Vai trò của công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) trong xây dựng trường học thông minh ở một số nước trên thế giới và giải pháp ứng dụng ICT trong phát triển trường học thông minh ở Việt Nam

Tài liệu Vai trò của công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) trong xây dựng trường học thông minh ở một số nước trên thế giới và giải pháp ứng dụng ICT trong phát triển trường học thông minh ở Việt Nam: VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 106-110; 94 106 Email: vuonganh02@gmail.com VAI TRÒ CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG (ICT) TRONG XÂY DỰNG TRƯỜNG HỌC THÔNG MINH Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ GIẢI PHÁP ỨNG DỤNG ICT TRONG PHÁT TRIỂN TRƯỜNG HỌC THÔNG MINH Ở VIỆT NAM Vương Quốc Anh - Đào Ngọc Chính - Phan Thị Bích Lợi Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam Ngày nhận bài: 27/4/2019; ngày chỉnh sửa: 16/5/2019; ngày duyệt đăng: 23/5/2019. Abstract: The information and communication technology (ICT) has been contributing an important role to educational development in all the nations around the world. Applying ICT in education is one of the top priorities in order to improve competence and profession for teachers and develop skills for students. This is also an important issue for educational institutions in developing modern and smart schools to meet the need of increasing education quality in the 21st century. The article introduces the ...

pdf6 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 339 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) trong xây dựng trường học thông minh ở một số nước trên thế giới và giải pháp ứng dụng ICT trong phát triển trường học thông minh ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 106-110; 94 106 Email: vuonganh02@gmail.com VAI TRÒ CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG (ICT) TRONG XÂY DỰNG TRƯỜNG HỌC THÔNG MINH Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ GIẢI PHÁP ỨNG DỤNG ICT TRONG PHÁT TRIỂN TRƯỜNG HỌC THÔNG MINH Ở VIỆT NAM Vương Quốc Anh - Đào Ngọc Chính - Phan Thị Bích Lợi Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam Ngày nhận bài: 27/4/2019; ngày chỉnh sửa: 16/5/2019; ngày duyệt đăng: 23/5/2019. Abstract: The information and communication technology (ICT) has been contributing an important role to educational development in all the nations around the world. Applying ICT in education is one of the top priorities in order to improve competence and profession for teachers and develop skills for students. This is also an important issue for educational institutions in developing modern and smart schools to meet the need of increasing education quality in the 21st century. The article introduces the roles of ICT in building smart schools in some countries around the world and proposes some solutions to apply ICT in building and developing smart schools in Vietnam. Keywords: Information and communication technology ICT, Smart School, Education. 