Vai trò của công nghệ thông tin trong phát triển nông nghiệp

Tài liệu Vai trò của công nghệ thông tin trong phát triển nông nghiệp: 3 VAI TRÒ CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP I. Mở đầu Công nghệ thông tin (CNTT) chỉ các thiết bị, công cụ hoặc ứng dụng thông tin và truyền thông, cho phép thu nhập – trao đổi dữ liệu thông qua việc tương tác hoặc truyền tải, ví dụ: radio, vệ tinh, điện thoại di động, internet, điện toán đám mây, ứng dụng thanh toán điện tử, phần mềm quản lý tài chính, hệ thống tự động hóa, Ngày nay, công nghệ thông tin đã đi vào mọi ngõ ngách của đời sống xã hội. Với sự phát triển không ngừng của công nghệ thông tin đã đưa tin học thâm nhập sâu vào nhiều lĩnh vực khoa học và đời sống, mở ra một giai đoạn mới trong quá trình phát triển khoa học, xu hướng phát triển của công nghệ thông tin hiện nay chủ yếu xuất phát từ nhu cầu đa dạng hoá thông tin; chính xác hoá thông tin; xu hướng phát triển phần cứng và phần mềm hệ thống; sự phát triển của kỹ thuật xử lý thông tin; sự phát triển trong xây dựng các cơ sở dữ liệu; và sự phát triển trong kỹ thuật ...

pdf58 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 452 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Vai trò của công nghệ thông tin trong phát triển nông nghiệp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3 VAI TRÒ CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP I. Mở đầu Công nghệ thông tin (CNTT) chỉ các thiết bị, công cụ hoặc ứng dụng thông tin và truyền thông, cho phép thu nhập – trao đổi dữ liệu thông qua việc tương tác hoặc truyền tải, ví dụ: radio, vệ tinh, điện thoại di động, internet, điện toán đám mây, ứng dụng thanh toán điện tử, phần mềm quản lý tài chính, hệ thống tự động hóa, Ngày nay, công nghệ thông tin đã đi vào mọi ngõ ngách của đời sống xã hội. Với sự phát triển không ngừng của công nghệ thông tin đã đưa tin học thâm nhập sâu vào nhiều lĩnh vực khoa học và đời sống, mở ra một giai đoạn mới trong quá trình phát triển khoa học, xu hướng phát triển của công nghệ thông tin hiện nay chủ yếu xuất phát từ nhu cầu đa dạng hoá thông tin; chính xác hoá thông tin; xu hướng phát triển phần cứng và phần mềm hệ thống; sự phát triển của kỹ thuật xử lý thông tin; sự phát triển trong xây dựng các cơ sở dữ liệu; và sự phát triển trong kỹ thuật thu nhận và cung cấp thông tin phát triển mạng thông và kỹ thuật truyền tin. Từ những năm 50 con người bắt đầu cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ hai có bản chất là hoá trình tin học hoá nội dung là sử dụng “công nghệ thông tin” để thay thế một phần lao động trí óc, để trợ giúp phần điều khiển bằng trí tuệ của con người. Công nghệ thông tin là tập hợp các ngành khoa học kỹ thuật nhằm giải quyết vấn đề thu nhận thông tin, quản lý thông tin, xử lý thông tin, truyền thông tin và cung cấp thông tin. Để giải quyết những vấn đề này, người ta đã tập trung vào các nội dung gồm xác định hệ 4 thống thông tin; thu nhận thông tin; quản lý thông tin; xử lý thông tin; truyền thông tin; và cung cấp thông tin. Công nghệ thông tin trong nông nghiệp được biết đến là e- agriculture, là việc phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin vào khu vực nông thôn, chú trọng vào phát triển nông nghiệp. E-agriculture, còn gọi là “nông nghiệp thông minh” hay “nông nghiệp điện tử” – đang trở thành xu thế mới, cải thiện đáng kinh ngạc nền nông nghiệp ở nhiều nơi trên thế giới. E-agriculture mang nhiều giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn trong ngành nông nghiệp. Khi những thách thức của nông nghiệp ngày càng gia tăng, cũng là lúc Công nghệ thông tin phát triển đủ mạnh để trở thành một công cụ kịp thời và hữu hiệu. Hình ảnh nhà nông vất vả và lạc hậu đang trở thành lỗi thời, thay vào đó là những nông dân ứng dụng thuần thục công nghệ và kỹ thuật hiện đại vào thương mại, sản xuất. Khi được ứng dụng trong nông nghiệp, công nghệ thông tin giúp người nông dân nâng cao khả năng tiếp cận thông tin, cải thiện năng lực thanh toán, nâng cao năng suất, nâng cao năng lực quản lý, ứng phó hiệu quả với rủi ro, thậm chí hưởng lợi nhờ đón đầu thay đổi. Các văn phòng tự động là ứng dụng của máy tính, mạng máy tính, mạng điện thoại, và các công cụ tự động hóa văn phòng như máy photocopy, máy quét, máy in, thiết bị làm sạch, và các hệ thống an ninh điện tử để tăng năng suất của các tổ chức. Có rất nhiều chính phủ, tư nhân và các tổ chức phi chính phủ tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Tất cả họ đều phải làm việc với nhau để cung cấp cho dịch vụ tốt hơn cho cộng đồng nông nghiệp. Do đó, ứng dụng tự động hóa văn phòng là một trong những giải pháp để nâng cao hiệu quả và liên kết nối của các nhân viên làm việc trong các tổ chức nêu 5 trên. Nhiều ứng dụng máy tính như MS Office, Internet Explorer, OpenOffice.org và thích hợp thực hiện khác phần mềm tự động hóa văn phòng gói được cung cấp tiềm năng không giới hạn cho các tổ chức, cá nhân để hoàn thành ngày của họ để yêu cầu xử lý dữ liệu ngày để cung cấp cho một dịch vụ hiệu quả cho khách hàng của họ. Trong ngành nông nghiệp, việc áp dụng công nghệ thông tin, tự động hóa sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng giá trị sản phẩm hay tăng năng suất lao động. Công nghệ thông tin kết hợi với điện tử, viễn thông, tự động hóa đã giải được các bài toán về dự báo lũ, ngập lụt, nước biển dâng; dự báo về dịch bệnh ở cây trông vật nuôi; dự báo thị trường tiêu thụ sản phẩm nông, ngư nghiệp... Ngoài ra công nghệ thông tin đã tạo ra các hệ thống tự động hóa cao có thể tự động tính toán nhu cầu nước, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và các vật tư khác một cách chính xác, điều hành cung cấp các loại vật tư vừa đủ cho cây trồng, xác định sức khỏe của vật nuôi bằng các thiết bị tự động đã nâng cao hiệu quả nuôi trồng, góp phần kiểm soát và giảm dư lượng các chất độc hại trong sản phẩm nông nghiệp khi cung cấp cho người sử dụng, kiểm soát chặt chẽ môi trường bằng các chương trình công nghệ thông tin ít tốn kém mà hiệu quả rất cao. Trên thế giới, nền nông nghiệp điện tử đã rất phát triển. Nông nghiệp xanh, nông nghiệp công nghệ cao được các nước chú trọng như tại Hàn Quốc, Nhật Bản hay Isarel. Điển hình như Isarel, thông qua ứng dụng công nghệ thông tin, 1 ha đất có thể đạt năng suất hơn 3 triệu bông hoa hồng, 1 con bò cho ra 11 tấn sữa/năm; với chỉ 3% dân số làm nông nghiệp trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt nhưng nền nông nghiệp điện tử của 6 nước này tạo ra giá trị sản lượng gần 23 tỉ USD/năm, xuất khẩu nông sản đạt trên 3 tỉ USD/năm. Hay như tại Mỹ, nông nghiệp điện tử giúp người nông dân tiết kiệm 7% chi phí phân bón và hàng chục % chi phí khác. Trung bình một nông dân Mỹ sản suất lương thực đủ nuôi 140 người. Tại Việt Nam, trong thời gian qua, công nghệ thông tin kết hợp với công nghệ viễn thám, hệ thống thông tin địa lý - viễn thám tạo thành hệ thống thông tin cho phép theo dõi tiền độ mùa vụ, gieo trồng, thu hoạch, tình hình sâu bệnh, dự báo năng suất lúa, cập nhật và dự báo tình hình nông nghiệp thế giới, do đó góp phần tích cực cho việc chủ động trong phòng trừ sâu bệnh, chủ động cây trồng và mùa màng, về công tác thu hoạch và thị trường xuất khẩu nông sản. Chính các hệ thống công nghệ thông tin này cũng giúp Chính phủ hoạch định chính sách trong sản xuất nông nghiệp... Nhờ vậy, từ một đất nước thiếu lương thực vào những năm 1980 của thế kỷ XX đến nay Việt Nam đã trở thành quốc gia xuất khẩu đứng hàng đầu thế giới. Ngày 20/8/2008 Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ra Chỉ thị số 87/2008/CT-BNN về việc tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý điều hành của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Bên cạnh đó các Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn căn cứ các nội dung, nhiệm vụ trong Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, thực tế thời gian qua, một số bộ, ngành, doanh nghiệp và nông dân vẫn còn biểu hiện chưa quan tâm đúng mức về vai trò của công nghệ thông tin, chỉ coi công nghệ thông tin là công cụ sử dụng đơn giản, riêng lẻ, thiếu tính kết nối đa chiều, đa lĩnh vực, manh mún. Bên cạnh đó, tỉ trọng đầu tư cho công nghệ thông tin vào sản suất, vào nông nghiệp còn thấp hơn nhiều so 7 với những ngành khác. Một cách tổng quan, chưa nhìn thấy sự tác động mạnh mẽ của công nghệ thông tin trong nông nghiệp, làm gia tăng giá trị trong sản xuất và phân phối sản phẩm nông nghiệp. Bài viết này đánh giá tổng quan vai trò của công nghệ thông tin quản lý, điều hành và sản xuất nông nghiệp đồng thời, giới thiệu các tiến bộ kỹ thuật mới và kinh nghiệm áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý, sản xuất nông nghiệp ở một số nước trên thế giới. II. Nhận biết và áp dụng Nông nghiệp điện tử là một trong những hành động được xác định trong tuyên bố và kế hoạch hành động của Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Xã hội Thông tin (WSIS). "Tunis Agenda for the Information Society" được công bố vào ngày 18 tháng 11 năm 2005 và nhấn mạnh vai trò tạo điều kiện hàng đầu mà các cơ quan Liên Hợp Quốc cần phải thực hiện trong việc thực hiện Kế hoạch hành động Geneva. Tổ chức Nông Lương Liên Hiệp Quốc (FAO) đã được giao nhiệm vụ tổ chức các hoạt động liên quan đến dòng hành động theo chương 7 về việc áp dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong ngành Nông nghiệp. Nhiều ứng dụng công nghệ thông tin đã được phát triển và thử nghiệm trên thế giới với nhiều thành công khác nhau để giúp nông dân cải thiện sinh kế thông qua tăng năng suất và thu nhập nông nghiệp và giảm rủi ro. Một số tài nguyên hữu ích để học về nông nghiệp điện tử trong thực tiễn là tài liệu điện tử công nghệ thông tin trong nông nghiệp do Ngân hàng Thế giới cung cấp - kết nối nông dân nhỏ với kiến thức, mạng lưới và tổ chức, ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng trong các chuỗi giá 8 trị (2013), và các bài báo về các câu chuyện thành công cho nông nghiệp và phát triển nông thôn đã ghi nhận nhiều trường hợp sử dụng công nghệ thông tin trong nông nghiệp. The FAO-ITU E-agriculture Strategy Guide được phát triển bởi Tổ chức Nông lương Liên Hợp Quốc và Ủy ban Viễn thông Quốc tế với sự hỗ trợ của các thành viên bao gồm Trung tâm kỹ thuật hợp tác Nông nghiệp và nông thôn trong khuôn khổ chiến lược phát triển nông nghiệp điện tử tại các nước. Một số nước đang sử dụng FAO-ITU hướng dẫn chiến lược phát triển nông nghiệp điện tử bao gồm Bhutan, Sri Lanka, Papua New Guinea, Philippines, Fiji và Vanuatu. Hướng dẫn cung cấp một khuôn khổ để tăng cường thu hút các bên liên trong việc xây dựng chiến lược quốc gia về nông nghiệp III. Hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin tại Bộ Nông nghiệp và PTNT Thời gian qua, việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý nhà nước của Bộ có nhiều thuận lợi, phục vụ tốt công tác quản lý, điều hành do hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin ngày càng được hoàn thiện. Số lượng máy tính trang bị cho cán bộ, công chức tăng, tạo môi trường làm việc điện tử thông suốt, tăng năng suất, hiệu quả công việc. Cụ thể, 100% cán bộ, công chức trong cơ quan, đơn vị thuộc Bộ được trang bị máy tính, trong đó 60% máy tính đã được bản quyền hóa các phần mềm ứng dụng như: hệ điều hành Windows, Microsoft Office; 100% các đơn vị thuộc Bộ đã có mạng LAN, đường truyền internet riêng biệt. Về kết nối mạng diện rộng (WAN), Bộ đã thực hiện kết nối các mạng LAN tại trụ sở số 2 Ngọc Hà với các mạng LAN tại 9 trụ sở số 10 Nguyễn Công Hoan thông qua đường truyền kết CPNET 10 Mbps. Tuy nhiên do hạ tầng mạng LAN của các đơn vị tại số 10 Nguyễn Công Hoan chưa hoàn thiện nên lưu lượng