Tài liệu Vai trò của công nghệ thông tin trong phát triển nông nghiệp: 3
VAI TRÒ CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
I. Mở đầu
Công nghệ thông tin (CNTT) chỉ các thiết bị, công cụ hoặc
ứng dụng thông tin và truyền thông, cho phép thu nhập – trao
đổi dữ liệu thông qua việc tương tác hoặc truyền tải, ví dụ:
radio, vệ tinh, điện thoại di động, internet, điện toán đám mây,
ứng dụng thanh toán điện tử, phần mềm quản lý tài chính, hệ
thống tự động hóa, Ngày nay, công nghệ thông tin đã đi vào
mọi ngõ ngách của đời sống xã hội. Với sự phát triển không
ngừng của công nghệ thông tin đã đưa tin học thâm nhập sâu
vào nhiều lĩnh vực khoa học và đời sống, mở ra một giai đoạn
mới trong quá trình phát triển khoa học, xu hướng phát triển của
công nghệ thông tin hiện nay chủ yếu xuất phát từ nhu cầu đa
dạng hoá thông tin; chính xác hoá thông tin; xu hướng phát triển
phần cứng và phần mềm hệ thống; sự phát triển của kỹ thuật xử
lý thông tin; sự phát triển trong xây dựng các cơ sở dữ liệu; và
sự phát triển trong kỹ thuật ...
58 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 403 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Vai trò của công nghệ thông tin trong phát triển nông nghiệp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3
VAI TRÒ CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
I. Mở đầu
Công nghệ thông tin (CNTT) chỉ các thiết bị, công cụ hoặc
ứng dụng thông tin và truyền thông, cho phép thu nhập – trao
đổi dữ liệu thông qua việc tương tác hoặc truyền tải, ví dụ:
radio, vệ tinh, điện thoại di động, internet, điện toán đám mây,
ứng dụng thanh toán điện tử, phần mềm quản lý tài chính, hệ
thống tự động hóa, Ngày nay, công nghệ thông tin đã đi vào
mọi ngõ ngách của đời sống xã hội. Với sự phát triển không
ngừng của công nghệ thông tin đã đưa tin học thâm nhập sâu
vào nhiều lĩnh vực khoa học và đời sống, mở ra một giai đoạn
mới trong quá trình phát triển khoa học, xu hướng phát triển của
công nghệ thông tin hiện nay chủ yếu xuất phát từ nhu cầu đa
dạng hoá thông tin; chính xác hoá thông tin; xu hướng phát triển
phần cứng và phần mềm hệ thống; sự phát triển của kỹ thuật xử
lý thông tin; sự phát triển trong xây dựng các cơ sở dữ liệu; và
sự phát triển trong kỹ thuật thu nhận và cung cấp thông tin phát
triển mạng thông và kỹ thuật truyền tin. Từ những năm 50 con
người bắt đầu cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ hai có
bản chất là hoá trình tin học hoá nội dung là sử dụng “công
nghệ thông tin” để thay thế một phần lao động trí óc, để trợ giúp
phần điều khiển bằng trí tuệ của con người. Công nghệ thông tin
là tập hợp các ngành khoa học kỹ thuật nhằm giải quyết vấn đề
thu nhận thông tin, quản lý thông tin, xử lý thông tin, truyền
thông tin và cung cấp thông tin. Để giải quyết những vấn đề
này, người ta đã tập trung vào các nội dung gồm xác định hệ
4
thống thông tin; thu nhận thông tin; quản lý thông tin; xử lý
thông tin; truyền thông tin; và cung cấp thông tin.
Công nghệ thông tin trong nông nghiệp được biết đến là e-
agriculture, là việc phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin
vào khu vực nông thôn, chú trọng vào phát triển nông nghiệp.