1. Mở đầu Học sinh (HS) các nước tiên tiến ngày nay đang trưởng thành trong xã hội văn minh, cuộc sống tiện nghi và thụ hưởng một môi trường học tập, phát triển lí tưởng. Sự tiến bộ của khoa học công nghệ đang giúp cho giáo viên (GV) thực hiện tốt công việc chuyên môn của mình, truyền đạt kiến thức hiệu quả, dễ dàng tạo ra các hoạt động học tập nhằm phát triển kĩ năng mềm, kĩ năng sống cho HS và tạo điều kiện học tập theo nhu cầu tốt nhất cho HS của họ. Một trong những giải pháp trong giáo dục đang được đề cập nhiều nhất hiện nay, đó là giải pháp trường học thông minh (THTM). Mục tiêu chính của THTM là: 1) Xây dựng một môi trường học tập lí tưởng cho thế kỉ XXI; 2) Tích hợp môi trường đa phương tiện vào học tập; 3) Kiểm tra và nghiên cứu hiệu quả mới nhất của ICT trong giáo dục; 4) Phát triển tài liệu học tập cho các lứa tuổi khác nhau để phát triển sự hiểu biết và thúc đẩy HS thông qua các vấn đề thực tế và các phương pháp dạy học mới [1; tr 133]. THTM được thiết kế dựa trên nền tảng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) để tạo ra môi trường học tập, giảng dạy mọi lúc, mọi nơi và cải thiện hệ thống quản lí trường học và đào tạo HS dựa trên máy tính, công nghệ mạng. Trong THTM, GV và HS sẽ tương tác với các bài giảng điện tử, các bài học theo công nghệ thực tế ảo VR để nâng cao năng lực, kĩ năng và tiết kiệm thời gian. Đồng thời, HS có cơ hội để tiếp xúc với công nghệ cao và có thể bộc lộ khả năng của mình và cùng GV tạo ra nội dung bài học có tính ứng dụng thực tiễn. So với mô hình trường học truyền thống, THTM chú trọng đổi mới, tối ưu hóa thiết bị và tài nguyên dạy học, điều này mở ra cơ hội tương tác hai chiều giữa HS và GV, tạo điều kiện cho HS hoạt động nhiều hơn trong giờ học. Đó là điều kiện tốt, thuận lợi của người học để sau này sẽ triển khai và vận dụng sáng tạo những kết quả thu nhặt được trong quá trình học [2; tr 87]. Các nước Hoa Kì, Nhật Bản, Singapore và nhiều nước khác đã phát triển mô hình THTM để đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng giáo dục ở thế kỉ XXI. Bài viết giới thiệu một số vai trò của ICT trong xây dựng THTM của một số nước trên thế giới và đề xuất một số giải pháp ứng dụng ICT trong việc xây dựng, phát triển THTM ở Việt Nam. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Trường học thông minh Cụm từ “THTM” (Smart School) được xuất hiện lần đầu trước công chúng vào năm 1984 bởi Perkins và đồng sự, Đại học Harvard của Mĩ trong một dự án cùng tên. Theo đó, tư tưởng chính và cũng là mục tiêu của THTM là sử dụng ICT và các ứng dụng của nó nhằm đem lại trải nghiệm mới trong chương trình giáo dục. Perkins chỉ ra hai điểm chính của THTM đó là việc học tập cần tập trung vào phát triển tư duy HS và việc này đòi hỏi sự hiểu biết sâu sắc, linh hoạt và chủ động kiến thức và công nghệ [3; tr 35]. Mô hình này được một số trường chấp thuận, và xuất hiện ở cả các nước phát triển khác, đặc biệt trong các chương trình phát triển nguồn nhân lực [4; tr 10]. Tại Malaysia, THTM bắt đầu được quan tâm nghiên cứu và triển khai từ năm 1996, trong đó THTM được VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 106-110; 94 107 định nghĩa là “một cơ sở học tập được phát minh lại (reinvented) một cách có hệ thống về quá trình dạy - học cũng như quản lí nhà trường nhằm chuẩn bị cho HS trước kỉ nguyên số” [5]. THTM yêu cầu đội ngũ nhân sự có kĩ năng chuyên môn và các quy trình hỗ trợ được thiết kế tốt. Với mô hình của Malaysia, hai thành phần được xem như cơ bản đó là: 1) Môi trường dạy - học mới được xây dựng dựa trên các bài học kinh nghiệm về sư phạm tốt nhất khắp thế giới bao gồm chương trình, phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá, điều kiện đảm bảo dạy - học; 2) Cách thức “kích hoạt” yếu tố công nghệ trong nhà trường. Dự án được triển khai từ 1999 và hoàn thành thí điểm vào năm 2002. Tại Hàn Quốc, thuật ngữ “thông minh” (Smart) trong giáo dục thông minh, THTM, lớp học thông minh... được Chính phủ khởi xướng và trở thành chủ đề thảo luận của rất nhiều trường học từ 2011, trong đó, có 3 điểm quan