thông tin trao đổi chưa thực sự hiệu quả. Hiện tại, việc kết nối mạng WAN tới các đơn vị có trụ sở tại 16 Thụy Khuê và một số đơn vị thuộc Bộ khác trên địa bàn Hà Nội (Cục Bảo vệ thực vật, Cục Thú y) chưa được thực hiện. Đối với việc kết nối tới mạng chuyên dùng của cơ quan Đảng và Nhà nước, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã thực hiện một điểm từ Văn Phòng Bộ tới Văn phòng chính phủ. Đường truyền Internet tốc độ cao của Bộ là kênh thuê bao riêng (LeaseLine) với tốc độ truy cập trong nước là 50 Mbps và ra quốc tế là 4 Mbps, phục vụ kết nối internet cho các đơn vị sử dụng hạ tầng mạng LAN chung tại trụ sở số 2 Ngọc Hà và một số đơn vị tại trụ sở số 10 Nguyễn Công Hoan. Các đơn vị không sử dụng hạ tầng mạng LAN chung của Bộ thuê đường truyền internet riêng (phần lớn thuê đường truyền internet FTTH). Tỷ lệ băng thông kết nối internet trên mỗi CBCC của Bộ tương đối tốt, dung lượng trung bình đạt 493.27 Kbps. Các thiết bị mạng không dây (Wifi) được lắp đặt để đa dạng hóa hình thức truy cập, khai thác thông tin của người dùng. Cơ bản các đơn vị tại khu vực số 2 Ngọc Hà sử dụng hạ tầng mạng chung, ngoại trừ một số đơn vị như Tổng cục Lâm nghiệp, Tổng cục Thủy Lợi, Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn phát triển hệ thống mạng LAN riêng. Nhìn chung hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin của Bộ đã cơ đáp ứng tương đối tốt về các chỉ số liên quan đến hạ tầng kỹ thuật cụ thể như: Tỷ lệ máy tính trên cán bộ; tỷ lệ máy tính có 10 kết nối Internet để phục vụ các giao dịch, tra cứu và khai thác thông tin phục vụ công việc chuyên môn; tỷ lệ băng thông kết nối internet trên mỗi cán bộ; tỷ lệ hạ tầng an toàn, an ninh thông tin; tỷ lệ hạ tầng an toàn dữ liệu. IV. Một số ứng dụng Công nghệ thông tin trong quản lý và điều hành ngành Nông nghiệp Các đơn vị trong cơ quan Bộ Nông nghiệp và PTNT đã triển khai nhiều ứng dụng CNTT phục vụ cho việc quản lý nhà nước của Bộ. Nhiều ứng dụng CNTT đã góp phần phục vụ cho công tác quản lý cán bộ, quản lý tài chính, công tác thanh tra, khoa học công nghệ và các tính toán chuyên ngành khác đã mang lại hiêu quả thiết thực. Trung tâm Tin học và Thống kê cũng đã triển khai thí điểm ứng dụng chữ ký số, chứng thực số tại một số Vụ trong Bộ Nông nghiệp và PTNT, trước mắt để giúp cho cán bộ làm quen với công nghệ mới này và nhận thực được giá trị thiết thực về việc ứng dụng chữ ký số trong trao đổi các văn bản qua mạng. Bộ đã tăng cường, mở rộng mô hình họp, giao ban trực tuyến, trả lời công dân trên Cổng thông tin điện tử của Bộ, nhiều hệ thống cơ sở dữ liệu (CSDL) chuyên ngành đã được xây dựng. 4.1 Hệ thống quản lý văn bản điều hành Để nâng cao hiệu quả công việc, tiết kiệm thời gian, chí phí và góp phần đẩy mạnh cải cách hành chính, các đơn vị thuộc Bộ đã ứng dụng các phần mềm quản lý như: - Hệ thống phần mềm tổng hợp báo cáo giao ban tuần, tháng, quản lý tài sản, kế toán, nhiệm vụ khoa học và công nghệ; - Phần mềm văn phòng điện tử dùng chung; 11 - Trao đổi văn bản điện tử trên môi trường mạng. Hiện có khoảng 60% các loại văn bản truyền thống như: Giấy mời, tài liệu hội họp, văn bản (để biết, để báo cáo), thông báo chung, tài liệu cần trao đổi trong xử lý công việc, văn bản hành chính, hồ sơ công việc, là dạng văn bản điện tử được lưu thông qua thư điện tử, văn phòng điện tử; Văn bản đi/đến được chuyển hoàn toàn trên môi trường mạng (hoàn toàn không dùng văn bản giấy) trên tổng số văn bản đi/đến với các cơ quan bên ngoài là 40%; Tỉ lệ văn bản đi/đến được chuyển song song trên môi trường mạng và qua đường công văn trực tiếp trên tổng số văn bản đi/đến trong nội bộ cơ quan là 45%; Tỉ lệ văn bản đi/đến được chuyển song song trên môi trường mạng và qua đường công văn trực tiếp trên tổng số văn bản đi/đến với cơ quan bên ngoài là 30%. Mặc dù việc triển khai sử dụng phần mềm văn phòng điện tử chung của Bộ đã được các đơn vị tuân thủ trong việc khai thác sử dụng, tuy nhiên thực tế cho thấy tốc độ truy cập và xử lý còn chậm. Do vậy, trong thời gian tới cần nâng cấp và mở rộng phạm vi sử dụng để đáp ứng tốt hơn nhu cầu công việc xử lý trên môi trường mạng của người sử dụng. 4.2 Hệ thống thư điện tử Thực hiện Chỉ thị số 34/2008/CT-TTg về tăng cường sử dụng thư điện tử công vụ trong hệ thống cơ quan nhà nước, hệ thống thư điện tử của Bộ Nông nghiệp và PTNT hiện đang sử dụng phần mềm quản lý thư điện tử Microsoft Exchange Server 2007 với tên miền là @mard.gov.vn cùng với 05 máy chủ vận hành, phục vụ. Chất lượng thư điện tử đã được cải thiện đáng kể so với những năm trước, đặc biệt từ khi có Chỉ thị số 34 của 12 Thủ tướng Chính phủ thì số lượng cán bộ, công chức, viên chức thuộc Bộ đăng ký sử dụng ngày càng tăng, đã cung cấp hơn 6.800 địa chỉ thư điện tử cho các đơn vị quản lý nhà nước của Bộ, bên cạnh đó cũng cung cấp địa chỉ thư điện tử cho các đơn vị cấp viện nghiên cứu, trường đào tạo thuộc Bộ, với tần suất giao dịch hàng ngày khoảng 650 người dùng. Khoảng 90% CBCCVC của các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ được cấp hòm thư điện tử công vụ (@mard.gov.vn). Tuy nhiên, tỷ lệ CBCCVC thường xuyên sử dụng hòm thư công vụ trong công việc mới chỉ đạt 60%. Tỷ lệ các đơn vị sử dụng ở mức tốt có: Vụ Hợp tác quốc tế, Văn phòng Bộ, Trung tâm Tin học và Thống kê, Vụ Kế hoạch; ở mức khá: có Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Vụ Tài chính, Tổng cục Thủy sản, còn lại các đơn vị khác sử dụng ở mức trung bình. Tuy vậy, hiện nay vẫn còn tồn tại những khó khăn và hạn chế như: Nhiều cán bộ, công chức và viên chức sử dụng thư điện tử miễn phí như Google, Yahoo, Hotmailtrong trao đổi thông tin, văn bản trong công việc cũng như chỉ đạo, điều hành. Bên cạnh đó, một số đơn vị trực thuộc bộ đầu tư, xây dựng hệ thống thư điện tử riêng trên nền tảng ứng dụng dịch vụ thư điện tử của Google App tuy nhiên hệ thống này được xây dựng trên nền tảng dịch vụ thư điện tử của Mircrosoft mà chưa mua bản quyền phần mềm. Những hạn chế và tồn tại nêu trên làm cho việc quản lý, vận hành, khai thác sử dụng và đảm bảo an ninh, an toàn thông tin là khó khăn, không thống nhất, và không đảm bảo pháp lý và kỹ thuật khi sử dụng Văn phòng điện tử dùng chung, chữ ký số, hành chính công hoặc các ứng dụng khác. 13 4.3 Tổ chức các cuộc họp qua mạng Bộ Nông nghiệp & PTNT có 02 hệ thống phục vụ họp trực tuyến 01 hệ thống do Văn phòng Bộ quản lý và 01 hệ thống do Tổng cục Phòng chống thiên tai quản lý) có thể kết nối với 63 điểm cầu trên toàn quốc. Hằng năm trung bình có 14 cuộc họp trực tuyến của Bộ và các đơn vị được thực hiện để triển khai kịp thời công tác quản lý, chỉ đạo điều hành trong các lĩnh vực chăn nuôi, trồng trọt, thủy sản, phục vụ sản xuất, phòng chống các loại dịch bệnh từ Trung ương xuống địa phương, trả lời người dân và doanh nghiệp về cơ chế, chính sách trong phát triển sản xuất nông nghiệp. 4.4 Ứng dụng chữ ký số Thực hiện Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 22/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường sử dụng văn bản điện tử trong hoạt động của cơ quan nhà nước, trong đó việc ứng dụng chữ ký số là một trong những yêu cầu cần thiết nhằm tiết kiệm chi phí văn phòng phẩm, rút ngắn thời gian xử lý, tạo tiền đề cho việc ứng dụng thành công dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4. Trước tình hình đó, tại Bộ NN&PTNT, Trung tâm Tin học và Thống kê, Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường đã phối hợp với Ban Cơ yếu Chính phủ triển khai thí điểm ứng dụng chữ ký số chuyên dùng phục vụ các cơ quan thuộc hệ thống chính trị, việc triển khai được thực hiện như sau: - Bộ trưởng đã có văn bản ủy quyền việc quản lý, cấp phát mới, thu hồi và hủy bỏ đối với các chứng thư số (công cụ ký số) cho Vụ trưởng Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường theo hướng dẫn của Thông tư 05/2010/TT-BNV. 14 - Đến nay, Bộ đã cấp 550 chữ ký số cho cá nhân, tổ chức và thiết bị để ứng dụng trong các văn bản quản lý, điều hành, dịch vụ công trực tuyến. Văn phòng điện tử đã có Module chữ ký số được cải tiến, nâng cấp đang xây dựng kế hoạch triển khai trên toàn hệ thống. Hiện nay đã có một số đơn vị thuộc Bộ đã bắt đầu triển khai triển khai ứng dụng thực hiện chữ ký số trong các giao dịch điện tử: Hải quan một cửa, dịch vụ công trực tuyến, văn bản điện tử. Về môi trường pháp lý, cơ cở hạ tầng, nguồn nhân lực và công nghệ là hoàn toàn đáp ứng được cho việc triển khai chữ ký số, tuy nhiên, việc triển khai vẫn gặp phải những khó khăn như: (i)Việc triển khai mới chỉ thực hiện mang tính chất thí điểm, thử nghiệm trong phạm vi hẹp, mới chỉ cấp phát cho các lãnh đạo và mới chỉ được tích hợp thử nghiệm trên Văn phòng điện tử dùng chung; (ii) Các đơn vị trực thuộc Bộ chưa xác định được vai trò của chữ ký số trong quản lý, điều hành. Lãnh đạo các đơn vị còn thiếu sự quan tâm, chỉ đạo, và tuyên truyền; (iii) Chưa có lộ trình (kế hoạch) ứng dụng mở rộng cho tất cả các đơn vị trực thuộc. Thiếu cơ chế, chế tài áp dụng chữ ký số, thiếu quy trình xử lý nghiệp vụ dẫn đến việc áp dụng còn lúng túng và gặp nhiều khó khăn. 4.5 Hệ thống các phần mềm,cơ sở dữ liệu chuyên ngành Cơ sở dữ liệu (CSDL) nông nghiệp và nông thôn các địa phương có thể được xây dựng với mục đích tạo ra một cơ sở dữ liệu trên nền tảng web đơn giản, thuận lợi cho việc truy cập thông tin, thiết thực với nhiều nhóm người dung. Số liệu thu thập, lưu trữ trong CSDL từ nguồn số liệu thống kê chính thức, tư liệu kinh tế xã hội các tỉnh/thành phố và số liệu điều tra nông 15 nghiệp nông thôn, mức sống dân cư của Tổng cục Thống kê và nguồn từ các cơ quan, địa phương khác được tổ chức thành các bảng số liệu, với rất nhiều chỉ tiêu có thể đưa ra theo các mẫu báo cáo khác nhau. Số liệu cập nhật vào cơ sở dữ liệu từ nhiều năm, sẽ tiếp tục được cập nhật theo tần suất hàng năm, tương ứng với mỗi nguồn số liệu. Thông tin có thể được tìm kiếm, trích rút và lập báo cáo theo giai đoạn nhất định và được so sánh theo theo mốc thời gian. Hiện tại, có rất nhiều các phần mềm và cơ sở dữ liệu được ứng dụng trong các lĩnh vực chuyên môn, chuyên biệt khác nhau, phục vụ các mục tiêu quản lý, nghiên cứu, sản xuất như các phần mềm và cơ sở dữ liệu phục vụ trong lĩnh vực thủy lợi, lâm nghiệp, thủy sản, nông nghiệp, thống kê, dự báo − Phần mềm CSDL Thống kê: đã vận hành, đáp ứng được mục tiêu tổng hợp, xử lý báo cáo thống kê của 63 tỉnh thành; Phân hệ chức năng cập nhật trực tuyến số liệu về kết quả thực hiện thống kê, kiểm tra, thanh tra cơ sở sản xuất, kinh doanh vật tư nông nghiệp và sản phẩm nông lâm thủy sản đã được cài đặt và vận hành tốt. − Cơ sở dữ liệu quản lý các dự án đầu tư: hỗ trợ thu thập, quản lý thông tin và lập báo cáo giám sát đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch vốn đầu tư. Sau 5 năm vận hành CSDL ( đã thu được một số thành quả tích cực như sau: Hầu hết các dự án đã báo cáo hàng tháng theo hình thức trực tuyến, tỷ lệ các dự án được báo cáo liên tục tăng trong những năm gần đây, bình quân hằng tháng đạt 97%; Thiết lập được mạng lưới báo cáo với trên 300 người sử dụng, thành thạo quy trình cập nhật, xử lý thông tin. Nhiều đơn vị đã chủ động cập nhật số liệu thực hiện từ các năm trước, số liệu vốn địa 16 phương để đảm bảo thông tin thể hiện đầy đủ và chính xác; CSDL MIC được phổ biến rộng rãi, đến nhiều cơ quan quản lý trong Bộ NN&PTNT như các Tổng cục, Cục Quản lý xây dựng công trình, Vụ Tài chính trong công tác quản lý và giám sát đầu tư. Hệ thống cũng được Bộ Kế hoạch và Đầu tư đánh giá tốt so với các tỉnh và Bộ ngành khác. − Hệ thống phần mềm thư viện điện tử: Đã được vận hành, nhằm nâng cao hiệu quả cung cấp thông tin, tư liệu phục vụ công tác nghiên cứu, chỉ đạo điều hành của Bộ NN&PTNT. Hình thành hệ thống liên thông thư viện trong ngành nhằm tăng cường mối liên kết, huy động nguồn lực, cung cấp tài liệu và thông tin của ngành phục vụ cán bộ lãnh đạo, cán bộ làm công tác quản lý, nghiên cứu, tham gia sản xuất trong và ngoài ngành, xây dựng kho tư liệu số thống nhất trong ngành NN&PTNT, tăng cường năng lực cho cán bộ làm công tác thư viện của ngành và cải tạo hệ thống phòng đọc và phòng làm việc của thư viện. − Cơ sở dữ liệu nông nghiệp nông thôn các tỉnh: Số liệu thu thập, lưu trữ trong CSDL này được lấy từ nguồn số liệu thống kê chính thức, tư liệu kinh tế xã hội các tỉnh/thành phố và số liệu điều tra nông nghiệp nông thôn, điều tra mức sống dân cư của Tổng cục Thống kê và nguồn từ các cơ quan, địa phương. Nội dung gồm dữ liệu từ năm 2000 cho tới năm 2013 với hơn 330 chỉ tiêu được phân loại cụ thể. − Cơ sở dữ liệu thông tin thị trường: Được hỗ trợ từ nguồn vốn của ngân hàng phát triển châu Á (ADB) để xây dựng phần mềm và kinh phí Xúc tiến thương mại để thu thập giá của các mặt hàng nông sản tại 17 tỉnh thành trên cả nước và các sàn giao dịch trên thế giới nhằm hỗ trợ công tác chỉ đạo, điều hành 17 của Lãnh đạo Bộ cũng như Ban chỉ đạo thị trường nông sản thực hiện một cách kịp thời. Bên cạnh đó, nhiều phần mềm ứng dụng, tiện ích phục vụ công tác quản lý, nghiên cứu, sản xuất, phục vụ công việc chuyên môn trong các lĩnh vực: nông nghiệp, thủy lợi, lâm nghiệp, thủy sản, cũng đã được triển khai nhằm nâng cao năng lực quản lý điều hành chung của Bộ. Các phần mềm CSDL chuyên ngành, ứng dụng CNTT trong công tác quản lý, điều hành, nghiên cứu khoa học tại các đơn vị thuộc Bộ đã cập nhật kịp thời các kết luận giao ban, nhiệm vụ của Lãnh đạo Bộ giao cho các đơn vị, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, các thông báo, báo cáo, chương trình công tác của Bộ, các sự kiện thời sự nổi bật của ngành, tình hình bão lụt, dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi 4.6 Phát triển Cổng thông tin điện tử và các Website Bộ Nông nghiệp và PTNT đã đầu tư xây dựng cổng thông tin điện tử, đến thời điểm này, đã đáp ứng được các quy định của Nghị định số 43/2011/NĐ-CP, ngày 13/6/2011 của Thủ tướng Chính phủ quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến, cụ thể có các chức năng, nhiệm vụ chính như sau: - Lưu trữ, chia sẻ và cung cấp các thông tin về chỉ đạo, điều hành của Bộ, các văn bản quy phạm pháp luật, các tin tức hoạt động trong lĩnh vực ngành nông nghiệp và các lĩnh vực khác. - Là cầu nối trao đổi thông tin giữa người dân, doanh nghiệp với các cơ quan quản lý nhà nước trực thuộc Bộ. - Là đầu mối liên kết các cổng thôn tin điện tử thành phần của các đơn vị, cơ quan trực thuộc Bộ. Cùng với đó, hầu hết các cơ quan trực thuộc (Tổng cục, cục, 18 vụ, trung tâm, viện) cũng đã đầu tư, xây dựng cổng thông tin điện tử cho riêng đơn vị mình, phần lớn các cổng thông tin điện tử này có kết nối và chia sẻ trên cổng thông tin điện tử của Bộ với những mức độ khác nhau. Đa phần đã đáp ứng được các yêu cầu chung của một cổng thông tin điện tử như cung cấp văn bản chỉ đạo điều hành, văn bản pháp luật, kế hoạch, lịch công tác, thông báo, tin tức hoạt động, chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, bảo đảm tính chính xác, kịp thời, công khai, minh bạch. Nhìn chung, các trang tin điện tử của các đơn vị đã đáp ứng được các yêu cầu cơ bản về tra cứu, tìm hiểu những thông tin cơ bản của đơn vị, tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những hạn chế và nhược điểm như: (i) Không đồng nhất về công nghệ do các Website/Portal được xây dựng ở những thời điểm khác nhau, bởi những đơn vị khác nhau nên sử dụng công nghệ và nền tảng khác nhau; (ii) Phân tán về quản lý, chỉ một số ít các Website/Portal được duy trì và vận hành tập trung tại một nơi (Trung tâm Tin học và Thống kê), còn lại hầu hết được duy trì và vận hành phân tán tại các đơn vị khác nhau; (iii) Lạc hậu về công nghệ xây dựng trang tin đã tạo ra những lỗ hổng về bảo mật, không được các nhà cung cấp hỗ trợ kỹ thuật dẫn đến mất quyền truy cập hoặc tạo diều kiện cho các tấn công, xâm nhập trái phép; (iv) Nhiều đơn vị không thường xuyên cập nhật nội dung, chưa có đội ngũ quản trị, vận hành hệ thống và biên tập bài chuyên nghiệp; (v) Chưa có quy hoạch, sự thống nhất về việc đặt tên miền cho website/cổng TTĐT của các đơn vị. 4.7 Hệ thống ứng dụng trực tuyến trên internet Ứng dụng đầu tiên, phổ biến nhất của công nghệ thông tin và mang lại nhiều lợi ích nhất phải kể đến là internet. Internet cung 19 cấp vô số lời giải miễn phí và nhanh chóng cho những vấn đề thường gặp của nhà nông. Đó có thể là lời khuyên từ chuyên gia, là kinh nghiệm thực tiễn của các nông dân khác, là một chương trình hỗ trợ của chính phủ Với lượng thông tin khổng lồ và cập nhật, internet còn giúp người nông dân hiện đại lập kế hoạch sản xuất thật chi tiết, từ sản lượng, chi phí đầu vào, lợi nhuận mong đợi, rủi ro gặp phải để linh hoạt ứng phó với các tình huống phát cũng tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động mua bán của người nông dân. Nhờ phát triển nhanh của công nghệ internet và dịch vụ đường truyền ngày càng tốt hơn, nhiều ứng dụng trực tuyến trên internet đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT triển khai. Bên cạnh việc cho phép tra cứu thông tin và các ứng dụng trên cổng thông tin của Bộ, một số đơn vị trong Bộ đã xây dựng được các hệ thống ứng dụng trực tuyến phục vụ ngành như Cục Kiểm lâm, Cục Quản lý đê điều và PCLB, Vụ kế hoạch, Trung tâm Tin học và Thống kê,... Một ứng dụng trực tuyến khác mang lại hiệu quả cao được thực hiện bởi Vụ kế hoạch, đó là Hệ thống thu thập thông tin về quản lý vốn cho khoảng 700 dự án đầu tư sử dụng vốn ngân sách, vốn trái phiếu Chính phủ và vốn vay ODA. Trong đó bao gồm các thông tin cơ bản về dự án được duyệt, kế hoạch đầu tư hàng năm, quá trình thực hiện và giải ngân theo từng kỳ. Các nội dung này được cập nhật bởi hơn 300 chủ đầu tư thực hiện dự án ( http:// mic.mard.gov.vn). Vụ cũng đã xây dựng một cơ sở dữ liệu nông nghiệp nông thôn các tỉnh được thu thập từ nguồn thống kê chính thức, tư liệu kinh tế xã hội tỉnh/thành phố cùng với số liệu điều tra nông nghiệp nông thôn ( 20 Nhiều đơn vị trong Bộ cũng đã và đang triển khai các hệ thống ứng dụng trực tuyến như thư viện điện tử, hệ thống thống kê, văn phòng điện tử, hệ thống giao lưu trực tuyến,. Tuy nhiên, những ứng dụng loại này chưa nhiều cần phải phát triển nhiều hơn nữa để tận dụng được thế mạnh của Internet và mang lại sự thuận lợi cho người dùng. Bộ đã thiết lập được 2 phòng họp trực tuyến: một phòng phục vụ các cuộc họp chung của Bộ và một phòng phục vụ cho công tác của Ủy ban phòng chống lụt bão, hàng năm có khoảng 15 cuộc họp trực tuyến. Hệ thống thư điện tử chính thức của Bộ NN&PTNT có tên miền là @mard.gov.vn được thành lập năm 2008 bắt nguồn từ việc hợp nhất 3 hệ thống thư điện cũ của Bộ trước kia là @mard.gov.vn, @agroviet.gov.vn và @mofi.gov.vn. Hiện tại có khoảng gần 2000 người sử dụng trong Ngành với khoảng 500 người trao đổi thông tin hàng ngày. Hệ thống thư điện tử này do Trung tâm Tin học và Thống kê quản lý đã cấp account sử dụng cho hầu hết các tổng cục, cục, vụ, trung tâm thuộc Bộ,... và một số cán bộ chủ chốt tại các viện nghiên cứu, các trường đào tạo và các sở Nông nghiệp và PTNT và trở thành một kênh trao đổi thông tin cơ bản của Bộ. 4.8 Quản lý theo dõi diễn biến hiện trạng rừng và đất lâm nghiệp Mục đích theo dõi diễn biến rừng và đất lâm nghiệp là nắm vững diện tích các loại rừng, đất lâm nghiệp hiện có được phân chia theo chức năng sử dụng rừng và loại chủ quản lý; lập bản đồ hiện trạng rừng ở các tỉ lệ nhằm giúp hoạch định chính sách lâm nghiệp ở địa phương và trung ương phục công tác bảo vệ và 21 phát triển rừng. Cập nhật diện tích các loại rừng và đất lâm nghiệp trên cơ sở phân loại rừng và đất rừng. Số liệu thu thập ở thực địa phải được cập nhật vào cơ sở dữ liệu và bản đồ rừng. Việc theo dõi diễn biến rừng và đất lâm nghiệp được ứng dụng công nghệ thông tin như sử dụng phần mềm cơ sở dữ liệu (DBR), Phần mềm xử lý bản đồ (MapInfo, Microstation), phần mềm xử lý ảnh viễn thám (PCI, ERDAS). Các phần mềm này được quản lý, sử dụng thống nhất trong toàn quốc, bảo đảm tính tích hợp dữ liệu từ địa phương tới trung ương. Từ năm 2013 đến nay, ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn đang triển khai dự án phát triển hệ thống Thông tin Quản lý ngành lâm nghiệp (FORMIS) do chính phủ Phần Lan tài trợ. Lực lượng kiểm lâm, cán bộ phụ trách lâm nghiệp các cấp chịu trách nhiệm cập nhật các dữ liệu vào hệ thống thông qua các thông tin diễn biến rừng tại địa bàn. Đến nay, Tổng cục Lâm nghiệp đã cơ bản tích hợp vào hệ thống cơ sở dữ liệu hiện trạng rừng, đất rừng trên toàn quốc, thay thế hoàn toàn việc quản lý, lưu trữ theo hồ sơ giấy như trước đây. Tính đến nay, đã có 60 tỉnh, thành phố trên toàn quốc được triển khai phần mềm quản lý theo dõi diễn biến rừng và đất lâm nghiệp hiện đại, giúp cho việc quản lý và khai thác dữ liệu tài nguyên rừng, giám sát mọi diễn biến của rừng và đất lâm nghiệp hiệu quả trên phạm vi toàn quốc. Chương trình này sẽ giúp cho ngành lâm nghiệp từ trung ương đến địa phương quản lý rừng linh hoạt, hiệu quả. Giúp các chủ rừng, các doanh nghiệp chế biến gỗ, người làm nghề rừng theo dõi chi tiết từng lô rừng, chất lượng và diễn biến rừng, góp phần phát triển kinh tế lâm nghiệp. Viện Điều tra Quy hoạch rừng (Việt Nam) đã ứng dụng khá thành công các công nghệ GIS, Viễn thám, GPS trong theo dõi diễn biến, đánh giá tài 22 nguyên rừng. Ảnh vệ tinh có độ phân giải cao sau khi được giải đoán, chồng xếp, đối chiếu với bản đồ rừng đã có, những khu vực nào mâu thuẫn sẽ được xác định để kiểm chứng thực địa với GPS. 4.9 Dịch vụ công trực tuyến Thực hiện Quyết định 08/QĐ-TTg ngày 6/1/2015 của Thủ tướng Chính phủ về rà soát, đơn giản hóa TTHC trong các lĩnh vực trọng tâm thuộc Bộ NN-PTNT là thủy sản, động vật trên cạn, vật tư nông nghiệp, lâm nghiệp, thú y, bảo vệ thực vật, thủy lợi.Ngày 15//3/2017, Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ (địa chỉ tại https://dvc.mard.gov.vn) đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT tổ chức khai trương vào ngày 15/3/2017 với mục tiêu phấn đấu hết năm 2017, hầu hết dịch vụ công phổ biến, liên quan đến nhiều người dân, doanh nghiệp được cung cấp ở mức độ 3; cho phép sử dụng thanh toán lệ phí trực tuyến, nhận hồ sơ và trả kết quả trực tuyến hoặc gửi qua mạng (dịch vụ công trực tuyến mức độ 4). Thực hiện việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức 3,4, Bộ Nông nghiệp và PTNT xác định Cục Bảo vệ thực vật, Cục Chăn nuôi là những đơn vị tiên phong triển khai công tác này. Đây cũng là những đơn vị có nhiều thủ tục hành chính liên quan nhiều đến hoạt động của doanh nghiệp, người dân. Kể từ khi thực hiện việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 đã giúp nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp. Hiện nay, các cơ quan thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT thực hiện 40 TTHC kiểm tra chuyên ngành gồm 32 TTHC liên quan đến hàng hóa nhập khẩu và 8 TTHC liên quan đến hàng hóa xuất khẩu. 23 Bộ Nông nghiệp và PTNT đã chỉ đạo quán triệt từ khâu xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật phải xác định thời gian, hồ sơ, trình tự, thủ tục theo hướng tinh gọn, giảm thiểu chi phí, thời gian thực hiện. Về cơ bản, các thủ tục hành chính kiểm tra chuyên ngành đáp ứng yêu cầu quản lý, phù hợp thông lệ quốc tế. Trong nhiều lĩnh vực, thời gian giải quyết đã được tính theo giờ hoặc cấp phép ngay sau khi doanh nghiệp có yêu cầu. Cụ thể, đối với kiểm tra lô hàng thủy sản xuất khẩu, đã chuyển sang phương thức kiểm tra ngay trong quá trình sảnxuất và cấp Giấy chứng nhận khi doanh nghiệp có yêu cầu, rút ngắn thời gian từ 5 - 7 ngày làm việc xuống còn 8 giờ/1 lô hàng. Thực tế, nhiều lô hàng được cấp Giấy chứng nhận trong 2 - 3 giờ, tiết kiệm cho doanh nghiệp từ 15 - 20% chi phí. Đối với kiểm dịch thực vật, theo quy định của Luật Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật, thời gian giải quyết là 24 giờ kể từ khi bắt đầu kiểm dịch. Trên thực tế, từ khi tổ chức đăng ký kiểm dịch đến khi được cấp giấy rút ngắn xuống còn không quá 4 giờ đối với đường bộ, đường hàng không và không quá 10 giờ đối với đường biển. Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã chỉ đạo các đơn vị trực thuộc đã và đang thực hiện 11 thủ tục hành chính (TTHC) theo cơ chế một cửa quốc gia liên quan đến kiểm tra chuyên ngành. Tính đến ngày 23/10/2017, Bộ đã tiếp nhận tổng số 168.854 hồ sơ đề nghị cấp giấy phép điện tử qua Cổng một cửa quốc gia; kết quả đã xử lý, giải quyết 156.214 hồ sơ, đạt tỉ lệ trên 95%. Trong đó, tính từ đầu năm 2017 đến 23/10/2017, các đơn vị thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT đã tiếp nhận, xử lý giải quyết hồ sơ cấp phép điện tử qua Cổng một cửa quốc gia tổng số 125.533 hồ sơ; xử lý, giải quyết và cấp giấy phép điện tử 24 120.152 hồ sơ, đang tiếp tục xử lí 5.401 hồ sơ. Bộ NN-PTNT tiếp tục mở rộng giải quyết TTHC theo cơ chế một cửa quốc gia đến Quý I/2018 đối với 8 TTHC kiểm tra chuyên ngành tại 7 đơn vị. Đây là các TTHC có số lượng giao dịch nhiều, tác động lớn tới hoạt động của doanh nghiệp và người dân. Các đơn vị đang thực hiện giải quyết TTHC theo cơ chế một cửa quốc gia tại Bộ NN-PTNT gồm: Tổng cục Thủy sản, Cục Chăn nuôi, Cục Bảo vệ thực vật, Cục Quản lí Chất lượng nông lâm sản và thủy sản và Cục Thú y. Trong đó, một số đơn vị đã đạt được kết quả tích cực, được người dân và doanh nghiệp đánh giá rất cao. Cụ thể, Cục Chăn nuôi với những thủ tục liên quan tới xuất nhập khẩu thức ăn chăn nuôi, Cục Bảo vệ thực vật với thủ tục nhập khẩu thuốc BVTV, Tổng cục Thủy sản với các hồ sơ xuất nhập khẩu thức ăn thủy sản 100% các công đoạn từ khi tiếp nhận đến lúc trả hồ sơ kết quả đều thông qua hệ thống mạng trực tuyến. Qua đó, tiết kiệm được rất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc... Theo kế hoạch, khoảng 80% số lượng hồ sơ, TTHC thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước chuyên ngành của các đơn vị thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập và quá cảnh hàng hóa sẽ được giải quyết trên mạng thông tin điện tử mức độ 3, 4 vào năm 2018. 4.10 Truy xuất nguồn gốc thực phẩm Công nghệ thông tin giúp phân phối hiệu quả và cung cấp các số liệu thực tế phục vụ cho việc truy xuất nguồn gốc thực phẩm và tiêu chuẩn an toàn thực phẩm. Sử dụng công nghệ truy xuất nguồn gốc sẽ dễ dàng xử lý các lô hàng kém chất lượng hoặc hàng giả và giúp cho việc kiểm soát chặt chẽ các hàng hóa 25 đưa vào thị trường một cách minh bạch và rõ ràng đồng thời làm hạn chế lượng hàng kém chất lượng, hàng giả lưu thông trên thị trường, giúp người tiêu dùng được tiếp cận một hệ thống cung cấp thông tin minh bạch, đầy đủ nhất, truy xuất nguồn gốc về sản phẩm từ khâu sản xuất, nguyên liệu, đóng gói và vận chuyển phân phối. Các thị trường phát triển rất chú trọng việc truy xuất nguồn gốc, đặc biệt trong ngành thực phẩm. Ở châu Âu, từ năm 2005, EU xác định truy xuất nguồn gốc là quy định bắt buộc cho các nước thành viên. Hệ thống siêu thị bán lẻ ở Anh cũng tăng cường hệ thống kiểm định này. Tháng 1/2011, Mỹ đã ban hành Luật Hiện đại hóa An toàn thực phẩm (FSMA - Food Safety Modernization Act), yêu cầu tăng cường theo dõi, truy vết thực phẩm và lưu trữ hồ sơ đối với thực phẩm nguy cơ cao (phải có hệ thống lưu trữ hồ sơ dễ tiếp cận, khi cần thiết có thể gửi tới cơ quan thẩm quyền trong thời gian 24 giờ kể từ khi nhận được yêu cầu của cơ quan kiểm tra). Tương tự, Ireland, Canada cũng đã có những quy định nghiêm ngặt về việc dán nhãn mác, nhận diện sản phẩm, cơ sở sản xuất. Ở Ấn Độ, từ năm 2006, các nhà sản xuất, chế biến nho đã lập ra hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử GrapeNet. Nhờ vậy, họ chiếm hoàn toàn lòng tin từ thị trường nhập khẩu EU. Từ năm 2010 đến nay, Bộ Nông nghiệp Thái Lan, thông qua Văn phòng quốc gia về tiêu chuẩn nông sản và thực phẩm (ACFS-The National Bureau of Agricultural Commodity and Food Standards), đã đưa ra chuẩn quốc gia về truy xuất nguồn gốc điện tử, xây dựng cổng thông tin truy xuất nguồn gốc điện tử để nông dân vào đăng ký dùng miễn phí, được ACFS tập huấn và hỗ trợ. Đến nay, nải chuối hay quả sầu riêng bán ở cửa hàng rau quả nhỏ ở Thái Lan cũng được dán mã 26 QR. Điều này đã mang lại hiệu quả kinh tế rõ ràng cho nông dân Thái Lan. Việc đảm bảo hàng hóa có chất lượng tốt là điều rất quan trọng cho khả năng cạnh tranh. Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, sự cạnh tranh không chỉ xuất hiện khi hàng hóa Việt Nam đi ra thế giới mà còn ở ngay thị trường trong nước, khi hàng hóa thế giới tiến vào Việt Nam. Doanh nghiệp cần đảm bảo cơ sở cho niềm tin của người tiêu dùng. Giải pháp là hệ thống minh bạch thông tin về quá trình hàng hóa từ lúc sản xuất cho đến khi tới tay người tiêu thụ. Nhiều doanh nghiệp đã hướng đến sản xuất thực phẩm đạt các tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, ASC, HACCP..., nhưng như vậy vẫn chưa đủ nghiêm ngặt cho chuẩn mực chất lượng. Người tiêu dùng cần có sự minh bạch hơn về quy trình, nguồn gốc sản phẩm, tức họ cần có thông tin truy xuất nguồn gốc tại tất cả các khâu trong chuỗi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, để biết liệu đơn vị cung cấp sản phẩm có nỗ lực tối đa trong vấn đề đảm bảo chất lượng sản phẩm hay không; sản phẩm có được kiểm soát chất lượng một cách nghiêm túc trong toàn bộ chuỗi cung ứng hay không. Do vậy, truy xuất nguồn gốc sản phẩm đang dần trở thành xu thế tất yếu và là yêu cầu bắt buộc, cho phép người tiêu dùng có đầy đủ thông tin ngược dòng, từ sản phẩm cuối cùng về nơi sản xuất ban đầu, rà soát từng công đoạn trong chế biến và phân phối. Xu hướng hiện nay là sử dụng công nghệ thông tin và các thiết bị điện tử để giúp cho việc cập nhật thông tin, quản lý dữ liệu và truy xuất nguồn gốc sản phẩm được thuận lợi. Với giải pháp này, doanh nghiệp sản xuất đưa thông tin lên hệ thống từ những khâu đầu của chuỗi sản xuất cho đến khâu đóng gói sản phẩm. Tất cả thông tin về sản phẩm được lưu trữ vào máy chủ, dễ dàng truy 27 xuất và người mua có thể xem thông tin về lô hàng trên hệ thống ngay khi lô hàng chưa rời khỏi nơi sản xuất. Có thể truy xuất nhanh nguồn gốc sản phẩm qua mã QR (QR code: mã vạch 2 chiều hay mã phản hồi nhanh, mã vạch ma trận) in trên bao bì sản phẩm bằng cách dùng ứng dụng quét mã trên điện thoại thông minh. Khác với phương pháp truy xuất nguồn gốc truyền thống được ghi chép bằng tay, lưu trữ bằng giấy tờ sổ sách, với sự hỗ trợ của CNTT, đơn vị sản xuất sẽ dễ dàng hơn trong việc quản lý hồ sơ, giấy tờ trên máy tính. Tất cả thông tin sản phẩm được lưu trữ vào máy chủ, dễ dàng truy xuất. Lô hàng mới đóng gói đã được đưa thông tin lên mạng chưa ra khỏi nhà máy nhưng bên người bán đã xem được thông tin lô hàng. Tuy nhiên, hệ thống này chỉ là công cụ, đơn vị sản xuất phải có trách nhiệm cung cấp thông tin trong từng khâu một, chứng chỉ kiểm nghiệm của nhà sản xuất. Nhiều doanh nghiệp có dây chuyền sản xuất phức tạp sẽ cần có hệ thống truy xuất nội bộ để quản lý thông tin sản phẩm. Nếu thực hiện tốt công việc truy xuất nội bộ thì việc áp dụng hệ thống truy xuất điện tử sẽ được thực hiện dễ dàng hơn. Các nền tảng của truy xuất nguồn gốc điện tử cũng đảm bảo khả năng có thể tích hợp hài hòa với hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp (ERP - Enterprise Resource Planning). Với doanh nghiệp, các doanh nghiệp sẽ có thêm cơ hội quảng bá, xây dựng thương hiệu; góp phần đẩy mạnh quá trình tương tác giữa người sản xuất, doanh nghiệp phân phối và người tiêu dùng. Truy xuất nguồn gốc là bước đầu tạo sự tin tưởng nơi khách hàng, bày tỏ thiện chí minh bạch mọi thông tin về sản phẩm. 28 Về phía người tiêu dùng, truy xuất nguồn gốc thực phẩm là giải pháp cho phép người tiêu dùng trực tiếp thu thập thông tin về thực phẩm, truy ngược dòng từ thành phẩm cuối cùng về nơi sản xuất ban đầu, rà soát từng công đoạn trong chế biến và phân phối bằng cách sử dụng ứng dụng chạy trên điện thoại thông minh để quét mã QR code dán trên sản phẩm. Đây là giải pháp kiểm tra chất lượng sản phẩm hiệu quả, nhanh gọn. Khi chủ động truy xuất bằng chính mã vạch trên mỗi sản phẩm thông qua hệ thống thông tin hiện đại, người tiêu dùng yên tâm mua sắm, còn nhà bán lẻ dễ kiểm soát rủi ro phát sinh khi theo dõi và xác minh toàn bộ đường đi của hàng hóa. Người tiêu dùng chỉ cần sử dụng smartphone chụp lại mã QR trên bao bì sản phẩm là có thể biết được mọi thông tin về sản phẩm mình đang chuẩn bị mua. Đặc biệt, người tiêu dùng cũng có thể xem lại sản phẩm đã quét hay bản đồ từ vị trí của mình tới vị trí các nhà cung cấp thực phẩm trong hệ thống thông qua Google Maps. Ngoài ra, những góp ý, phản hồi về sản phẩm của người tiêu dùng cũng sẽ được chuyển đến cơ quan quản lý và doanh nghiệp. Dùng mã code để truy xuất nguồn gốc thực phẩm sẽ giúp công tác quản lý chất lượng thực phẩm chặt chẽ hơn, giúp người tiêu dùng tránh mua phải các loại hàng trôi nổi, không rõ nguồn gốc xuất xứ trên thị trường. 4.11 Công nghệ viễn thám Ngành viễn thám phát triển đã đóng một vai trò hết sức quan trọng, là một công cụ phục vụ và hổ trợ đắc lực cho các ngành khác nhau. Với kỹ thuật của viễn thám bằng ảnh máy bay hay ảnh vệ tinh con người có thể quan sát được những vật thể trên bề mặt của trái đất ở phạm vi rộng lớn mà mắt thường không thể quan sát được đồng thời xác định hình thể cũng như tính 29 chất của vật thể đó qua việc giải đoán ảnh. Các ảnh sau khi thu được là một ảnh thực với độ chính xác và thể hiện đầy đủ các chi tiết của bề mặt trái đất vào lúc chụp. Do đó, bức ảnh được xem như là một trợ dụng cụ xuất sắc cho phép con người nghiên cứu thiên nhiên ở bất cứ nơi nào và bất kỳ lúc nào. Ngày nay với kỹ thuật chụp ảnh viễn thám ngày càng hiện đại hơn đã góp phần to lớn trong việc thu thập, phân tích các thông tin và phát hiện sự hiện diện cũng như sự thay đổi của môi trường và tài nguyên thiên nhiên trên trái đất để phục vụ cho các mục đích khác nhau, cụ thể: - Viễn thám trong quản lý sử dụng đất: Thống kê và thành lập bản đồ sử dụng đất; Điều tra giám sát trạng thái mùa màng và thảm thực vật. - Ứng dụng công nghệ viễn thám trong lâm nghiệp: Điều tra phân loại rừng, diễn biến của rừng; Nghiên cứu về côn trùng và sâu bệnh phá hoại rừng, cháy rừng. - Viễn thám ứng dụng trong quản lý sự biến đổi môi trường: Điều tra về sự biến đổi sử dụng đất và lớp phủ; Vẽ bản đồ thực vật; Nghiên cứu các quá trình sa mạc hoá và phá rừng; Giám sát thiên tai (hạn hán, lũ lụt, cháy rừng, bão, mưa đá, sương mù, sương muối,...); Nghiên cứu ô nhiễm nước và không khí. - Viễn thám trong nghiên cứu tài nguyên nước: Lập bản đồ phân bố tài nguyên nước; phân bố tuyết; phân bố mạng lưới thuỷ văn; các vùng đất thấp. - Ngoài ra viễn thám còn được ứng dụng trong địa chất như thành lập bản đồ địa chất; bản đồ phân bố khoáng sản; bản đồ phân bố nước ngầm; bản đồ địa mạo. Trong khí tượng thuỷ văn Viễn thám được ứng dụng trong đánh giá định lượng lượng 30 mưa, bão và lũ lụt, hạn hán; Đánh giá, dự báo dòng chảy, đánh giá tài nguyên khí hậu, phân vùng khí hậu. Trong những năm gần đây, đã có nhiều nghiên cứu về ứng dụng tư liệu ảnh viễn thám MODIS trong theo dõi mùa vụ lúa như nghiên cứu của Dương Văn Khảm và ctv (2007), Chi- Farn Chen et al. (2008), Trần Thị Hiền (2010), và Vũ Hữu Long và ctv (2011); Trần Thị