp. Bởi lẽ nguồn lực lao động đáp ứng
yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ 4 là nhân tố quyết định năng suất
lao động và sự thành bại của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp luôn yên tâm có nguồn lực
lớn hỗ trợ cho mình khi có nhu cầu. Họ
cũng không mất nhiều chi phí tuyển dụng
và đặc biệt họ có thể chọn chính xác người
doanh nghiệp đang cần. Đồng thời doanh
nghiệp có cơ hội được đánh giá, góp ý với
nhà trường chương trình, nội dung đào tạo,
qua đó có thể đào tạo được những sinh viên
đáp ứng yêu cầu sử dụng của nhà tuyển
dụng. Đặc biệt nguồn nhân lực có khả năng
kết nối hình thành trí tuệ nhóm và sử dụng
công nghệ kết nối vạn vật nhằm hình thành
trí tuệ nhân tạo, đáp ứng yêu cầu công việc
của doanh nghiệp là xu thế tất yếu của nhà
trường và doanh nghiệp trong xã hội hiện
đại. Thông qua mối quan hệ này doanh
nghiệp có thể tài trợ các chương trình học
bổng hoặc hỗ trợ các chương trình nghiên
cứu khoa học của sinh viên như một hình
thức đầu tư và cũng là cách để doanh
nghiệp quảng bá vị thế của mình.
2.2. Biện pháp tăng cường mối
quan hệ gắn bó giữa trường đại học và
doanh nghiệp
Trong nền giáo dục hiện đại, với sự
phát triển mạnh mẽ của kinh tế tri thức, sự
lan tỏa của toàn cầu hóa và tác động sâu
sắc của cách mạng công nghiệp 4.0, hoạt
động liên kết giữa doanh nghiệp và nhà
TRẦN THỊ SÁU TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
65
trường trong công tác giáo dục và đào tạo
cũng như trong hoạt động sản xuất kinh
doanh cần được tiến hành thường xuyên và
hiệu quả. Mục tiêu này sẽ đạt được nếu
các bên chú trọng thực hiện những biện
pháp sau:
Một là, Nhà trường thường xuyên kết
nối và có những hình thức giới thiệu các
sinh viên giỏi tới thực tập, thử việc ở các
doanh nghiệp như một hình thức quảng bá
sản phẩm. Qua đó Nhà trường cho thấy
những lợi ích to lớn của doanh nghiệp khi
đầu tư vào đội ngũ lao động ngay từ khi
các em bước vào cổng trường đại học. Việc
doanh nghiệp đặt hàng cho trường đại học
đào tạo những người lao động đáp ứng yêu
cầu công việc sẽ giúp doanh nghiệp giảm
chi phí tuyển dụng, giảm chi phí đào tạo lại
và tìm được người lao động am hiểu hoạt
động doanh nghiệp, có thể thích ứng với áp
lực đến từ công việc. Để trở thành điểm kết
nối của doanh nghiệp, khi xây dựng mục
tiêu đào tạo, chuẩn đầu ra của các ngành,
trường đại học cần lấy doanh nghiệp làm
mục tiêu và động lực cho quá trình đào tạo.
Nhà trường đào tạo theo những năng lực,
kỹ năng mà doanh nghiệp cần, nhấn mạnh
những trải nghiệm thực tế của sinh viên.
Doanh nghiệp và nhà trường hỗ trợ lẫn
nhau trong công tác đào tạo nhân lực đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Đặc
biệt, nhà trường chú trọng mời các nhà
doanh nghiệp tham gia vào Hội đồng
trường, Hội đồng khoa học để các doanh
nghiệp vừa có trách nhiệm tham gia hoạt
động giáo dục của nhà trường, vừa sử dụng
nguồn lực do nhà trường đào tạo, qua đó
đánh giá chính xác nội dung, chương trình
đào tạo giúp nhà trường điều chỉnh, bổ
sung phù hợp thực tiễn. Khi xây dựng
chương trình đào tạo, chương trình chi tiết
học phần cần nhấn mạnh phần thực hành
tại các doanh nghiệp. Ngay từ năm đầu cần
đưa môn Kỹ năng mềm vào giảng dạy cho
sinh viên và thiết kế thời gian để các em có
thể được thực hành những kỹ năng cần
thiết ở doanh nghiệp. Hiện nay phần lớn
sinh viên ra trường còn thiếu tự tin, thiếu
hoặc chưa có những kỹ năng mềm cần thiết
đáp ứng các công việc mà doanh nghiệp
giao, thiếu hiểu biết về các chuẩn mực
nghề nghiệp, các yêu cầu làm việc trong
môi trường cạnh tranh và chuyên nghiệp,
nhiều khi thiếu tinh thần học hỏi, thiếu ý
chí, dễ chán nản khi gặp khó khăn trong
công việc. Theo nghiên cứu của các nhà
chuyên môn trên 80% sinh viên mới ra
trường có kiến thức nhưng quá yếu kỹ
năng xử lý những tình huống và điều đó
làm “mất điểm” ngay từ đầu tiếp xúc với
các nhà tuyển dụng [8]. Phần nhiều sinh
viên Việt Nam chưa có tính kỷ luật cao,
nhiều em khi đi làm vẫn quen với thời sinh
viên ngủ nướng và thiếu tính kỷ luật, vì
vậy trong cuộc chạy đua với công việc ở
các doanh nghiệp nhiều em đã bị thua
cuộc.