trọng thể hiện sự “thông minh” trong các chủ thể này: 1) Phương pháp sư phạm mới; 2) Khẳng định vai trò của GV và HS là quan trọng như nhau trong lớp học; 3) Môi trường học tập được “giàu hóa” nhờ công nghệ điện toán đám mây, nhờ đó GV và HS có thể thoải mái download và upload tài liệu mở trên không gian mạng. Tóm lại, SMART là sự chuyển đổi từ giáo dục truyền thống sang mô hình mới, thể hiện tính Tự định hướng (Self- directed), Có động lực (Motivated), Thích ứng (Adaptive), Giàu hóa tài nguyên (Resource-enriched), Tích hợp công nghệ (Technology). Samsung cũng đề xuất giải pháp THTM bao gồm 3 thành phần lõi: 1) hệ thống quản lí có tính tương tác, 2) hệ thống quản lí học tập và 3) hệ thống thông tin HS. Các đặc tính và chức năng của giải pháp này nhằm mục tiêu tăng cường tính tương tác trong nhà trường, cá nhân hóa việc học, quản lí lớp học hiệu quả và giám sát việc học tập tốt hơn. Giải pháp của Samsung mang lại nhiều lợi ích cho nhà trường, với trọng tâm hướng tới giải pháp phần mềm và phần cứng, là thành tố không thể tách rời của THTM. Tại Việt Nam, có một số cách hiểu về THTM như một cơ sở giáo dục vận dụng linh hoạt, hiệu quả các nguồn lực trên nền tảng ứng dụng tiến bộ công nghệ kĩ thuật số nhằm nâng cao chất lượng giáo dục HS, đáp ứng yêu cầu của xã hội trong đào tạo thế hệ trẻ [6; tr 7]. 2.2. Vai trò của ICT trong trường học thông minh một số nước ICT là chữ viết tắt của Information and Communication Technologies (Công nghệ thông tin và truyền thông), là “tập hợp bao gồm các công cụ và tài nguyên công nghệ được sử dụng để giao tiếp, tạo lập, phổ biến, lưu trữ và quản lí thông tin” [4; tr 46]. Các công cụ, công nghệ bao gồm máy tính, phần mềm, mạng, truyền hình, điện thoại. Thế kỉ XXI chứng kiến sự bùng nổ của ICT trên toàn thế giới. Điều này đã thúc đẩy các nhà quản lí giáo dục xây dựng các chính sách mới nhằm đón đầu các mô hình trường học trong tương lai theo hướng “thông minh” hơn, ứng dụng nền tảng công nghệ hiện đại, đảm bảo HS được chuẩn bị để đáp ứng yêu cầu công dân hiện đại thế kỉ XXI. Mô hình THTM trên thế giới hiện nay thường bao gồm 3 thành tố chính là triển khai dạy - học thông minh, các quy trình quản lí THTM và điều kiện cơ sở vật chất, hạ tầng đáp ứng; trong đó ứng dụng ICT vào tổ chức triển khai dạy-học thông minh được quan tâm và nghiên cứu nhiều nhất. Trên thế giới, ICT trong các lớp học thông minh thường được sử dụng cho nhiều loại tương tác khác nhau như: trình chiếu, tương tác giữa các đối tượng trong lớp học và hoạt động cộng tác. Tại Mĩ hiện nay, các công cụ web 2.0 như Glogster, Kidblog, Linoit hay Skype được GV sử dụng thường xuyên nhằm đáp ứng các mục tiêu này. Ngoài ra, chúng cũng được sử dụng để giao tiếp, tương tác với không gian ngoài khuôn viên trường thông qua nền tảng trực tuyến. Trong các lớp học, GV có thể sử dụng máy tính xách tay, Webcam, máy chiếu, kết nối Internet để phát và tương tác với các lớp học khác. Trải nghiệm học tập cộng tác trên môi trường trực tuyến đem lại sự thích thú cho HS mà các lớp học truyền thống khó có thể tạo ra được. Tương tác web 2.0 không chỉ liên quan đến việc chia sẻ ý tưởng hoặc thông tin với người khác mà còn là sự nhận phản hồi ở phía ngược lại. Sự hợp tác này thu hút các nhóm HS gửi, nhận phản hồi, làm việc cùng nhau để thiết kế, xây dựng và chỉnh sửa sản phẩm. Những kĩ năng này rất cần thiết cho HS trong tương lai khi bắt đầu bước vào môi trường làm việc. Các lớp học kiểu mới trên nền tảng cộng tác, thảo luận này ngày càng xuất hiện nhiều hơn, ví dụ dự án TEAL (Technology-enable