Hiền, và ctv (2013); Vo Quang Minh, Hồ Văn Chiến (2013). Kết quả từ những nghiên cứu này cho thấy ảnh MODIS có thể giúp theo dõi và xác định được thời vụ lúa ở các địa phương, đánh giá được hiện trạng canh tác lúa làm cơ sở dự báo và đề xuất các giải pháp phù hợp. Việc sử dụng kỹ thuật ảnh viễn thám kết hợp với kỹ thuật hệ thống thông tin địa lý (GIS), bằng phương pháp thống kê hay nội suy không gian, đã được ứng dụng trong nhiều nghiên cứu về sự phân bố không gian các đặc tính tự nhiên ở nhiều nước trên thế giới (Liebhold and Kamata, 2000). Từ kết quả giải đoán có thể theo dõi và xác định được thời điểm cũng như tiến độ xuống giống ở các địa phương, đánh giá được hiện trạng canh tác lúa và dự đoán những vùng có nguy cơ dịch hại làm cơ sở đề xuất các giải pháp phù hợp với từng trà lúa ở từng vùng khác nhau. Việt Nam là một trong 5 nước chịu ảnh hưởng lớn nhất do biến đổi khí hậu nên việc áp dụng công nghệ viễn thám vào quy hoạch và điều hành SX nông nghiệp là xu thế tất yếu. Hiện nay, khoa học ứng dụng cho lĩnh vực này ngày càng phát triển. Bộ Nông nghiệp và PTNT rất quan tâm đến việc ứng dụng công nghệ viễn thám vào SX nông nghiệp như ứng dụng công nghệ GIS vào bảo vệ và phát triển rừng; dự đoán sản lượng lúa; kiểm soát tàu đánh cá trên biển; giám sát lũ lụt và thảm họa thiên tai 31 Việc ứng dụng dữ liệu MODIS hiệu để phát hiện mức độ ngập lụt theo không gian-thời gian rộng lớn và có thể cập nhật hàng ngày là một kết quả khá quan trọng cho vùng hạ lưu sông Mekong thời gian qua. Ảnh vệ tinh MODIS (MOD09A1, độ phân giải 500m, 8 ngày lập) ở khu vực hạ lưu sông Mekong chụp từ ngày 26/02/2000 đến ngày 27/12/2011 được sử dụng có khả năng phát hiện những thay đổi lũ lụt cao ở cấp khu vực, có sự tương quan khá cao với số liệu mực nước thủy văn ghi nhận tại các trạm quan trắc (R2: 0,79-0,90). Có mối liên hệ chặt chẽ giữa chỉ số thực vật tăng cường EVI, chỉ số nước bề mặt LSWI với trạng thái phát triển thực vật và diễn biến lũ. Bản đồ hiện trạng ngập vào mùa lũ của khu vực nghiên cứu được thành lập giúp đánh giá mức độ ngập lũ và đặc điểm thời gian lũ lụt qua các năm 2000 đến 2011. Trong những năm qua, Việt Nam đã dùng công nghệ viễn thám để xây dựng bản đồ hiện trạng sử dụng đất tại 11 tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng bằng phương pháp sử dụng ảnh vệ tinh SPOT4 và SPOT5. Theo dõi lúa Đồng bằng sông Hồng từ năm 2012 đến nay, sử dụng ảnh vệ tinh MODIS để dự báo năng suất, ước tính sản lượng, theo dõi sinh trưởng của lúa, theo dõi tình trạng khô hạn, ngập úng. Hệ thống Webgis và viễn thám quản lý sản xuất lúa khu vực Đồng bằng sông Cửu Long cũng đã sử dụng ảnh MODIS để theo dõi sản xuất lúa, tạo thành nguồn dữ liệu đầu vào độc lập cho hệ thống thông tin, sử dụng phép phân tích dữ liệu đầu vào độc lập cho hệ thống thông tin, sử dụng phép phân tích dữ liệu không gian và thời gian để xác định thời điểm xuống giống, tiến độ xuống giống; xác định giai đoạn sinh trưởng của lúa trên ruộng. Trên cơ sở đó, xây dựng bản đồ hiện trạng lúa thống kê 32 diện tích lúa theo từng giai đoạn sinh trưởng, xác định tiến độ thu hoạch lúa. Qua đó, tính toán diện tích gieo cấy và dự đoán năng suất cho từng xã, từng huyện, từng tỉnh. V. Một số ứng dụng CNTT trong sản xuất và kinh doanh Nông nghiệp 5.1 Công nghệ không dây (wireless) Công nghệ không dây đã mở rộng nhanh chóng trong những năm gần đây, đặc biệt là trong công nghệ điện thoại di động. Bên cạnh đó công nghệ không dây còn có nhiều ứng dụng trong nông nghiệp. Mục đích chính là đơn giản hóa truyền hình mạch kín hệ thống camera. Việc sử dụng các thông tin liên lạc không dây giúp loại bỏ sự cần thiết cho việc lắp đặt cáp đồng trục, giúp liên lạc tầm xa hoặc thực tế không thể lắp đặt hệ thống dây dẫn. Ứng dụng công nghệ không dây làm đơn giản hóa việc kết nối trong hệ thống. Một số ứng dụng về mạng cảm biến không dây bao gồm theo dõi sự di chuyển của các loài chim, loài thú nhỏ, côn trùng; kiểm tra các điều kiện môi trường ảnh hưởng tới mùa màng và vật nuôi; tình trạng nước tưới; phát hiện hóa học, sinh học; tính toán trong nông nghiệp; kiểm tra môi trường không khí, đất trồng, biển; phát hiện cháy rừng; nghiên cứu khí tượng và địa lý; phát hiện lũ lụt; vẽ bản đồ sinh học phức tạp của môi trường và nghiên cứu ô nhiễm môi trường. Các ứng dụng của các mạng cảm biến không dây cũng được sử dụng trên các trang trại chăn nuôi. Người chăn nuôi có thể sử dụng các mạng cảm biến trong quá trình quyết định vị trí của động vật trong trang trại và với các cảm biến được gắn theo mỗi động vật, xác định yêu cầu cho các phương pháp điều trị để phòng chống các động vật ký sinh. 33 Người chăn nuôi heo, gà có các đàn trong các chuồng nuôi mát, thoáng khí. Mạng cảm biến không dây có thể được sử dụng cho việc giám sát nhiệt độ khắp chuồng nuôi, đảm bảo an toàn cho đàn. Mạng có thể được dung để đo độ ẩm ở từng khu vực trong trang trại hay lượng mưa ở những khu vực khác nhau. Các nút mạng được bố trí tại các cánh đồng khác nhau để thu thập các thông tin về môi trường (nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng...) sau đó chuyển dữ liệu về người nông dân. Người nông dân khi có các thông tin về môi trường ở từng khu vực khác nhau sẽ đưa ra các phương hướng chăm sóc khác nhau đối với từng khu vực để chăm sóc cho tốt. Trong dự báo cháy rừng, mỗi nút mạng sẽ gắn một cảm biến đo nhiệt độ, độ ẩm của không khí phân tán trong rừng, Mỗi nút cảm biến có thể thu thập nhiều thông tin khác nhau liên quan đến cháy như nhiệt độ, khói ...Các dữ liệu thu thập được truyền tới trung tâm điều khiển để giám sát, phân tích, phát hiện và cảnh báo cháy sớm ngăn chặn thảm họa cháy rừng. Trong nuôi trồng thủy sản, mạng cảm biến không dây có thể được dùng để quan trắc nồng độ ôxy, độ pH trong các hồ nuôi trồng hải sản, khi đó có thể điều khiển tự động các quạt đạp nước cung cấp ôxy và thông báo cho người quản lý biết tình hình về nguồn nước hiện tại trong ao. Nút mạng có lắp Sensor đo ôxy hoặc CO2 được thả xuống ao để đo lượng Ôxy và dữ liệu được gởi qua các nút trung gian về máy tính, máy tính được kết nối và lập trình điều khiển bật tắt các quạt đạp nước trong một khoảng thời gian nhất định phụ thuộc vào nồng độ ôxy đo được tại ao tại các thời điểm khác nhau. 34 5.2 Định vị toàn cầu (GPS) Thiết bị định vị toàn cầu (GPS) là thiết bị thu nhận và xử lý tín hiệu từ các vệ tinh định vị, giúp xác định tọa độ vị trí các điểm trên mặt đất dựa vào một hệ thống gồm 3 thành phần chính là vệ tinh định vị-Trạm mặt đất-Người sử dụng. Trong nông nghiệp, việc sử dụng các hệ thống định vị toàn cầu đem lại lợi ích trong địa lý, lập bản đồ, khảo sát biến động không gian. Máy thu GPS giảm giá thành trong những năm qua, làm cho nó phổ biến hơn cho mục đích dân sự. Với việc sử dụng GPS, người dân có thể sản xuất bản đồ số hóa đơn giản nhưng chính xác cao mà không cần sự giúp đỡ của một chuyên gia vẽ bản đồ. Ở các nước phát triển đã ứng dụng máy nông nghiệp có máy tính hướng dẫn với bộ tích hợp chuyên dụng. Máy tính được dùng để điều khiển và tiếp nhận tín hiệu dẫn đường từ vệ tinh thông qua hệ thống định vị toàn cầu (GPS). Công nghệ GPS giúp thiết bị máy nông nghiệp cắt các hàng cây theo 1 đường thẳng đã thiết kế và sử dụng lượng phân bón đúng vị trí cần bón. Người dân ở miền bắc Virginia sử dụng Hệ thống hướng dẫn định vị toàn cầu được tích hợp vào bộ điều khiển máy nông nghiệp để hướng dẫn tự động tác nghiệp bón phân hay canh tác trên bề mặt đất. Sau khi hoàn thành các công đoạn chuẩn bị đất trồng, nó sẽ trở lại và gieo hạt trên đúng trên thửa đất được đánh dấu. Nhà nông học tại trường Đại học Purdue (Ấn Độ) ứng dụng thiết bị dẫn đường để tiết kiệm lượng hạt giống, thuốc trừ sâu hoặc phân bón, do đó nó có thể tiết kiệm chi phí và ít gây tổn hại đến môi trường ngăn ngừa sự lan tràn của các loài cỏ dại phá hoại mùa màng. Ngoài ra, còn có thê theo dõi sự di chuyên của côn trùng hoặc sâu bệnh. Ví dụ ở Kenya, giải pháp ngăn chặn voi tự nhiên vào các trang trại phá 35 hủy các cây trồng quý giá là gắn thẻ con voi bằng một thiết bị gửi tin nhắn văn bản khi nó vượt qua hàng rào địa lý. Sử dụng công nghệ SMS và GPS, do đó, voi được thả tự nhiên tuy nhiên sẽ được chính quyền cảnh báo khi chúng đến gần các nông trại. Ứng dụng GPS/GIS trong quản lý điều hành hệ thống thu hoạch, bón phân Một cách tiếp cận mới trong nghiên cứu hoạch định chiến lược, chính sách nông nghiệp là dựa trên hệ thống địa lý đa cấp độ. Với mục tiêu khái quát hóa tính đa dạng nông nghiệp-sinh thái và kinh tế-xã hội, tổng hợp các dữ liệu không đồng nhất (đa thời điểm, đa nguồn gốc và có độ phân giải khác nhau) trong một cơ sở kiến thức chung và xác định các vùng đồng nhất xét theo góc độ và các vấn đề phát triển. Kết quả nghiên cứu đem lại sự phân loại các vấn đề phát triển, sự phù hợp giữa giải pháp đề xuất và nơi tiếp nhận sẽ là cơ sở khoa học và khách quan hỗ trợ cho các nhà quy hoạch, quản lý ra quyết định. Sản xuất nông lâm nghiệp trở nên đơn giản, dễ dàng hơn với việc sử dụng GPS. Toàn bộ thông tin về nông lâm nghiệp được thể hiên trên bản đồ, các nhà hoạch định chính sách, các nhà đầu tư dễ dàng có những quyết định phù hợp và chính xác. Nhật Bản là một trong những quốc gia áp dụng GPS vào sản xuất nông nghiệp phổ biến nhất. Các nhà sản xuất lắp đặt các thiết bị GPS để tiếp nhận thông tin truyền qua vệ tinh của các máy kéo, 36 máy liên hợp và máy móc thiết bị nông nghiệp khác, đã giúp hoạt động canh tác nông nghiệp được vận hành chính xác. Mạng lưới cảm biến được sử dụng để đo nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, carbon dioxide hay những yếu tố cần thiết giúp phát triển tốt nhất một số cây trồng phù hợp với thổ nhưỡng và khí hậu. Mạng lưới này đi kèm với những điều chỉnh tự động trong hệ thống thông gió, che chắn ánh sáng và các yếu tố khác giúp duy trì mức độ carbon dioxide phù hợp nhất để phát triển và hỗ trợ môi trường tối ưu cho từng loại cây trồng. 37 Hệ thống định vị toàn cầu kiểu Nhật là hệ thống vệ tinh định vị chất lượng cao Quasi-Zenith Satellite System (QZSS), tiếng Nhật là Juntencho, âm Hán-Nhật là Chuẩn thiên đỉnh, bao phủ vùng Đông Á và châu Đại Dương. Vệ tinh Juntencho đầu tiên có tên Michibiki được phóng ngày 11/9/2010. GPS giúp hoạt động canh tác nông nghiệp được vận hành chính xác Hệ thống GPS hiện hành ở Nhật chủ yếu vẫn dựa vào các vệ tinh của Mỹ. Nhưng do nước này có nhiều đồi núi nên tín hiệu GPS khó có thể hoàn toàn phủ kín các vùng, và định vị vẫn tồn tại sai số khá lớn, vào khoảng 10 m. Kế hoạch vũ trụ cơ bản công bố hồi tháng Một năm nay đề xuất, trước năm 2033 sẽ 38 tăng số lượng vệ tinh QZSS từ một hiện nay lên bảy cái, nhằm xây dựng hệ thống định vị riêng của Nhật, bảo đảm bất kỳ vùng nào trong cả nước Nhật đều có thể nhận được số liệu xác định phương vị với sai số không quá 5 m. Hệ thống mới này sẽ mở đường cho tiến trình sử dụng số liệu vệ tinh để phục vụ nông nghiệp. Người ta cũng đang tăng cường khả năng sử dụng xe không người lái và máy móc loại nhỏ không người điều khiển để tiến hành kiểm tra các thiết bị hạ tầng cơ sở. 5.3 Hệ thống thông tin địa lý Có thể nói GIS là một hệ thống dưới dạng số dùng cho việc phân tích và quản lý các số liệu thuộc về địa lý được kết hợp với các hệ thống phụ dùng cho việc nhập các dữ liệu và quyết định một kế hoạch phát triển nào đó. GIS, được sử dụng rộng rãi trong nông nghiệp, các dữ liệu trắc địa cần thiết như địa hình và đường nét được kết hợp với dữ liệu thống kê khác để phân tích. GIS được sử dụng trong việc ra quyết định những gì cần thiết để canh tác và trồng nơi nào bằng cách sử dụng dữ liệu lịch sử và lấy mẫu. Thí dụ như các bản đổ đất, mưa, địa hình, mật độ dân số, sử dụng đất, ... có thể được kết hợp để phát