E-agriculture, còn gọi là “nông nghiệp thông minh” hay “nông
nghiệp điện tử” – đang trở thành xu thế mới, cải thiện đáng kinh
ngạc nền nông nghiệp ở nhiều nơi trên thế giới. E-agriculture
mang nhiều giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn trong
ngành nông nghiệp. Khi những thách thức của nông nghiệp
ngày càng gia tăng, cũng là lúc Công nghệ thông tin phát triển
đủ mạnh để trở thành một công cụ kịp thời và hữu hiệu. Hình
ảnh nhà nông vất vả và lạc hậu đang trở thành lỗi thời, thay vào
đó là những nông dân ứng dụng thuần thục công nghệ và kỹ
thuật hiện đại vào thương mại, sản xuất. Khi được ứng dụng
trong nông nghiệp, công nghệ thông tin giúp người nông dân
nâng cao khả năng tiếp cận thông tin, cải thiện năng lực thanh
toán, nâng cao năng suất, nâng cao năng lực quản lý, ứng phó
hiệu quả với rủi ro, thậm chí hưởng lợi nhờ đón đầu thay đổi.
Các văn phòng tự động là ứng dụng của máy tính, mạng máy
tính, mạng điện thoại, và các công cụ tự động hóa văn phòng
như máy photocopy, máy quét, máy in, thiết bị làm sạch, và các
hệ thống an ninh điện tử để tăng năng suất của các tổ chức. Có
rất nhiều chính phủ, tư nhân và các tổ chức phi chính phủ tham
gia vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Tất cả họ
đều phải làm việc với nhau để cung cấp cho dịch vụ tốt hơn cho
cộng đồng nông nghiệp. Do đó, ứng dụng tự động hóa văn
phòng là một trong những giải pháp để nâng cao hiệu quả và
liên kết nối của các nhân viên làm việc trong các tổ chức nêu
5
trên. Nhiều ứng dụng máy tính như MS Office, Internet
Explorer, OpenOffice.org và thích hợp thực hiện khác phần
mềm tự động hóa văn phòng gói được cung cấp tiềm năng
không giới hạn cho các tổ chức, cá nhân để hoàn thành ngày của
họ để yêu cầu xử lý dữ liệu ngày để cung cấp cho một dịch vụ
hiệu quả cho khách hàng của họ.
Trong ngành nông nghiệp, việc áp dụng công nghệ thông tin,
tự động hóa sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng giá trị
sản phẩm hay tăng năng suất lao động. Công nghệ thông tin kết
hợi với điện tử, viễn thông, tự động hóa đã giải được các bài
toán về dự báo lũ, ngập lụt, nước biển dâng; dự báo về dịch
bệnh ở cây trông vật nuôi; dự báo thị trường tiêu thụ sản phẩm
nông, ngư nghiệp... Ngoài ra công nghệ thông tin đã tạo ra các
hệ thống tự động hóa cao có thể tự động tính toán nhu cầu nước,
phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và các vật tư khác một cách
chính xác, điều hành cung cấp các loại vật tư vừa đủ cho cây
trồng, xác định sức khỏe của vật nuôi bằng các thiết bị tự động
đã nâng cao hiệu quả nuôi trồng, góp phần kiểm soát và giảm
dư lượng các chất độc hại trong sản phẩm nông nghiệp khi cung
cấp cho người sử dụng, kiểm soát chặt chẽ môi trường bằng các
chương trình công nghệ thông tin ít tốn kém mà hiệu quả rất
cao.
Trên thế giới, nền nông nghiệp điện tử đã rất phát triển.
Nông nghiệp xanh, nông nghiệp công nghệ cao được các nước
chú trọng như tại Hàn Quốc, Nhật Bản hay Isarel. Điển hình
như Isarel, thông qua ứng dụng công nghệ thông tin, 1 ha đất có
thể đạt năng suất hơn 3 triệu bông hoa hồng, 1 con bò cho ra 11
tấn sữa/năm; với chỉ 3% dân số làm nông nghiệp trong điều
kiện thời tiết khắc nghiệt nhưng nền nông nghiệp điện tử của
6
nước này tạo ra giá trị sản lượng gần 23 tỉ USD/năm, xuất khẩu
nông sản đạt trên 3 tỉ USD/năm. Hay như tại Mỹ, nông nghiệp
điện tử giúp người nông dân tiết kiệm 7% chi phí phân bón và
hàng chục % chi phí khác. Trung bình một nông dân Mỹ sản
suất lương thực đủ nuôi 140 người.
Tại Việt Nam, trong thời gian qua, công nghệ thông tin kết
hợp với công nghệ viễn thám, hệ thống thông tin địa lý - viễn
thám tạo thành hệ thống thông tin cho phép theo dõi tiền độ
mùa vụ, gieo trồng, thu hoạch, tình hình sâu bệnh, dự báo năng
suất lúa, cập nhật và dự báo tình hình nông nghiệp thế giới, do
đó góp phần tích cực cho việc chủ động trong phòng trừ sâu
bệnh, chủ động cây trồng và mùa màng, về công tác thu hoạch
và thị trường xuất khẩu nông sản. Chính các hệ thống công nghệ
thông tin này cũng giúp Chính phủ hoạch định chính sách trong
sản xuất nông nghiệp... Nhờ vậy, từ một đất nước thiếu lương
thực vào những năm 1980 của thế kỷ XX đến nay Việt Nam đã
trở thành quốc gia xuất khẩu đứng hàng đầu thế giới.
Ngày 20/8/2008 Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ra
Chỉ thị số 87/2008/CT-BNN về việc tăng cường ứng dụng công
nghệ thông tin trong quản lý điều hành của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn. Bên cạnh đó các Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn căn cứ các nội dung, nhiệm vụ trong Kế hoạch
ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan nhà nước. Tuy
nhiên, thực tế thời gian qua, một số bộ, ngành, doanh nghiệp và
nông dân vẫn còn biểu hiện chưa quan tâm đúng mức về vai trò
của công nghệ thông tin, chỉ coi công nghệ thông tin là công cụ
sử dụng đơn giản, riêng lẻ, thiếu tính kết nối đa chiều, đa lĩnh
vực, manh mún. Bên cạnh đó, tỉ trọng đầu tư cho công nghệ
thông tin vào sản suất, vào nông nghiệp còn thấp hơn nhiều so
7
với những ngành khác. Một cách tổng quan, chưa nhìn thấy sự
tác động mạnh mẽ của công nghệ thông tin trong nông nghiệp,
làm gia tăng giá trị trong sản xuất và phân phối sản phẩm nông
nghiệp. Bài viết này đánh giá tổng quan vai trò của công nghệ
thông tin quản lý, điều hành và sản xuất nông nghiệp đồng thời,
giới thiệu các tiến bộ kỹ thuật mới và kinh nghiệm áp dụng
công nghệ thông tin vào quản lý, sản xuất nông nghiệp ở một số
nước trên thế giới.
II. Nhận biết và áp dụng
Nông nghiệp điện tử là một trong những hành động được xác
định trong tuyên bố và kế hoạch hành động của Hội nghị
Thượng đỉnh Thế giới về Xã hội Thông tin (WSIS). "Tunis
Agenda for the Information Society" được công bố vào ngày 18
tháng 11 năm 2005 và nhấn mạnh vai trò tạo điều kiện hàng đầu
mà các cơ quan Liên Hợp Quốc cần phải thực hiện trong việc
thực hiện Kế hoạch hành động Geneva. Tổ chức Nông Lương
Liên Hiệp Quốc (FAO) đã được giao nhiệm vụ tổ chức các hoạt
động liên quan đến dòng hành động theo chương 7 về việc áp
dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong ngành Nông
nghiệp.
Nhiều ứng dụng công nghệ thông tin đã được phát triển và
thử nghiệm trên thế giới với nhiều thành công khác nhau để
giúp nông dân cải thiện sinh kế thông qua tăng năng suất và thu
nhập nông nghiệp và giảm rủi ro. Một số tài nguyên hữu ích để
học về nông nghiệp điện tử trong thực tiễn là tài liệu điện tử
công nghệ thông tin trong nông nghiệp do Ngân hàng Thế giới
cung cấp - kết nối nông dân nhỏ với kiến thức, mạng lưới và tổ
chức, ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng trong các chuỗi giá
8
trị (2013), và các bài báo về các câu chuyện thành công cho
nông nghiệp và phát triển nông thôn đã ghi nhận nhiều trường
hợp sử dụng công nghệ thông tin trong nông nghiệp.