Active Learning) của đại học công nghệ Massachusetts khởi xướng. Các lớp học này tập trung vào việc tổ chức lại môi trường dạy-học theo hướng tăng cường tương tác giữa các đối tượng trong lớp học và xây dựng môi trường thảo luận một cách hoàn chỉnh. Điểm nổi bật của dự án là quy hoạch không gian phòng học với nhiều máy chiếu và hệ thống máy quay nhiều góc độ, với các bàn tròn cho HS bố trí xung quanh và bàn GV ở trung tâm lớp học đảm bảo tính giao tiếp hiệu quả trong lớp. Với TEAL, GV hoàn toàn có thể triển khai hệ thống dạy học theo mạng, mô phỏng hình ảnh 3D, chuyển hóa lớp học thành phòng thí nghiệm và thu thập thông tin 2 chiều qua hệ thống thông tin phản hồi cá nhân một cách dễ dàng và nhanh chóng. Tại Singapore, dự án lớp học tương lai của Đại học kĩ thuật Nang Yang ứng dụng ICT theo hướng khắp nơi là trường học, không hạn chế về thời gian và không gian, VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 106-110; 94 108 HS chỉ cần một cặp sách điện tử xách tay cỡ B4 được kết nối mạng là có thể tham gia học tập. Trong lớp học lắp đặt 5 bối cảnh đáp ứng mọi tình huống học tập, trên bàn HS luôn có một màn hình cảm ứng lớn với vai trò điều khiển trung tâm, HS chỉ cần lắp đặt cặp sách điện tử gần bàn học, cặp sách điện tử này có thể tự động đồng bộ với màn hình lớn, rất tiện lợi để giao lưu với HS khác, tương tác hoặc lập nhóm. Tính tương tác 2 chiều cũng được thể hiện qua kho thông tin, nơi GV và HS có thể giao-nhận bài tập cũng như phản hồi về các vấn đề trong bài học. Samsung cũng đề xuất giải pháp THTM của mình, sử dụng các thiết bị ICT hiện đại gồm: máy tính bảng, bảng tương tác điện tử, phần mềm quản lí học tập và hệ thống mạng để tạo ra môi trường lớp học thông minh, giúp kết nối HS và GV với phương pháp giảng dạy mới sử dụng các giáo trình điện tử. Mô hình này cho phép GV tương tác trực tiếp với HS, đưa giáo trình hay những yêu cầu xuống từng HS từ bảng tương tác điện tử thông qua máy tính bảng. Ở phía ngược lại, HS có thể gửi câu hỏi tới GV, tự tạo câu hỏi kiểm tra hay thực hiện bình chọn trên máy tính bảng. Trong khi đó, trên bảng tương tác điện tử, GV có thể quản lí được màn hình máy tính của từng HS, theo dõi quá trình học tập của từng em cũng như điều hành lớp học thông qua tính năng quản lí học tập. Cũng giống như các mô hình trên, điểm khác biệt của Samsung Smart School so với các phương pháp giảng dạy truyền thống là khả năng tối ưu hóa thiết bị kĩ thuật số với nội dung đa phương tiện, khuyến khích giao tiếp hai chiều giữa GV và HS, giúp GV giảng dạy hiệu quả hơn, đồng thời khuyến khích HS tham gia chủ động hơn vào nội dung giảng dạy. Giải pháp Samsung Smart School đã được triển khai thành công tại nhiều trường học ở Hàn Quốc, Mĩ, Trung Đông, một số quốc gia ở châu Âu, châu Á và Việt Nam. Ngoài ra, một số thuật ngữ thường được nhắc tới trong các nghiên cứu về THTM hay trường học tương lai ở các quốc gia như Mĩ, Nhật, Hàn Quốc, đó là điện toán đám mây (Cloud Computing) và trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence - AI). Tập đoàn NTT (Japan Telegraph and Telephone Corporation) của Nhật Bản đề xuất mô hình THTM dựa trên nền tảng điện toán đám mây kết hợp với bảng tương tác, máy tính và máy tính bảng. Các nội dung giảng dạy đều được số hóa và lưu trữ trên không gian mạng hay còn gọi là đám mây (Cloud), điều này giúp cho HS có thể dễ dàng truy cập và sử dụng các tài nguyên học tập từ bất cứ đâu có kết nối mạng. Ngoài ra, với nền tảng điện toán đám mây HS có thể tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ học tập còn dang dở trên lớp mà không cần phải mang máy tính bảng, máy tính xách tay hoặc thiết bị lưu trữ về nhà làm việc. Đối với ứng dụng trí tuệ nhân tạo, gần đây, các Robot AI đã bắt đầu xuất hiện tại các lớp học với vị trí của một “người” trợ giảng. Robot này có thể xây dựng dưới dạng các Autobot ảo hoặc Robot vật lí hình người đang được sử dụng ngày một phổ biến ở Hàn Quốc và Nhật Bản. Các Robot này trở thành một nguồn lực quan trọng bổ sung cho việc dạy - học đặc biệt với các môn học liên quan tới ngôn ngữ. HS có thể trải nghiệm nhiều cách thực hành đàm thoại khác nhau và AI sẽ theo dõi các lỗi sai về cách dùng từ và phát âm. Thực tế cho thấy, các Robot AI này có thể giải quyết các vấn đề HS thường gặp phải khi giao tiếp với GV như nhút nhát, mất tự tin và xấu hổ khi lặp lại lỗi sai. Các Robot không “phàn nàn” về các vấn đề này, chúng có thể làm việc kiên trì, không mệt mỏi, than phiền với các lỗi của HS. Các AI như Echo hay Alexa có thể nhanh chóng truy cập cơ sở dữ liệu khổng lồ giữa bài học để cung cấp thông tin đối tượng theo thời gian thực. Bên cạnh các ứng dụng trong dạy học ngôn ngữ, Robot cũng có thể được lập trình để giám sát và điều hành các công việc khác như thu thập bài tập, cảnh báo cha mẹ về các nhiệm vụ/bài tập chưa hoàn thành, giúp GV xây dựng các bài kiểm tra, làm việc riêng với từng HS gặp khó khăn để bồi dưỡng với các nội dung phù hợp đảm bảo không có HS nào bị bỏ lại phía sau... Tất cả những yếu tố trên giúp GV có nhiều thời gian và không gian để phát huy vai trò chính của mình trong lớp học đó là người kiến tạo, định hướng, truyền cảm hứng và đồng cảm cùng HS, những việc mà ICT hiện nay chưa thể làm được. 2.3. Đề xuất một số giải pháp ứng dụng ICT trong việc phát triển trường học thông minh ở Việt Nam 2.3.1. Nâng cấp, đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ thông tin - Hạ tầng công nghệ thông tin (CNTT): Hạ tầng CNTT đóng vai trò quan trọng trong việc ứng dụng ICT vào quá trình dạy học, điều hành và quản lí THTM. Xây dựng, nâng cấp hạ tầng CNTT đi đôi với triển khai các ứng dụng quản lí để khai thác có hiệu quả, đồng thời việc phân tích thiết kế hệ thống có tính mở, cho phép dễ dàng mở rộng về quy mô và nâng cấp về công nghệ. Hạ tầng CNTT bao gồm: hệ thống Internet tốc độ cao, phủ sóng toàn bộ trường, kết nối ổn định và có đường truyền dự phòng; hệ thống camera quan sát trong các lớp học, sân trường và một số khu vực cần thiết; hệ thống máy tính bao gồm máy chủ có chức năng quản lí, giám sát, điều hành toàn bộ hệ thống máy tính trong các phòng học, hệ thống camera (xem hình 1, trang bên). VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 106-110; 94 109 Hình 1. Mô hình hạ tầng CNTT trong THTM - Đầu tư xây dựng hệ thống các loại hình phòng đạt tiêu chuẩn với trang thiết bị đồng bộ và hiện đại: hội trường, phòng họp, nhà tập đa năng, nhà công vụ, nhà ăn, hệ thống phòng chức năng, phòng học bộ môn, phòng thực hành STEM. + Hội trường, phòng họp trực tuyến: sử dụng công nghệ mạng truyền thông hiện đại như IP, ATM, ISDN. Cung cấp khả năng truyền hình ảnh, âm thanh trực tuyến giữa nhiều điểm kết nối qua mạng, tăng cường khả năng tương tác, trao đổi thông tin, giúp GV nâng cao năng lực chuyên môn, tiếp cận kiến thức mới nhanh chóng giữa các trường học trong nước và ngoài nước. + Xây dựng phòng học, lớp học thông minh: Phòng học, lớp học thông minh được trang bị tất cả các tính năng ưu việt để phục vụ tốt cho việc giảng dạy và học tập, trong đó chú trọng đến khả năng truyền phát âm thanh, hình ảnh, video... giúp