triển thành một bản đổ mới sẽ chỉ ra được những vùng có khả năng đất bị xói mòn hoặc những vùng đất thích nghi cho sự phát triển của các loại cây ăn trái hoặc lúa 2, 3 vụ, ... với các mức độ khác nhau tuỳ vào các yêu cầu mà ta đã đặt ra trước đó. Bên cạnh đó, GIS có thể được sử dụng để theo dõi sự phát triển của cỏ dại, sâu bệnh phá hoại mùa màng, thể hiện loại đất, hạn hán, lũ lụt và rất nhiều yếu tố khác giúp quản lý quá trình sản xuất nông, lâm nghiệp và phát triển nông thôn. Trong sản xuất nông 39 nghiệp, GIS có thể sử dụng để giám sát mùa vụ cho từng cây trồng. Việc dự báo có thể bằng cách xem xét khí hậu của vùng hoặc bằng cách theo dõi sự sinh trưởng và phát triển cây trồng, sẽ dự đoán được sự thành công của mùa vụ. GIS có thể giúp tìm và thể hiện những thay đổi của cây trồng trong từng gia đoạn. Ngoài ra GIS có thể ứng dụng trong quản lý bảo vệ thực vật, giám sát cỏ dại ở các thời kỳ một cách chính xác. Một số ứng dụng của GIS trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn: Thổ nhưỡng: Xây dựng các bản đồ đất và đơn tính đất; Đặc trưng hoá các lớp phủ thổ nhường. Trồng trọt: Khả năng thích nghi các loại cây trồng; Sự thay đổi của việc sử dụng đất; Xây dựng các đề xuất về sử dụng đất; Khả năng bền vững của sản xuất nông nghiệp Nông - Lâm kết hợp; Theo dõi mạng lưới khuyến nông; Khảo sát nghiên cứu dịch - bệnh cây trồng (côn trùng và cỏ dại); Suy đoán hay nội suy các ứng dụng kỹ thuật Quy hoạch thuỷ văn và tưới tiêu: Xác định hệ thống tưới tiêu; Lập thời biểu tưới nước; Tính toán sự xói mòn/ bồi lắng trong hồ chứa nước; Nghiên cứu đánh giá ngập lũ. Kinh tế nông nghiệp: Điều tra dân số / nông hộ; Thống kê; Khảo sát kỹ thuật canh tác; Xu thế thị trường của cây trồng; Nguồn nông sản hàng hoá. Phân tích khí hậu: Hạn hán; Các yếu tố thời tiết; Thống kê Mô hình hoá nông nghiệp: Ước lượng / tiên đoán năng suất cây trồng Chăn nuôi gia súc/gia cầm: Thống kê; Phân bố; Khảo sát và theo dõi diễn biến, dự báo dịch bệnh. 40 5.4 Các ứng dụng trên điện thoại thông minh Ngày nay, việc sử dụng điện thoại trong sản xuất nông nghiệp trên toàn thế giới ngày một lan rộng, bởi nó mang lại rất nhiều tiện lợi, hữu ích như tiết kiệm chi phí, thời gian, công sức đồng thời cải thiện đáng kể năng suất, sản lượng nông nghiệp. Những ứng dụng điện thoại di động không chỉ phân tích các yếu tố đầu vào, dự báo thời tiết nông nghiệp, cung cấp kiến thức về trồng trọt và chăn nuôi, mà còn có các dịch vụ công nghệ cao. Tại Ấn Độ, điện thoại thông minh (smartphone) đang tạo nên một cuộc cách mạng cho nền nông nghiệp nước này. Ngày càng nhiều nông dân Ấn Độ sử dụng các ứng dụng trên smartphone để biết được lượng nước cần tưới dựa trên dự báo mưa, giá cả thực phẩm chính phủ, biện pháp phòng sâu bệnh, cách chăm sóc và phòng bệnh cho gia súc, kết nối người mua và người bán địa phương. Trong khi đó tại Mỹ, số lượng nông dân sử dụng smartphone đã tăng từ 10% (năm 2010) lên 40% năm 2011. Hiện số nông dân sở hữu điện thoại thông minh ở nước này là 94%. Nhờ những thông tin chính xác, nông dân đã tiết kiệm tới 50% lượng nước tưới. Không chỉ có tiết kiệm nước, các ứng dụng phổ biến được nông dân Mỹ sử dụng bao gồm: IveGot1 - ứng dụng cung cấp thông tin về vị trí địa lý của khu vực, và phát hiện các loài vật xâm phạm vào trang trại; Bigoven – sử dụng những thành phần hiện có của nông dân để thiết lập công thức sản xuất, Allergy Detective – phát hiện bệnh cho cây trồng; Nutrition Menu – kiểm tra mức độ dinh dưỡng dựa trên những thức ăn được nạp vào cơ thể; Field Guide – đăng tải ảnh và định vị GPS về các loài vật có hại, Cattle Breeding Calculator – theo dõi quá 41 trình chăm sóc, thu hoạch của gia súc. Ngoài ra còn có các ứng dụng cho phép nông dân vay vốn, tiết kiệm tiền và đổi tiền. Từ đầu năm đến giờ, tổng giá trị các giao dịch thông qua các ứng dụng này đã đạt 730 tỷ đô la. Tại Việt Nam, việc sử dụng smartphone để điều khiển, kiểm soát và thu thập dữ liệu của một nông trại còn chưa phổ biến nhiều. Hầu hết mới chỉ dùng lại ở việc hẹn giờ tưới cây bằng điện thoại. Tuy nhiên, Việt Nam có một vài mô hình đã áp dụng thành công ứng dụng trên smartphone đạt hiệu quả rất cao, như mô hình trồng nấm linh chi ở An Giang. Nhờ ứng dụng điện thoại điều khiển từ xa để biết được nhiệt độ và độ ẩm của vườn, trại nấm đã cho năng suất tăng hơn 30% so với phương pháp thông thường. Thông qua phần mềm, người nông dân có thể biết được độ ẩm và nhiệt độ trong vườn. Chỉ cần ra lệnh tưới trên điện thoại, hệ thống phun sương sẽ bắt đầu tưới và tự động dừng khi độ ẩm đã đạt ngưỡng quy định. Do vậy, điện thoại di động đã giúp tiết kiệm được thời gian, công sức tưới hàng ngày và đo đạc được chỉ số phát triển của cây trồng, vật nuôi. 5.5 Nhận dạng bằng tần số vô tuyến (RFID) Hệ thống RFID ra đời giúp nhà nông tăng năng suất chất lượng sản phẩm nông nghiệp. Radio Frenquency Identifycation – RFID gồm: thẻ, bộ đọc thẻ, máy chủ, phần mềm lớp giữa (middleware) và phần mềm ứng dụng. Loại thiết bị này cho phép cây trồng “giao tiếp” với nông dân: giúp cho người nông dân biết thông tin chúng đang thiếu và cần gì (nước, phân bón), kiểm soát sâu bệnh cho cây RFID là công nghệ tự động nhận dạng đối tượng bằng sóng vô tuyến, có khả năng lưu trữ và nhận dữ liệu từ xa thông qua bộ phát tần số siêu nhỏ. Công nghệ này 42 cho phép theo dõi chặt chẽ nguồn gốc và quá trình phát triển của gia súc, cây trồng. Khi được gắn lên nông sản, thẻ RFID cung cấp thông tin giúp kiểm soát theo quá trình, từ sản xuất, đóng gói, bảo quản, đến vận chuyển, Nhờ đó người nông dân vừa giảm bớt tổn thất, vừa tạo dựng được niềm tin với người mua. Hệ thống truy nguyên nguồn gốc nông sản ứng dụng công nghệ RFID và điện thoại di động Xây dựng hệ thống truy nguyên nguồn gốc nông sản để định dạng một sản phẩm và lưu trữ thông tin của sản phẩm đó từ quá trình sản xuất đến tiêu thụ trên cơ sở ứng dụng công nghệ RFID và điện thoại di động. Hệ thống bao gồm 3 thành phần: (i) cập nhật thông tin sản xuất sử dụng điện thoại di động; (i) hệ thống phân phối sử dụng công nghệ RFID và thẻ đọc; và (iii) thông tin cung cấp cho khách hàng. Đeo thẻ RFID cho bò. Bảo vệ động vật tránh khỏi bệnh tật là một trách thức nghiêm trọng mà các nước trên thế giới phải đối mặt, trong đó có Việt Nam. Bảo vệ an toàn thực phẩm cũng là một sự kiện lớn liên 43 quan đến nền kinh tế quốc gia cũng như đời sống của nhân dân. Nhờ vào các đặt tính kỹ thuật và sự tiện dụng của công nghệ, cho phép ứng dụng rộng rãi trong trong việc theo dõi nguồn gốn động vật. Từ những thành công và kinh nghiệm trên thế giới, ứng dụng công nghệ RFID, trong việc quản lý động vật đang được mở rộng. Sản phẩm dành cho động vật là thẻ đeo tai và thiết bị RFID nhận dạng thẻ, thiết bị được sử dụng để theo dõi và giám sát khi chăn nuôi, lúc vận chuyển và giết mổ. Nếu bệnh dịch có xảy ra, công nghệ RFID sẽ truy tìm nguồn gốc động vật để thực hiện quản lý an ninh và nhanh chóng truy tìm sản phẩm (thịt). Và sẽ ngắt các tuyến đường lay lan của bệnh tật, từ đó, có thể kiểm soát bệnh dịch xảy ra và truyền nhiểm nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm (thịt). Trong khi đó, RFID có thể nhận dạng ra sự thực hiện minh bạch trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm (thịt). Để bảo vệ an toàn vệ sinh thực phẩm, các nhà đầu tư có thể sử dụng hệ thống này để theo động vật nhằm tránh lây lan bệnh tật đồng thời từ đó duy trì nòi giống và theo dõi lịch sử của chúng. Trong khi đó, hệ thống này cung cấp thời gian thực, cập nhật thông tin chi tiết và đáng tin cậy cho động vật tự lúc mới sinh ra cho đến khi thành phẩm. RFID cho phép theo dõi liên tục toàn bộ môi trường chăn nuôi. Người dùng được cảnh báo bằng điện thoại hoặc email nếu có bất kỳ tình trạng nào nằm ngoài tham số đã cài sẵn. Một số hệ thống có chức năng của một hệ thống giám sát tổng hợp đối với lợn, gia súc, gà thịt và sản xuất sữa, hiện đã sẵn sàng cho các mục đích thương mại. Ví dụ, từ năm 2009, Cục Thú y 44 Malaysia đã triển khai chương trình sử dụng RFID để theo dõi 80.000 gia súc trên toàn quốc. Mỗi gia súc được gắn thẻ RFID, giúp xác định vị trí, nguồn gốc, các chỉ số sinh lý Theo dõi bằng RFID, một mặt giúp nông dân điều chỉnh chế độ ăn uống thích hợp cho gia súc, mặt khác có thể nhanh chóng kiểm soát khi dịch bệnh bùng phát. Chương trình này đã góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản Malaysia trên thị trường quốc tế, đáp ứng được yêu cầu nghiêm ngặt từ những nước nhập khẩu như Mỹ, châu Âu, Trung Đông. Tại Australia, một hệ thống có tên Moocall giúp nông dân giám sát những con bò đang chuẩn bị sinh con. Một cảm biến chạy bằng pin phát hiện chuyển động của bò và gửi thông báo SMS. Pin có thời lượng 60 ngày, thiết bị sẽ gửi cảnh báo khi mức pin còn 15%. Một ứng dụng khác là CattleWatch sử dụng công nghệ đám mây, các cảm biến điện tử và nền tảng truyền thông tin để theo dõi từ xa tình trạng sức khỏe và vị trí của gia súc. Người dùng có thể truy cập dữ liệu về vị trí đàn, thời gian đi bộ, chăn thả, nghỉ ngơi, tình trạng tiêu thụ nước, nhiệt độ và các dữ liệu sức khỏe khác theo thời gian thực từ bất cứ đâu qua điện thoại thông minh. Hệ thống được gắn ở cổ gia súc (vòng đai) hoặc gắn thẻ vào tai này còn có thể phát sóng cảnh báo nếu phát hiện động vật ăn thịt hoặc kẻ săn trộm. 5.6 Thương mại điện tử (Ecommerce) Công nghệ thông tin giúp tăng khả năng tiếp cận thị trường đầu vào cũng như đầu ra trong nông nghiệp. Chợ thương mại điện tử là hướng đi mới giúp doanh nghiệp giới thiệu, quảng bá hình ảnh, sản phẩm, tiềm năng hợp tác tới lượng khách hàng lớn. Phương thức kinh doanh này hứa hẹn nâng cao sức cạnh 45 tranh của nông sản Việt chất lượng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sâu rộng trên phạm vi toàn cầu. Các doanh nghiệp khi tham gia là thành viên, sẽ được thực hiện một số giao dịch thương mại điện tử cơ bản như: Chào bán sản phẩm, đặt hàng, trả lời đơn đặt hàng... Mỗi doanh nghiệp được mở một trang web riêng hay gọi là gian hàng của doanh nghiệp (showroom) trên sàn giao dịch. Trang web giúp doanh nghiệp quảng bá, giới thiệu sản phẩm, dịch vụ doanh nghiệp thị trường trong nước và nước ngoài. Mỗi doanh nghiệp có thể được cấp một tài khoản truy cập vào chợ thương mại điện tử để quản lý, cập nhật thông tin, sản phẩm, dịch vụ lên chợ. Chuyên mục sản phẩm sẽ giới thiệu các sản phẩm của các doanh nghiệp, nông dân theo từng nhóm khác nhau: giống cây trồng, giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôi, giống thủy sản. Người sử dụng có thể giao tiếp trực tiếp với sản phẩm trong một nhóm, sàn giao dịch sẽ xuất hiện gian hàng của từng doanh nghiệp với thông tin chi tiết và sản phẩm đó. Người sử dụng có thể đặt mua hàng hoặc liên hệ với doanh nghiệp đối với sản phẩm. Cùng với kênh bán hàng truyền thống, kênh bán hàng trực tuyến đang được phát triển mạnh tại Việt Nam. Không chỉ có ở các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, thương mại dịch vụ, thương mại điện tử đã len lỏi đến với đối tượng là nông dân sản xuất nông nghiệp. Với sự phát triển của hệ thống Internet và phổ cập tin học cơ sở trong phong trào xây dựng nông thôn mới, bà con nông dân sẽ dễ dàng tiếp cận và trải nghiệm hình thức này. Qua chợ thương mại điện tử, bà con nông dân sản xuất trở thành những nhà cung cấp tiềm năng, bày bán sản phẩm, tìm kiếm những mặt hàng chuyên dụng cho nông nghiệp, tìm kiếm 46 thông tin áp dụng vào sản xuất cũng như tìm kiếm đối tác để có thể xuất khẩu hàng hóa. Chợ thương mại rất có ý nghĩa đối với doanh nghiệp nông, lâm, thủy sản Việt Nam trong hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như góp phần thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy sản. Nó sẽ tạo cơ hội để các doanh nghiệp