Hai là, trong quá trình nhà trường, bộ
môn xây dựng chương trình đào tạo,
chương trình chi tiết nhất thiết phải thông
qua các kênh thông tin khác nhau như tổ
chức Hội thảo, tổ chức các buổi giao lưu
hoặc lấy ý trực tiếp người sử dụng lao
động, người quản lý lao động về nội dung
chương trình. Doanh nghiệp căn cứ vào
nhu cầu thực tiễn của mình hỗ trợ nhà
trường xây dựng danh mục các kỹ năng,
kiến thức cần đào tạo. Bên cạnh đó nhà
trường nên phối hợp và tham khảo ý kiến
của các doanh nghiệp về việc phân bổ thời
gian của các môn học. Có những môn học
cần thiết cho công việc thực tế của sinh
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019)
66
viên sau này thì nên tăng cường thêm số
tiết học lý thuyết cũng như thực hành cho
sinh viên, có những môn học ít liên quan
đến công việc thực tế thì có thể giảm số tiết
hoặc giảm chương trình đào tạo nhằm mục
đích là đào tạo chiều sâu và đúng nội dung
chuyên ngành. Trường nên chủ động đến
với doanh nghiệp hơn nữa để biết được
nhu cầu của doanh nghiệp, từ đó đề ra
các chính sách và chương trình đào tạo
đúng hướng phù hợp với yêu cầu của các
doanh nghiệp.
Ba là, tạo dựng mối quan hệ bền vững
giữa nhà trường và doanh nghiệp. Trong
mối quan hệ này Nhà trường cần thiết lập
mối quan hệ hai chiều, không chỉ là yêu
cầu, trách nhiệm của Nhà trường đối với
sinh viên mà còn là nhu cầu, sự quan tâm
của doanh nghiệp đối với lực lượng lao
động tương lai của doanh nghiệp. Đưa
doanh nghiệp trở thành một trong những
chủ thể tham gia đào tạo nghề. Thay vì
doanh nghiệp đứng ngoài, thụ động thì nay
có cơ chế để doanh nghiệp chủ động tích
cực tham gia vào hệ thống này với vai trò
là nhà đào tạo, nhà đầu tư và đồng thời
cũng là người sử dụng “sản phẩm” của nhà
trường. Doanh nghiệp tham gia đào tạo với
giảng viên chính là những thợ bậc cao,
những kỹ sư lành nghề trong doanh nghiệp,
hướng dẫn các em trên những thiết bị máy
móc và các công việc cụ thể của doanh
nghiệp. Tạo cho sinh viên cơ hội tiếp cận
được với những sản phẩm thực tế công
nghệ hoặc quy trình mà doanh nghiệp đang
áp dụng là cách nhanh nhất giúp sinh viên
củng cố, mở rộng kiến thức trên lớp. Sinh
viên sẽ đảm trách những công việc từ đơn
giản đến trung bình. Chương trình học sẽ
được phát triển bởi sự hợp tác giữa nhà
trường và doanh nghiệp. Đồng thời nhà
trường có thể mời các kỹ sư, chuyên gia và
thợ bậc cao ở các doanh nghiệp về giảng
dạy tại trường. Ngoài ra, nhà trường cũng
có thể gửi giảng viên đến doanh nghiệp để
học hỏi công nghệ mới. Nhà trường và
doanh nghiệp có thể hợp tác thành lập
trung tâm đào tạo tại chỗ, nhận sinh viên
về đào tạo và thực tập. Sinh viên được đào
tạo một thời gian tại nhà trường sau đó đào
tạo tại doanh nghiệp. Để làm tốt điều này
các trường đại học phải tạo được niềm tin
về lợi ích mà mối quan hệ giữa trường đại
học với doanh nghiệp mang lại. Vì vậy,
nhà trường cần xây dựng niềm tin và thiết
lập mối quan hệ bền vững, có tính chiến
lược lâu dài với doanh nghiệp. Ðối với
trường đại học, việc tham gia hợp tác là
đóng góp một phần hoàn thiện các kỹ năng
thực hành cho sinh viên và mang lại lợi ích
xã hội nhiều hơn nhưng các trường đại học
vẫn chưa chủ động tham gia vào vấn đề
này như một phần tất yếu của quá trình đào
tạo và nghiên cứu ứng dụng. Điều này đòi
hỏi nhà trường phải xây dựng chiến lược
giáo dục hiệu quả nhằm cung ứng cho các
doanh nghiệp những đội ngũ lao động có
khả năng đáp ứng yêu cầu cao từ các đơn
đặt hàng của doanh nghiệp.