cho GV và HS có thể tương tác với nhau một cách dễ dàng và đạt hiệu quả cao nhất. Ngoài ra, các phần mềm giảng dạy điện tử giúp GV có thể chuyển tải kiến thức cho HS nhanh chóng, dễ hiểu, hiệu quả nhất. Đồng thời, HS cũng có thể tương tác với GV và tương tác với nhau thông qua các thiết bị và hệ thống bài học, dữ liệu được kết nối mạng. Mô hình lớp học ứng dụng ICT với các thiết bị tương tác dùng chung cho cả lớp (bảng truyền thống kết hợp với bảng tương tác, máy chiếu gần, máy chiếu vật thể, que chỉ, bút viết bảng) và thiết bị cho từng HS (máy tính bảng kèm sách giáo khoa được số hóa) đi cùng các phần mềm quản lí lớp học, bài giảng điện tử,... (hình 2). Hình 2. Mô hình bố trí thiết bị trong lớp học thông minh VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 106-110; 94 110 + Xây dựng phòng học bộ môn, phòng đa năng, phòng thực hành STEM: Ngoài các phòng học thông thường, phòng học bộ môn được xây dựng để đáp ứng yêu cầu dạy học của những môn khoa học đòi hỏi tính thực nghiệm cao như Vật lí, Hóa học, Sinh học, Công nghệ, Tin học, Ngoại ngữ và các môn học đòi hỏi phải có không gian hoạt động dạy học đặc biệt như Âm nhạc, Mĩ thuật, Giáo dục thể chất. Phòng học bộ môn, phòng đa năng được trang bị các trang thiết bị hiện đại, các phần mềm chuyên dụng cho phép khai thác các tính năng tối đa của công nghệ; giúp HS nâng cao kĩ năng thực hành, khả năng nghiên cứu khoa học. Phòng thực hành STEM được xây dựng để áp dụng phương pháp giáo dục STEM vào trong giảng dạy nhằm đẩy mạnh đổi mới hoạt động dạy học theo định hướng giáo dục tăng cường năng lực tiếp cận của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4. + Xây dựng thư viện điện tử: Thư viện điện tử là thư viện mà ở đó các bộ sưu tập được lưu trữ dưới dạng số (tương phản với các định dạng in, vi dạng, hoặc các phương tiện khác) và có thể truy cập bằng máy tính. Giúp GV, HS tìm kiếm được các nguồn tài liệu số một cách nhanh chóng, tiện lợi. Thư viện điện tử bao gồm: Tài liệu điện tử: sách, báo, tạp chí; Hệ thống giám sát, quản lí thư viện; Chương trình đào tạo GV trực tuyến; Thư viện giáo án, bài giảng, video tham khảo. 2.3.2. Quản lí, điều hành trường học Xây dựng phần mềm quản lí đa nền tảng với các mục tiêu: - Quản lí hành chính: Các kế hoạch, công văn, văn bản được số hóa giúp cán bộ quản lí thuận lợi trong việc tra cứu, xử lí công việc theo năm học, theo nội dung; Sử dụng chữ kí số trong việc điều hành công việc của trường; Quản lí, thống kê học phí của HS, lương của cán bộ, GV, nhân viên - Quản lí nhân sự: Quản lí cán bộ, GV: Lưu trữ thông tin của cán bộ, GV, nhân viên; Phân công lịch giảng dạy của GV theo tuần, theo tháng; Quản lí HS: Lưu trữ hồ sơ, kết quả học tập, học bạ điện tử, sổ liên lạc điện tử của HS. Giúp phụ huynh dễ dàng tra cứu kết quả học tập của con em mình khi được cấp mã điện tử. - Quản lí nội dung, chương trình đào tạo: Chương trình giáo dục được xây dựng theo hướng hiện đại, tiếp cận với trình độ tiên tiến trong khu vực và thế giới; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục thể chất và bồi dưỡng nhân cách người học; tạo điều kiện để HS phát triển toàn diện, chuyên sâu một lĩnh vực, giỏi tin học và ngoại ngữ; phát triển năng lực tư duy độc lập, sáng tạo; kĩ năng thực hành, tăng khả năng hoạt động thực tiễn; Thực hiện số hoá các tài liệu đào tạo chính thống, bao gồm sách giáo khoa, sách tham khảo, các học liệu nâng cao, tăng cường; Lựa chọn giới thiệu một số chương trình, tài liệu dạy học tiên tiến của nước ngoài, đưa lên hệ thống kho học liệu khai thác chung