nông, lâm, thủy sản tăng cường trao đổi, tìm kiếm đối tác tiêu thụ sản phẩm, ký kết hợp đồng với đối tác nước ngoài, đồng thời, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, sản phẩm hàng hóa trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sâu rộng trên phạm vi toàn cầu. Đặc biệt, khi các chợ thương mại điện tử uy tín trong và ngoài nước kết nối với nhau, các doanh nghiệp sẽ nhanh chóng tham gia vào phương thức kinh doanh đầy tiềm năng này và tiếp cận khách hàng thực tế trong và ngoài nước. Đây được xem là hướng đi mới và hữu ích nhằm giúp doanh nghiệp, người dân dễ dàng tiếp cận những thông tin liên quan về thị trường, sản phẩm, các quy định pháp lý, thiết lập và duy trì các mối liên hệ với khách hàng và đối tác... giúp giảm bớt chi phí, thúc đẩy tiêu thụ nông, lâm, thủy sản, sản phẩm thủ công mỹ nghệ, mua sắm vật tư, thiết bị phục vụ nông nghiệp. Mặt khác, các giao dịch của doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân qua chợ thương mại điện tử sẽ giúp cho các nhà quản lý xây dựng chiến lược phát triển ngành, dự báo thị trường. Đồng thời, giúp cho các doanh nghiệp sản xuất nắm bắt được thị hiếu, thông tin thị trường và định hướng sản xuất cho các doanh nghiệp và bà con nông dân. Với mạng lưới phủ sóng rộng khắp, dễ sử dụng, đa chức năng và giá rẻ, các thiết bị di động, đặc biệt là điện thoại đã giải quyết được thách thức lớn nhất của nhà nông trong việc kết nối với thị trường, thúc đẩy thương mại hóa các sản phẩm nông 47 nghiệp. Trước đây, nông dân hầu như không biết gì về giá cả thị trường nên nông sản thường được bán với mức giá rất chênh lệch ở những khu vực chỉ cách nhau vài cây số. Nhờ thông tin cập nhật thường xuyên qua điện thoại di động, người nông dân nay biết cách tiếp thị nông sản hiệu quả hơn, bán được nhiều hơn với giá tốt hơn. Đối với việc mua hàng trực tuyến các đầu vào và thiết bị nông nghiệp bằng thương mại điện tử. Chợ thương mại điện tử quy tụ các doanh nghiệp, những người sản xuất từ các ngành hàng thuộc lĩnh vực nông nghiệp, với đầy đủ các nhóm sản phẩm, được kết nối với các chợ thương mại điện tử nổi tiếng trong và ngoài nước, các Website của các đơn vị trong ngành nông nghiệp với nhiều chuyên mục: sản phẩm của các doanh nghiệp; tin giao thương; doanh nghiệp; tìm kiếm sản phẩm; tin giao thương doanh nghiệp; tìm kiếm nhanh; bản tin thương mại. 5.7 Áp dụng CNTT trong khuyến nông Công nghệ thông tin là cầu nối giữa các nhà nghiên cứu nông nghiệp, các tổ chức khuyển nông và nông dân, do đó thúc đẩy sản xuất nông nghiệp. Tiến bộ mới trong công nghệ thông tin, truyền thông và điện thoại di động cung cấp cho nông dân sản xuất nhỏ nhiều thông tin và sản phẩm dịch vụ sản xuất nông nghiệp một cách kịp thời và phù hợp. Đồng thời, công nghệ thông tin giúp các cán bộ khuyến nông dễ dàng tiếp cận với nông dân để phổ biến, chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật trong nông nghiệp. Viện lúa Quốc tế (IRRI) đã sử dụng cơ hội này để phát triển các ứng dụng (Apps) trên máy tính cá nhân và điện thoại di động Phần mềm Quản lý dinh dưỡng cho cây lúa, chuyển từ 48 hướng dẫn bón phân theo vùng chuyên biệt (SSNM) sang hướng dẫn bón phân theo nhu cầu của từng nông hộ. Phiên bản quốc gia về Phần mềm Quản lý dinh dưỡng cho cây lúa đã được chạy thử nghiệm và phát hành tại Philippines, Indonesia và Bangladesh. Những Apps riêng biệt không còn cần thiết cho máy tính cá nhân và hệ điều hành riêng của điện thoại thế hệ mới nữa. Thông qua việc sử dụng các tiến bộ mới trong lĩnh vực CNTT gần đây, mỗi ứng dụng, phần mềm quản lý dinh dưỡng sẽ hoạt động bình thường trên máy tính và điện thoại thế hệ mới với hệ điều hành chính, bao gồm cả Android và iOS (Apple). Phần mềm Quản lý dinh dưỡng được thiết kế cho cán bộ khuyến nông trong hệ thống khuyến nông quốc gia và cho cả các tổ chức tư nhân sử dụng. Cán bộ khuyến nông sử dụng các App này để thu thập thông tin từ nông dân và sau đó cung cấp cho nông dân bản hướng dẫn về bón phân cụ thể theo từng địa phương, giống lúa, năng suất và các điều kiện canh tác của họ. Phần mềm Quản lý dinh dưỡng được chia thành ba phần: (i) Một 'giao diện” nhỏ được tải về máy tính hoặc điện thoại di động của cán bộ khuyến nông để phỏng vấn nông dân; (ii) Một 'mô hình' tính toán và đưa ra bản hướng dẫn bón phân cho nông dân, và (iii) Một “bản khuyến cáo” hướng dẫn bón phân cung cấp cho nông dân bằng một bản in hoặc một tin nhắn (SMS). Cán bộ khuyến nông thực hiện cuộc phỏng vấn với nông dân khoảng 10 phút 'off-line' (không kết nối Internet hoặc điện thoại). Sau phỏng vấn, các thông tin thu thập sẽ truyền qua Internet về 'mô hình', nằm trên máy chủ của cơ sở dữ liệu. Bản hướng dẫn sử dụng phân bón sẽ được truyền trở lại ngay trên máy tính hoặc điện thoại thông minh của cán bộ khuyến nông. Bản hướng dẫn này cũng có thể truyền trực tiếp cho nông dân 49 bằng tin nhắn SMS. Sử dụng ICT để tính toán và hướng dẫn bón phân theo yêu cầu của từng nông hộ có thể nâng cao khả năng khuyến nông và thúc đẩy ứng dụng các công nghệ mới. Việc mở rộng ứng dụng khuyến cáo bón phân này cho nông dân đòi hỏi cán bộ khuyến nông chuyên nghiệp phải tiếp xúc trực tiếp với nông dân. 5.8 Thiết bị bay không người lái (Drone) Thiết bị bay không người lái (drone) đang góp phần tạo nên diện mạo mới cho việc áp dụng công nghệ cao trong nông nghiệp. Drone có thể giúp từng bước cơ giới hóa nông nghiệp, loại bỏ các chi phí sinh ra do lỗi của con người và tạo điều kiện cho nông dân phản ứng nhanh với các mối đe dọa (như hạn hán và sâu bệnh), giúp họ tối đa hóa thu nhập và lợi nhuận. Ngoài tiết kiệm thời gian, drone còn giúp cải thiện năng suất cũng như sản lượng thông qua các ứng dụng hỗ trợ từ tưới nước, kiểm tra những phần canh tác có vấn đề, cho đến xác định vị trí vật nuôi. Với giá thành ngày càng giảm, drone hứa hẹn sẽ tạo nên một cuộc cách mạng mới trong nông nghiệp. Drone nông nghiệp là hệ thống công nghệ cao, có thể quét tất cả các góc của cánh đồng để đánh giá đất, theo dõi sức khỏe cây trồng, bón phân, thậm chí theo dõi sản lượng, thời tiết và dự toán; sau đó thu thập dữ liệu, phân tích nó cho hành động kịp thời. Theo các chuyên gia, drone chính là thiết bị mới nhất bổ sung vào danh sách những công nghệ hiện đại thuộc phạm vi của ngành nông nghiệp chính xác - khái niệm về quản lý trang trại hiện đại, sử dụng cảm biến để quét, thu thập dữ liệu từ cánh đồng - vốn đã bao gồm GPS, hệ thống tự động và hình ảnh vệ tinh 50 Thiết bị bay không người lái trong nông nghiệp áp dụng cho canh tác nhằm giúp tăng sản lượng cây trồng và giám sát sự tăng trưởng của cây trồng. Thông qua việc sử dụng các cảm biến tiên tiến và khả năng chụp ảnh kỹ thuật số, nông dân có thể sử dụng những máy bay không người lái này để giúp họ thu thập hình ảnh phong phú hơn về các cánh đồng của mình. Thông tin thu được từ các thiết bị như vậy có thể hữu ích trong việc cải thiện sản lượng cây trồng và hiệu quả của trang trại. Thiết bị bay không người lái trong nông nghiệp mang lại nhiều lợi ích cho người nông dân và các nhà lai tạo giống. Công nghệ Drone có thể cắt giảm các yêu cầu về lao động và giảm các yêu cầu về nguồn lực (như nước tưới và thuốc trừ sâu). Nông dân cũng có thể sử dụng máy bay không người lái để lấy hình ảnh của các cánh đồng từ trên cao. Thông qua các hình ảnh này, người nông dân có thể phân tích được các vấn đề về tưới tiêu, sự biến đổi của đất, và dĩ nhiên là sâu bệnh và nấm. Ưu điểm thứ hai của drone đó là nó có thể cung cấp các hình ảnh dưới dạng hình ảnh đa phổ; những hình ảnh này được sử dụng để hiển thị một tầm nhìn hồng ngoại cũng như một chế độ xem quang phổ giúp phân tích khả năng tăng trưởng của cây trồng đặc biệt, người nông dân có thể thấy sự khác biệt giữa cây trồng khỏe mạnh và không lành mạnh. Sự khác biệt này không phải lúc nào cũng có thể nhìn thấy bằng mắt thường, do đó có thể giúp nông dân đánh giá sự tăng trưởng của cây trồng, cũng như sản xuất cây trồng. Ngoài ra, drone có thể khảo sát mùa màng cho nông dân theo định kỳ hàng tuần, hàng ngày hoặc thậm chí hàng giờ. Người nông dân có thể sử dụng thông tin này để cho thấy sự thay đổi của cây trồng theo thời gian để có những điều chỉnh kịp thời về tưới tiêu và quản lý dịch hại. Do đó drone giúp 51 cải thiện công tác quản lý cây trồng và cải thiện sản lượng cây trồng. 5.9 Tự động hóa trong ngành nông nghiệp công nghệ cao Công nghệ thông tin tác động sâu sắc tới nền nông nghiệp trên toàn thế giới, làm thay đổi phần lớn các yếu tố trong ngành nông nghiệp ở mọi quốc gia. Dưới đây là những ứng dụng công nghệ hiện đại nhất góp mặt trong sự thành công và phát triển vượt trội của nền nông nghiệp nhiều quốc gia trong những năm gần đây: Máy cày, máy kéo không người lái Với các phương tiện này, người nông dân có thể chỉ ngồi 1 chỗ điều khiển đồng thời nhiều loại máy và công cụ khác nhau giúp giải quyết đồng thời khối lượng công việc lớn, thậm chí tính chính xác của các loại máy này còn cao hơn so với loại máy có người ngồi lái. Các loại máy không người lái cũng giúp nâng cao tuổi nghề của nông dân, khi về già họ vẫn có thể dễ dàng điều khiển máy móc thay mình làm việc trên ruộng đồng. Công nghệ tưới nhỏ giọt Đây là một trong những phát minh mang tính đột phá của Israel, giúp giải bài toán tưới tiêu trong điều kiện khô hạn, nên nó đặc biệt quan trọng đối với các quốc gia có khí hậu khô nóng. Theo đó, hệ thống dẫn tưới được tính toán kỹ lưỡng với tốc độ chảy chậm, nhỏ giọt và cân bằng, giúp cây phát triển nhanh và đồng đều. Một ví dụ điển hình như hệ thống tưới nhỏ giọt mang tên Tipa sau khi áp dụng ở Senegal đã giúp cho các nhà nông Senegal thu hoạch 3 vụ/năm thay vì 1 vụ như trước đây, kể cả trên những vùng đất khô cằn nhất. 52 Nhờ công nghệ này, rất nhiều quốc gia đã gia tăng năng suất hay phát triển được nhiều loại hình kinh tế nông nghiệp hiệu quả hơn. Hệ thống tưới nhỏ giọt hiện đã được phổ cập nhanh chóng tại nhiều nước trên thế giới. Các mẫu mới nhất còn có khả năng tự làm sạch, duy trì tốc độ tưới không phụ thuộc vào chất lượng nước và áp suất, khí hậu VI. Kinh nghiệm áp dụng CNTT vào nông nghiệp của một số nước Mô hình áp dụng công nghệ thông tin vào nông nghiệp được nhắc nhiều trên thế giới, nhất là ở Isarel và Nhật Bản - những quốc gia đã làm nên điều kỳ diệu về nền nông nghiệp xanh công nghệ cao. Nhờ ứng dụng công nghệ thông tin trong nông nghiệp mà Isarel từ nước có điều kiện đất đai khô hạn, khí hậu khắc nghiệt trở thành một quốc gia có nền nông nghiệp tiên tiến nhất thế giới. Trong khi đó, Nhật Bản cũng nhờ áp dụng công nghệ thông tin vào ngành nông nghiệp mà khẳng định vai trò của một cường quốc về nông nghiệp - bên cạnh thế mạnh công nghiệp và điện tử. 6.1 Israel Có diện tích rất nhỏ, trên 20.000km2, nhưng Israel lại được mệnh danh là “thung lũng Silicon” của thế giới trong lĩnh vực nông nghiệp và công nghệ nước. Chỉ với 2,5% dân số làm NN nhưng Israel là một trong những nước xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới, khoảng trên 3 tỷ USD. Chính công nghệ thông tin đã giúp một đất nước vô cùng khó khăn về điều kiện sản xuất nông nghiệp như Israel có thể tự túc nông sản và xuất khẩu. Nếu như năm 1955, mỗi nông dân Israel nuôi được trung bình 15 53 người thì đến nay mỗi nông dân có thể nuôi được hơn 150 người khác. Tính riêng trong lĩnh vực trồng trọt, quốc gia có 2/3 diện tích lãnh thổ là sa mạc này đã có năng suất tăng vượt trội nhờ ứng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt. Sau khi đã nạp đủ thông tin về độ ẩm, không khí, đất đai, tuổi và nhu cầu tăng trưởng, bằng phần mềm điều khiển tự động, chất dinh dưỡng theo các ống dẫn nước tưới nhỏ giọt cho từng gốc cây, gốc rau. Hệ thống này tự động đóng mở van khi độ ẩm của rễ cây đạt tới mức nhất