Bốn là, trong quá trình đào tạo nhà
trường, khoa, bộ môn cần có nhiều seminar
với sự tham gia của các doanh nghiệp để
sinh viên được tiếp xúc nhiều hơn với thực
tế và doanh nghiệp có điều kiện khảo sát
trình độ sinh viên, tạo thuận lợi cho công
tác tuyển dụng khi có nhu cầu. Định kỳ tổ
chức Hội thảo với sự tham gia của đông
đảo các doanh nghiệp, qua hội thảo các
chuyên gia, các nhà tuyển dụng có thể
chuyển đến sinh viên những kiến thức thực
tế, thiết thực thông qua việc chia sẻ kinh
nghiệm, thành công, thất bại hoặc các bài
TRẦN THỊ SÁU TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
67
tập tình huống để sinh viên khỏi bở ngỡ khi
ra trường. Các buổi seminnar, hội thảo sẽ
là cơ hội để trường đại học trao đổi thông
tin, giới thiệu về nhà trường và tăng cường
quan hệ hợp tác giữa hai bên.
Năm là, tăng cường hợp tác nghiên
cứu khoa học với doanh nghiệp. Yêu cầu
đặt ra là sản phẩm nghiên cứu khoa học
phải có người dùng, vì vậy nhà trường phải
chủ động liên hệ với doanh nghiệp, gặp gỡ,
trao đổi, thảo luận từ đó ký kết những hợp
đồng nghiên cứu khoa học, những giải
pháp kinh tế kỹ thuật giữa doanh nghiệp
với nhà trường. Đồng thời nhà trường, các
nhà khoa học giới thiệu các ý tưởng nghiên
cứu ứng dụng trong các doanh nghiệp, vừa
tăng tính thực tiễn của các công trình
nghiên cứu, vừa thu hút sự đầu tư, hỗ trợ
của doanh nghiệp, từ đó các nhà khoa học
có điều kiện tốt để triển khai nghiên cứu.
Doanh nghiệp đặt hàng cho sinh viên và
các nhà khoa học trong nhà trường nghiên
cứu công nghệ, máy móc, thiết bị theo yêu
cầu. Hoạt động hai chiều này nếu được
triển khai tốt sẽ là phương thức nâng cao
chất lượng đào tạo tối ưu, bởi lẽ kết quả
nghiên cứu là sự sáng tạo tri thức mang lại
lợi ích cho doanh nghiệp, nâng cao năng
lực cho nhà nghiên cứu đồng thời khuyến
khích sinh viên đam mê khoa học và thành
quả này là sự cống hiến cho xã hội.
Sáu là, các trường đại học xây dựng hệ
thống cơ sở dữ liệu về các doanh nghiệp
trên địa bàn, trong nước và tiến tới tiếp cận
các doanh nghiệp trên thế giới. Các thông
tin bao gồm địa chỉ, loại hình doanh
nghiệp, ngành nghề, nhu cầu tuyển dụng,
tiêu chuẩn, yêu cầu đối với người lao
động.v.v. Một trong những hạn chế làm
ảnh hưởng đến mối quan hệ hợp tác giữa
trường đại học và doanh nghiệp ở Việt
Nam là sự thiếu hụt thông tin từ cả hai
phía, thiếu đầu mối liên lạc trong việc hợp
tác. Việc thu thập thông tin về nhu cầu đào
tạo, chất lượng đào tạo của Nhà trường,
Khoa còn hẹp, chưa đầy đủ và kịp thời. Do
vậy, hệ thống cơ sở dữ liệu giúp nhà
trường, khoa xác định chỉ tiêu tuyển sinh
phù hợp, kịp thời có định hướng phát triển,
hoạch định chiến lược lâu dài cho nhà
trường, cung cấp thông tin việc làm cho
sinh viên đồng thời thường xuyên giữ mối
liên hệ với cựu sinh viên của trường. Đây
là kênh quan trọng giúp nhà trường gắn kết
chặt chẽ giữa nội dung đào tạo của nhà
trường với thực tiễn cuộc sống. Ý kiến thu
thập được từ cựu sinh viên sẽ là những
thông tin quý giá cho nhà trường trong
giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Bên
cạnh đó, nâng cao năng lực hoạt động của
Trung tâm (bộ phận) quan hệ doanh
nghiệp, phát huy tính tích cực chủ động
của khoa trong việc quảng bá, giới thiệu
ngành nghề và tăng cường hợp tác đào tạo,
nghiên cứu với các doanh nghiệp.