để GV và HS tham khảo, vận dụng. 2.3.3. Tăng cường hợp tác, tổ chức chương trình đào tạo - Đẩy mạnh hợp tác về đào tạo, nghiên cứu với các cơ sở giáo dục có nền tảng sử dụng ICT tốt trong và ngoài nước nhằm học tập, trao đổi những kinh nghiệm về công tác nâng cao chất lượng dạy và học; chú trọng hợp tác về xây dựng chương trình, tài liệu dạy học, bồi dưỡng GV và đào tạo HS; - Tăng cường cơ hội để GV, HS được tham quan, giao lưu, học tập tại các cơ sở giáo dục có uy tín ở nước ngoài; - Tổ chức, hợp tác mời các chuyên gia trong lĩnh vực ứng dụng ICT trong dạy học và các GV giỏi trong và ngoài nước đến trao đổi kinh nghiệm, đào tạo bổ sung kiến thức cho cán bộ quản lí, GV và HS; - Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lí, GV đạt chuẩn và đủ điều kiện đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng ứng dụng ICT trong dạy học; - Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lí, GV kĩ thuật để vận hành hệ thống các phòng học, trang thiết bị hiện đại, phần mềm dạy học, phần mềm quản lí. 3. Kết luận Hiện nay, việc ứng dụng ICT trong các trường học ở Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn. Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập quốc tế và bước vào cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, ngành Giáo dục cần phải tiếp cận các tiến bộ của khoa học, công nghệ và đầu tư, xây dựng các THTM, hiện đại để đào tạo được HS, sinh viên có năng lực chuyên môn đáp ứng được với yêu cầu của một công dân thế kỉ XXI. Trong các THTM, GV không chỉ là những nhà giáo dục mà còn là người bạn đồng hành cùng HS trong việc định hướng nghề nghiệp. Các hoạt động nhóm trong trường được khuyến khích phát triển, HS học theo năng lực và có thể dễ dàng tiếp cận với các tài liệu học tập qua Internet. Việc tích hợp ICT vào chương trình học mang lại nhiều lợi thế như nội dung chương trình trở nên linh hoạt hơn, tăng cường sự quan tâm của người học và nâng cao khả năng sáng tạo cũng như các kĩ năng cho HS. ICT cho phép người học khám phá hơn là chỉ đơn thuần lắng nghe và ghi nhớ. Việc xây dựng THTM ở Việt Nam hiện nay cần có lộ trình và giải pháp thích hợp, ngoài việc ứng dụng ICT trong xây dựng, phát triển THTM cũng cần có thêm nhiều nghiên cứu về điều kiện triển khai cũng như sự phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương được đầu tư xây dựng. (Xem tiếp trang 94) VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 88-94 94 2.3.6. Quản lí các điều kiện phục vụ công tác giáo dục hướng nghiệp Bảng 11 cho thấy, mức độ thực hiện và hiệu quả thực hiện của công tác quản lí các điều kiện phục vụ hoạt động GDHN chỉ dừng ở mức trung bình với điểm là 3,33 và 3,25. Trong đó, các nội dung có thứ hạng cao về cả mức thường xuyên và hiệu quả là “Đầu tư trang thiết bị trong phục vụ GDHN (các test tâm lí, tư liệu về GDHN)” và “Phân công trách nhiệm bảo quản trang thiết bị của trường cho từng cá nhân, đơn vị cụ thể”. 2.4. Đánh giá chung về thực trạng quản lí công tác giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở các trường trung học phổ thông ở Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh Bảng 12. Đánh giá chung về thực trạng quản lí công tác GDHN Quản lí GDHN Mức độ thực hiện Hiệu quả thực hiện 1. Xây dựng kế hoạch GDHN 3,18 3,20 2. Tổ chức, chỉ đạo công tác GDHN 3,28 3,21 3. Nội dung, chương trình và phương pháp, hình thức GDHN 3,20 3,22 4. Kiểm tra, đánh giá công tác GDHN 3,06 3,14 5. Các điều kiện phục vụ GDHN 3,33 3,25 Tổng trung bình chung 3,21 3,20 Bảng 12 cho thấy, việc quản lí và hiệu quả của