định thông qua các cảm biến điện tử. Hầu như toàn bộ các khâu từ canh tác đến thu hoạch, bảo quản, tiêu thụ hiện nay ở Israel đều được áp dụng công nghệ thông tin. Người nông dân có thể tự quản lý toàn bộ các khâu sản xuất với diện tích canh tác 5 - 6 nghìn hécta mà không còn phải làm việc ngoài đồng ruộng. Theo đó, chỉ cần một chiếc máy tính bảng hay điện thoại thông minh có kết nối mạng, các thiết bị cảm ứng và phần mềm điều khiển tự động từ xa sẽ giúp nông dân biết vườn cây nào cần bón phân gì, số lượng bao nhiêu, diện tích nào cần tưới nước, tưới bao nhiêu là vừa. Căn cứ vào các dữ liệu đó, máy tính sẽ cho nông dân biết cần phải điều chỉnh các chỉ tiêu nào và mọi hoạt động đều được điều khiển thông qua các thiết bị thông minh. Nhờ áp dụng công nghệ thông tin vào sản xuất nông nghiệp, đến nay, vùng sa mạc Arava khô cằn nhất Israel với lượng mưa chỉ 20 mm/năm đã trở thành vùng sản xuất rau quả hết sức trù phú. Một hecta đất có thể cho năng suất hơn 3 triệu bông hồng, hay hơn 500 tấn cà chua mỗi vụ; mỗi năm, một con bò của Israel cho tới 11 tấn sữa. Chỉ với 2,5% dân số làm nông nghiệp, Israel không những bảo đảm đủ nhu cầu lương thực mà còn xuất khẩu tới 3 tỷ USD nông sản mỗi năm. 54 6.2 Nhật Bản Với lợi thế phát triển về công nghiệp điện tử, nền nông nghiệp của Nhật Bản cũng được hỗ trợ mạnh mẽ bằng những sản phẩm công nghệ cao. Cho tới nay, Nhật Bản đã áp dụng công nghệ thông tin trong rất nhiều công đoạn sản xuất nông nghiệp. Đơn cử như Hệ thống định vị toàn cầu, lắp đặt các thiết bị GPS để tiếp nhận thông tin truyền qua vệ tinh của các máy kéo, máy liên hợp và máy móc thiết bị nông nghiệp khác, đã giúp hoạt động canh tác nông nghiệp được vận hành chính xác. Mạng lưới cảm biến được sử dụng để đo nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, carbon dioxide hay những yếu tố cần thiết giúp phát triển tốt nhất một số cây trồng phù hợp với thổ nhưỡng và khí hậu. Mạng lưới này đi kèm với những điều chỉnh tự động trong hệ thống thông gió, che chắn ánh sáng và các yếu tố khác giúp duy trì mức độ carbon dioxide phù hợp nhất để phát triển và hỗ trợ môi trường tối ưu cho từng loại cây trồng. Bên cạnh đó, trợ thủ đắc nhất đối với người nông dân ở quốc gia này là Robot Nông nghiệp - công nghệ tiên tiến được sử dụng để tự động hóa sản xuất. Không chỉ tự động lựa chọn và thu hoạch nông sản, robot còn làm thay những công việc khác như tiếp xúc với thuốc trừ sâu hay hóa chất. Nhằm giúp người nông dân có thể tiếp thị sản phẩm một cách chủ động, Nhật Bản cũng xây dựng hệ thống điều hành thương mại nông sản điện tử giúp cho việc phân phối nông sản, giám sát và phân tích thị trường được nhanh chóng, chính xác và khoa học. Việc ứng dụng CNTT là điều kiện tiên quyết để quản lý hiệu quả tất cả các quy trình, nó chính là chìa khóa cho chính phủ 55 trong việc nắm bắt tình hình NN của đất nước, xác định được bao nhiêu trong số cây trồng đó là cần thiết, sản lượng tại các khu vực và hợp tác xã NN như thế nào và sau đó mới quyết định loại và khối lượng tối ưu để phát triển. 6.3 Urugoay Công nghệ thông tin đang tạo điều kiện cho việc trao đổi thông tin giữa nông dân và cơ quan quản lý, cũng như cho phép áp dụng các mô hình thực chứng, sử dụng nhiều số liệu trong quản lý đất đai và sản xuất nông nghiệp bền vững tại Urugoay. Nổi tiếng với hệ thống truy xuất nguồn gốc quốc gia về chăn nuôi, Urugoay hiện đang đưa vào sử dụng đại trà những hệ thống dữ liệu, truy xuất nguồn gốc để hỗ trợ thâm canh bền vững và nâng cao sức chống chịu của sản xuất nông nghiệp trên toàn quốc. Một trong những sáng kiến đáng kể về sử dụng công nghệ thông tin là việc thiết lập hệ thống thông tin, hỗ trợ ra quyết định trong nông nghiệp có tên gọi là SNIA (viết tắt tiếng Tây Ban Nha). Với ý tưởng thai nghén từ sau giai đoạn thời tiết khắc nghiệt 2008-2009, SNIA ban đầu nằm trong hệ thống cảnh bảo sớm và cũng được sử dụng như một công cụ lập kế hoạch cho nông dân. Hệ thống dữ liệu này được khởi động năm 2014 và thực hiện thu thập số liệu về khí hậu, thổ nhưỡng, và mùa vụ. SNIA dựa trên và cũng hỗ trợ trao đổi thông tin hai chiều giữa hệ thống và nông dân.Một mặt, phần lớn dữ liệu của SNIA được thu thập từ nông dân. Chẳng hạn như từ năm 2013, những nông hộ có trên 100 ha đất buộc phải khai báo kế hoạch sử dụng, quản lý đất hàng năm. Mặt khác, cơ sở dữ liệu của hệ thống được tập hợp từ nhiều nguồn dữ liệu, kể cả nguồn viễn thám, đã tạo cơ sở cho một loạt các dịch vụ thông tin, tư vấn công ích 56 cũng như các công cụ hỗ trợ ra quyết định, nhằm hỗ trợ nông dân đưa ra các lựa chọn về sử dụng đất, canh tác, đồng thời để tiếp cận thị trường thuận lợi hơn. Chẳng hạn, một chỉ số mới được xây dựng gần đây sẽ sử dụng dữ liệu của SNIA để tính toán ảnh hưởng của các hiện tượng thời tiết đối với các biến động trong sản xuất, trong đó sử dụng dữ liệu về kế hoạch làm đất kết hợp với số liệu thời gian thực về thời tiết và các số liệu quốc gia hiện có khác. Chỉ số này được sử dụng để hỗ trợ các quyết định ở cả cấp chính sách và hộ nông dân. Toàn bộ hệ thống này, từ khâu thu thập đến sử dụng số liệu, đều phụ thuộc rất nhiều vào công nghệ thông tin. Chẳng hạn, nông dân sẽ gửi toàn bộ số liệu theo đường điện tử qua một hình thức giao diện trực tuyến. Các kế hoạch làm đất của nông dân phải được chứng nhận bởi các chuyên gia có chứng chỉ và được thẩm tra dựa trên mô hình mô phỏng về tình trạng xói lở đất. Đến khi thực hiện, các kế hoạch này lại được giám sát bằng hình ảnh vệ tinh. Các cán bộ khuyến nông được đào tạo để trợ giúp nông dân sẽ soạn thảo, thực hiện các kế hoạch này cũng được tập huấn theo cả hình thức tập trung và từ xa.Các yếu tố thể chế tuy có thể sẽ là yếu tố tiên quyết để bảo đảm thành công của hệ thống về lâu về dài nhưng ứng dụng ICT vẫn là nền tảng của kiến trúc hệ thống và khả năng nhân rộng của nó. 6.4 Thổ Nhĩ Kỳ Thông qua việc cung cấp những thông tin khí tượng phù hợp, kịp thời và đúng yêu cầu cho nông dân, chính quyền một tỉnh của Thổ Nhĩ Kỳ đã giúp nông dân giảm mạnh lượng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật tại các vườn cây ăn quả. Hóa chất bảo vệ thực vật dùng trong nông nghiệp có thể là một yếu tố đáng kể góp phần gây ô nhiễm nguồn nước không tập trung. Trong khi 57 đó, các vườn cây ăn quả thường rất dễ bị sâu bệnh với thời điểm sâu bệnh bùng phát và kết thúc lại hết sức nhạy cảm với các hiện tượng thời tiết. Một khó khăn nữa là chênh lệch về độ ẩm, lượng mưa, nhiệt độ và các yếu tố liên quan khác giữa các nông trại (liên quan đến sâu bệnh) lại khá lớn, vì thế mà các bản tin dự báo thời tiết của trung ương thường không ăn nhập với điều kiện thực của từng nông trại để có thể giúp ích cho nông dân trong phòng chống sâu bệnh. Ngoài ra, dự báo thời tiết của trung ương được đưa ra dựa trên số liệu thu thập ở những vùng nóng ấm, thành thị. Thời điểm dự báo thời tiết của trung ương cũng có thể quá trễ để nông dân kịp có biện pháp phòng ngừa. Đây là thực trạng diễn ra tại tỉnh Kastamonu, Thổ Nhĩ Kỳ, cho đến khi chính quyền tỉnh thiết lập được một hệ thống dự báo khí tượng thủy văn của địa phương có khả năng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của nông dân. Để thu thập những dữ liệu phù hợp hơn, tỉnh đã lập một số trạm quan trắc thời tiết nông thôn cũng như khá nhiều cánh đồng tham chiếu để thực hiện đo đạc tình hình thời tiết, quan trắc chu kỳ sâu bệnh tại đó. Sau khi có những số liệu này, trạm đã bắt đầu đưa ra được những thông tin dự báo thời tiết có độ tin cậy cao hơn và cũng phù hợp hơn. Thêm vào đó, trạm còn gửi thông báo hàng ngày đến cho nông dân qua tin nhắn SMS để người dân kịp có biện pháp phòng ngừa. Trong vòng hai năm thực hiện chương trình, lượng hóa chất bảo vệ thực vật sử dụng đã giảm 50% mỗi năm, qua đó vừa tiết kiệm chi phí mua hóa chất cho nông dân vừa tránh để hóa chất nhiễm vào đất và phân rã. 58 VII. Kết luận Công nghệ thông tin ngày càng được sử dụng để giúp các nhà quản lý đưa ra quyết định tốt hơn, tuy nhiên họ phải đối mặt với thay đổi liên tục các nguồn thông tin cần được xử lý. Như vậy, hệ thống thông tin trong tương lai cho các mục đích nghiên cứu sẽ khác nhiều so với hiện tại vì những thay đổi này. Việc tích hợp công nghệ thông tin với nông nghiệp sẽ giúp điều chỉnh nền kinh tế tổng thể. Các công nghệ thông tin khác nhau như hệ thống hỗ trợ quyết định chuyên gia trong hệ thống và viễn thám đã mang lại cuộc cách mạng trong nông nghiệp thế giới. Đóng góp cho những thành tựu của ngành Nông nghiệp và PTNT, không thể không kể đến sự phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong Ngành đã giúp nâng cao hiệu quả quản lý điều hành của Bộ, giúp cho các đơn vị trong Ngành phát huy được hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nhiều ứng dụng công nghệ thông tin đã được triển khai như: Hệ thống mạng LAN, WAN của Bộ và các đơn vị, Cổng thông tin điện tử, các website chuyên ngành, các dịch vụ hành chính công trên mạng, các ứng dụng trực tuyến, hệ thống họp truyền hình, giao lưu trực tuyến giữa Bộ trưởng với người dân và doanh nghiệp, ... và nhiều ứng dụng công nghệ thông tin tại các Sở Nông nghiệp và PTNT. Vai trò của công nghệ thông tin đã thể hiện một cách rõ rệt, giúp tăng cường công tác thông tin thông suốt và kịp thời, cho phép tiếp cận với nguồn thông tin trong nước và quốc tế dễ dàng, giúp nâng cao khả năng nghiên cứu, phân tích và dự báo trong Ngành, cải thiện hiệu quả làm việc của cán bộ, giúp vận hành nhanh gọn trơn tru bộ máy quản lý nhà nước. 59 Ngoài ra, công nghệ thông tin giúp cắt giảm chi phí hành chính, giảm công lao động và giúp nâng cao hiệu quả làm việc giữa người dân và các cơ quan quản lý nhà nước và khả năng phối hợp giữa các cơ quan trong và ngoài Ngành. Để nền nông nghiệp được phát triển bền vững trong thời kỳ kinh tế hội nhập, một trong những mục tiêu quan trọng là cần đầu tư nâng cao trình độ tiếp nhận khoa học kỹ thuật, thay đổi tư duy canh tác cho người nông dân. Việc đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào phục vụ sản xuất nông nghiệp là một trong những việc cần đầu tư, xúc tiến và được nông dân hưởng ứng. Tuy nhiên, thực tế việc chuyển giao công nghệ cho nông dân vẫn còn nhiều khó khăn, do phần lớn nông dân ở vùng sâu, vùng xa, khả năng tiếp cận tri thức còn hạn chế nên việc tiếp nhận các ứng dụng từ công nghệ thông tin vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp vẫn còn khá mới mẽ. Việc tự trang bị máy tính để nông dân tự nghiên cứu phục vụ sản xuất vẫn còn nhiều hạn chế. Công nghệ thông tin đang mở rộng nhanh chóng và chạm vào hầu hết các lĩnh vực hoạt động của con người nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng. Do đó, điều cần thiết là nông dân có thể tham gia vào việc tạo ra các trang web cho các trang trại của họ. Các trường đại học nông nghiệp phải chuẩn bị không chỉ học sinh sử dụng mới công nghệ thông tin, mà còn phải giúp nông dân trong sử dụng tốt hơn các trang web bằng các phương tiện khác nhau. Th.S Vũ Duy Linh, Th.S Nguyễn Hữu Tuyên 60 TÀI LIỆU THAM KHẢO  Báo cáo kết quả khảo sát xây dựng kiến trúc Chính phủ điện tử của Bộ Nông nghiệp và PTNT  FAO, 2015, Success stories on information and communication technologies for agriculture and rural development,  FAO, 2015, Information and communication technologies for sustainable agriculture: Indicators from Asia and the Pacific,  Võ Quang Vinh, Công nghệ thông tin trong Nông nghiệp, Hội thảo khoa học CNTT với biến đổi khí hậu  WorldBank, ICT in Agriculture (Updated Edition) : Connecting Smallholders to Knowledge, Networks, and Institutions, 2015, https://openknowledge.worldbank.org/handle/10986/27526

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfld_12_2017_452_2207585.pdf
Tài liệu liên quan