The FAO-ITU E-agriculture Strategy Guide được phát triển
bởi Tổ chức Nông lương Liên Hợp Quốc và Ủy ban Viễn thông
Quốc tế với sự hỗ trợ của các thành viên bao gồm Trung tâm kỹ
thuật hợp tác Nông nghiệp và nông thôn trong khuôn khổ chiến
lược phát triển nông nghiệp điện tử tại các nước. Một số nước
đang sử dụng FAO-ITU hướng dẫn chiến lược phát triển nông
nghiệp điện tử bao gồm Bhutan, Sri Lanka, Papua New
Guinea, Philippines, Fiji và Vanuatu. Hướng dẫn cung cấp một
khuôn khổ để tăng cường thu hút các bên liên trong việc xây
dựng chiến lược quốc gia về nông nghiệp
III. Hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin tại Bộ Nông
nghiệp và PTNT
Thời gian qua, việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin
trong hoạt động quản lý nhà nước của Bộ có nhiều thuận lợi,
phục vụ tốt công tác quản lý, điều hành do hạ tầng kỹ thuật
công nghệ thông tin ngày càng được hoàn thiện. Số lượng máy
tính trang bị cho cán bộ, công chức tăng, tạo môi trường làm
việc điện tử thông suốt, tăng năng suất, hiệu quả công việc. Cụ
thể, 100% cán bộ, công chức trong cơ quan, đơn vị thuộc Bộ
được trang bị máy tính, trong đó 60% máy tính đã được bản
quyền hóa các phần mềm ứng dụng như: hệ điều hành
Windows, Microsoft Office; 100% các đơn vị thuộc Bộ đã có
mạng LAN, đường truyền internet riêng biệt.
Về kết nối mạng diện rộng (WAN), Bộ đã thực hiện kết nối
các mạng LAN tại trụ sở số 2 Ngọc Hà với các mạng LAN tại
9
trụ sở số 10 Nguyễn Công Hoan thông qua đường truyền kết
CPNET 10 Mbps. Tuy nhiên do hạ tầng mạng LAN của các đơn
vị tại số 10 Nguyễn Công Hoan chưa hoàn thiện nên lưu lượng
thông tin trao đổi chưa thực sự hiệu quả. Hiện tại, việc kết nối
mạng WAN tới các đơn vị có trụ sở tại 16 Thụy Khuê và một số
đơn vị thuộc Bộ khác trên địa bàn Hà Nội (Cục Bảo vệ thực vật,
Cục Thú y) chưa được thực hiện. Đối với việc kết nối tới
mạng chuyên dùng của cơ quan Đảng và Nhà nước, Bộ Nông
nghiệp và PTNT đã thực hiện một điểm từ Văn Phòng Bộ tới
Văn phòng chính phủ.
Đường truyền Internet tốc độ cao của Bộ là kênh thuê bao
riêng (LeaseLine) với tốc độ truy cập trong nước là 50 Mbps và
ra quốc tế là 4 Mbps, phục vụ kết nối internet cho các đơn vị sử
dụng hạ tầng mạng LAN chung tại trụ sở số 2 Ngọc Hà và một
số đơn vị tại trụ sở số 10 Nguyễn Công Hoan. Các đơn vị không
sử dụng hạ tầng mạng LAN chung của Bộ thuê đường truyền
internet riêng (phần lớn thuê đường truyền internet FTTH). Tỷ
lệ băng thông kết nối internet trên mỗi CBCC của Bộ tương đối
tốt, dung lượng trung bình đạt 493.27 Kbps. Các thiết bị mạng
không dây (Wifi) được lắp đặt để đa dạng hóa hình thức truy
cập, khai thác thông tin của người dùng.
Cơ bản các đơn vị tại khu vực số 2 Ngọc Hà sử dụng hạ tầng
mạng chung, ngoại trừ một số đơn vị như Tổng cục Lâm
nghiệp, Tổng cục Thủy Lợi, Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển
nông thôn phát triển hệ thống mạng LAN riêng.