nó chỉ đạt ở mức trung bình (3,21 cho mức độ thường xuyên và 3,20 cho hiệu quả thực hiện). Trong đó, mức độ thường xuyên thực hiện các chức năng quản lí GDHN cao hơn hiệu quả thực hiện nhưng sự chênh lệch không nhiều. Số liệu này cho thấy vấn đề quản lí GDHN tại Quận 4, TP. Hồ Chí Minh còn nhiều điều cần thực hiện để nâng cao hơn nữa hiệu quả của quản lí GDHN. 3. Kết luận GDHN là một nội dung quan trọng trong hoạt động giáo dục của trường THPT, góp phần cụ thể hóa mục tiêu đào tạo của nhà trường và là bước khởi đầu quan trọng của quá trình phát triển nguồn nhân lực. Để HS có một nghề nghiệp và một tương lai vững chắc phụ thuộc nhiều vào sự quyết định đúng đắn ban đầu trong việc lựa chọn ngành, nghề phù hợp với năng lực, sở trường của cá nhân, phù hợp với yêu cầu của nghề và đáp ứng được sự phát triển KT-XH của địa phương, đất nước. Xuất phát từ cơ sở lí luận và thực tiễn của vấn đề quản lí hoạt động GDHN tại các trường THPT ở Quận 4, TP. Hồ Chí Minh, nghiên cứu đã phân tích được các thực trạng hoạt động dạy học cũng như quản lí hoạt động GDHN; đây sẽ là cơ sở quan trọng để đề xuất các biện pháp tăng cường đổi mới quản lí hoạt động GDHN cho HS tại các trường THPT Quận 4, TP. Hồ Chí Minh Tài liệu tham khảo [1] Bộ GD-ĐT (2007). Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học, ban hành kèm theo Quyết định số 07/2007/QĐ-BGD-ĐT ngày 02/4/2007. [2] Bộ GD-ĐT (2011). Thông tư số 55/2011/TT- BGDĐT ngày 22/11/2011 về Ban hành Điều lệ Ban đại diện cha mẹ học sinh. [3] Bộ GD-ĐT (2013). Tài liệu tập huấn Đổi mới giáo dục hướng nghiệp trong trường trung học. [4] Thủ tướng Chính phủ (2018). Quyết định số 522/QĐ-TTg ngày 14/05/2018 về việc phê duyệt đề án “Giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông giai đoạn 2018-2025”. [5] Hồ Phụng Hoàng (2013). Tài liệu bổ sung sách giáo viên Hoạt động giáo dục hướng nghiệp. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. [6] Nguyễn Đức Trí (2011). Giáo trình Giáo dục học nghề nghiệp. NXB Giáo dục Việt Nam. [7] Phùng Đình Mẫn - Phan Minh Tiến - Trương Thanh Thuý (2005). Một số vấn đề cơ bản về hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở trường trung học phổ thông. NXB Giáo dục. VAI TRÒ CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN (Tiếp theo trang 110) Tài liệu tham khảo [1] Lakhwinder Kaur (2015). Future Classroom with ICT Tools. Educational Quest: An Int. J. of Education and Applied Social Sciences, Vol. 6, Issue 2, pp. 133-136. [2] Đinh Văn Đệ (2018). Ứng dụng công nghệ thông tin vào nhà trường thông minh với mục tiêu tối ưu hóa quá trình dạy và học. Hội nghị Quốc tế ICSS 2018 “Nhà trường thông minh trong bối cảnh Cách mạng Công nghiệp 4.0”, tr 85-94. [3] Perkins, D.N. (1992). Smart schools: From training memories to educating minds. New York: The Free Press, 264 pages. [4] Madras, S.A. (2011). Smart schools: Tomorrow School's. Roshd Journal, Publications Training, Research Planning, Ministry of Education, Iran. Vol. 20, pp. 7-18. [5] Smart School Project Team (1997). The Malaysian Smart School: Implementation plan. Kuala Lumpur: Ministry of Education. [6] Vũ Thị Thúy Hằng (2018). Trường học thông minh: Nguồn gốc, định nghĩa và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Tạp chí Giáo dục số 432, tr 6-10; 60. [7] Blurton, C. (1999). New directions of ICT-use in education. UNESCO’s World Communication and Information Report, pp. 46-62.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf21vuong_quoc_anh_dao_ngoc_chinh_phan_thi_bich_loi_4177_2164586.pdf
Tài liệu liên quan