Bảy là, ngoài các hoạt động hợp tác
trực tiếp với doanh nghiệp, nhà trường còn
cần đẩy mạnh công tác lấy ý kiến phản hồi
từ doanh nghiệp. Để thu thập được nhiều
thông tin bổ ích từ doanh nghiệp về quá
trình đào tạo nhà trường cần chú trọng đầu
tư xây dựng bộ công cụ lấy ý kiến (phiếu
lấy ý kiến, phiếu phỏng vấn...) phù hợp,
qua đó thu nhận tối đa những thông tin
trung thực, khách quan và hữu ích cho quá
trình xây dựng chương trình và điều chỉnh
hoạt động giáo dục của nhà trường. Nhà
trường thường xuyên tăng cường nghiệp
vụ, kỹ năng và nghệ thuật lấy ý kiến cho
đội ngũ làm nhiệm vụ lấy ý kiến phản hồi
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thu thập
thông tin.
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019)
68
3. Kết luận
Nhà bác học nổi tiếng A.Einstein từng
khẳng định rằng đôi khi con người ta coi
Nhà trường chỉ là công cụ chuyển giao
phần lớn kiến thức đến thế hệ trẻ. Nhưng
sự thật không phải như vậy, tri thức thì khô
cằn còn nhà trường thì phải phục vụ cuộc
sống sinh động. Nhà trường phải phát triển
ở cá thể các phẩm chất và năng lực có giá
trị cho cuộc sống xã hội. Như vậy, xuất
phát từ triết lý giáo dục lấy thực tiễn xã hội
làm cơ sở xây dựng chiến lược giáo dục,
hoạt động giáo dục của trường đại học
không tách rời với thực tiễn doanh nghiệp.
Để làm tốt công tác này các trường đại học
nâng cao nhận thức, tạo dựng niềm tin của
các nhà tuyển dụng và của xã hội đối với
hoạt động hợp tác giữa trường đại học với
các đơn vị sử dụng lao động. Cần nhận
thấy rằng trong chiến lược phát triển nguồn
nhân lực phục vụ nền kinh tế sự kết nối
giữa nhà trường và doanh nghiệp là quyền
lợi và trách nhiệm chung của các bên. Nhà
trường không ngừng thiết lập và mở rộng
các mối quan hệ với các đơn vị tuyển dụng,
thu hút các doanh nghiệp tham gia đào tạo
và tích cực đóng góp ý kiến vào chương
trình và hoạt động giáo dục cũng như
nghiên cứu khoa học của nhà trường.
Doanh nghiệp được xác định như là mắt
xích quan trọng của quá trình đào tạo đồng
thời là nơi để kiểm chứng mức độ phù hợp
của chương trình giáo dục. Qua hệ thống
này nhà trường thường xuyên cập nhật
thông tin, điều chỉnh và hoàn thiện chương
trình giáo dục đáp ứng yêu về lực lượng
lao động của các doanh nghiệp. Mang thực
tiễn cuộc sống đến với Nhà trường và
mang tri thức đến với doanh nghiệp chính
là nguyên lý giáo dục hiện đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đức Chính (chủ biên) (2002), Kiểm
định chất lượng trong giáo dục đại học,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Trần Khánh Đức (2004), Quản lý và kiểm định
chất lượng đào tạo, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
3. Lương Vị Hùng, Khổng Khang Hoa (2008),
Triết học giáo dục hiện đại, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
4. Nguyễn Ngọc Long (1987), "Quán triệt mối
quan hệ giữa kinh tế với đạo đức trong đổi
mới tư duy", Tạp chí Nghiên cứu giáo dục.
5. Lê Nguyên Long (1999), Thử đi tìm những
phương pháp dạy học hiệu quả, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
6. Nguyễn Đình Luận, “Sự gắn kết giữa nhà
trường và doanh nghiệp trong đào tạo
nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế -
xã hội ở Việt Nam, thực trạng và khuyến
nghị”, Tạp chí Phát triển và Hội nhập số 22
tháng 5, 6/2015, tr.84
7. http: www.nhandan.com.vn
8. http: www.tuvantamly.net
9. http:doisongvaphapluat.com.vn ngày 21/7/2015
Ngày nhận bài: 19/10/2016 Biên tập xong: 15/12/2018 Duyệt đăng: 20/01/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 79_0115_2214984.pdf