Nhìn chung hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin của Bộ đã
cơ đáp ứng tương đối tốt về các chỉ số liên quan đến hạ tầng kỹ
thuật cụ thể như: Tỷ lệ máy tính trên cán bộ; tỷ lệ máy tính có
10
kết nối Internet để phục vụ các giao dịch, tra cứu và khai thác
thông tin phục vụ công việc chuyên môn; tỷ lệ băng thông kết
nối internet trên mỗi cán bộ; tỷ lệ hạ tầng an toàn, an ninh thông
tin; tỷ lệ hạ tầng an toàn dữ liệu.
IV. Một số ứng dụng Công nghệ thông tin trong quản lý và
điều hành ngành Nông nghiệp
Các đơn vị trong cơ quan Bộ Nông nghiệp và PTNT đã triển
khai nhiều ứng dụng CNTT phục vụ cho việc quản lý nhà nước
của Bộ. Nhiều ứng dụng CNTT đã góp phần phục vụ cho công
tác quản lý cán bộ, quản lý tài chính, công tác thanh tra, khoa
học công nghệ và các tính toán chuyên ngành khác đã mang lại
hiêu quả thiết thực.
Trung tâm Tin học và Thống kê cũng đã triển khai thí điểm
ứng dụng chữ ký số, chứng thực số tại một số Vụ trong Bộ
Nông nghiệp và PTNT, trước mắt để giúp cho cán bộ làm quen
với công nghệ mới này và nhận thực được giá trị thiết thực về
việc ứng dụng chữ ký số trong trao đổi các văn bản qua mạng.
Bộ đã tăng cường, mở rộng mô hình họp, giao ban trực tuyến,
trả lời công dân trên Cổng thông tin điện tử của Bộ, nhiều hệ
thống cơ sở dữ liệu (CSDL) chuyên ngành đã được xây dựng.
4.1 Hệ thống quản lý văn bản điều hành
Để nâng cao hiệu quả công việc, tiết kiệm thời gian, chí phí
và góp phần đẩy mạnh cải cách hành chính, các đơn vị thuộc Bộ
đã ứng dụng các phần mềm quản lý như:
- Hệ thống phần mềm tổng hợp báo cáo giao ban tuần,
tháng, quản lý tài sản, kế toán, nhiệm vụ khoa học và công
nghệ;
- Phần mềm văn phòng điện tử dùng chung;
11
- Trao đổi văn bản điện tử trên môi trường mạng.
Hiện có khoảng 60% các loại văn bản truyền thống như:
Giấy mời, tài liệu hội họp, văn bản (để biết, để báo cáo), thông
báo chung, tài liệu cần trao đổi trong xử lý công việc, văn bản
hành chính, hồ sơ công việc, là dạng văn bản điện tử được
lưu thông qua thư điện tử, văn phòng điện tử; Văn bản đi/đến
được chuyển hoàn toàn trên môi trường mạng (hoàn toàn không
dùng văn bản giấy) trên tổng số văn bản đi/đến với các cơ quan
bên ngoài là 40%; Tỉ lệ văn bản đi/đến được chuyển song song
trên môi trường mạng và qua đường công văn trực tiếp trên tổng
số văn bản đi/đến trong nội bộ cơ quan là 45%; Tỉ lệ văn bản
đi/đến được chuyển song song trên môi trường mạng và qua
đường công văn trực tiếp trên tổng số văn bản đi/đến với cơ
quan bên ngoài là 30%.
Mặc dù việc triển khai sử dụng phần mềm văn phòng điện tử
chung của Bộ đã được các đơn vị tuân thủ trong việc khai thác
sử dụng, tuy nhiên thực tế cho thấy tốc độ truy cập và xử lý còn
chậm. Do vậy, trong thời gian tới cần nâng cấp và mở rộng
phạm vi sử dụng để đáp ứng tốt hơn nhu cầu công việc xử lý
trên môi trường mạng của người sử dụng.
4.2 Hệ thống thư điện tử
Thực hiện Chỉ thị số 34/2008/CT-TTg về tăng cường sử
dụng thư điện tử công vụ trong hệ thống cơ quan nhà nước, hệ
thống thư điện tử của Bộ Nông nghiệp và PTNT hiện đang sử
dụng phần mềm quản lý thư điện tử Microsoft Exchange Server
2007 với tên miền là @mard.gov.vn cùng với 05 máy chủ vận
hành, phục vụ. Chất lượng thư điện tử đã được cải thiện đáng kể
so với những năm trước, đặc biệt từ khi có Chỉ thị số 34 của
12
Thủ tướng Chính phủ thì số lượng cán bộ, công chức, viên chức
thuộc Bộ đăng ký sử dụng ngày càng tăng, đã cung cấp hơn
6.800 địa chỉ thư điện tử cho các đơn vị quản lý nhà nước của
Bộ, bên cạnh đó cũng cung cấp địa chỉ thư điện tử cho các đơn
vị cấp viện nghiên cứu, trường đào tạo thuộc Bộ, với tần suất
giao dịch hàng ngày khoảng 650 người dùng.
Khoảng 90% CBCCVC của các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ
được cấp hòm thư điện tử công vụ (@mard.gov.vn). Tuy nhiên,
tỷ lệ CBCCVC thường xuyên sử dụng hòm thư công vụ trong
công việc mới chỉ đạt 60%.
Tỷ lệ các đơn vị sử dụng ở mức tốt có: Vụ Hợp tác quốc tế,
Văn phòng Bộ, Trung tâm Tin học và Thống kê, Vụ Kế hoạch;
ở mức khá: có Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Vụ Tài
chính, Tổng cục Thủy sản, còn lại các đơn vị khác sử dụng ở
mức trung bình.
Tuy vậy, hiện nay vẫn còn tồn tại những khó khăn và hạn chế
như: Nhiều cán bộ, công chức và viên chức sử dụng thư điện tử
miễn phí như Google, Yahoo, Hotmailtrong trao đổi thông
tin, văn bản trong công việc cũng như chỉ đạo, điều hành. Bên
cạnh đó, một số đơn vị trực thuộc bộ đầu tư, xây dựng hệ thống
thư điện tử riêng trên nền tảng ứng dụng dịch vụ thư điện tử của
Google App tuy nhiên hệ thống này được xây dựng trên nền
tảng dịch vụ thư điện tử của Mircrosoft mà chưa mua bản quyền
phần mềm. Những hạn chế và tồn tại nêu trên làm cho việc quản
lý, vận hành, khai thác sử dụng và đảm bảo an ninh, an toàn
thông tin là khó khăn, không thống nhất, và không đảm bảo
pháp lý và kỹ thuật khi sử dụng Văn phòng điện tử dùng chung,
chữ ký số, hành chính công hoặc các ứng dụng khác.
13
4.3 Tổ chức các cuộc họp qua mạng
Bộ Nông nghiệp & PTNT có 02 hệ thống phục vụ họp trực
tuyến 01 hệ thống do Văn phòng Bộ quản lý và 01 hệ thống do
Tổng cục Phòng chống thiên tai quản lý) có thể kết nối với 63
điểm cầu trên toàn quốc. Hằng năm trung bình có 14 cuộc họp
trực tuyến của Bộ và các đơn vị được thực hiện để triển khai kịp
thời công tác quản lý, chỉ đạo điều hành trong các lĩnh vực chăn
nuôi, trồng trọt, thủy sản, phục vụ sản xuất, phòng chống các
loại dịch bệnh từ Trung ương xuống địa phương, trả lời người
dân và doanh nghiệp về cơ chế, chính sách trong phát triển sản
xuất nông nghiệp.
4.4 Ứng dụng chữ ký số
Thực hiện Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 22/5/2012 của Thủ
tướng Chính phủ về việc tăng cường sử dụng văn bản điện tử
trong hoạt động của cơ quan nhà nước, trong đó việc ứng dụng
chữ ký số là một trong những yêu cầu cần thiết nhằm tiết kiệm
chi phí văn phòng phẩm, rút ngắn thời gian xử lý, tạo tiền đề
cho việc ứng dụng thành công dịch vụ công trực tuyến mức độ
3, 4.
Trước tình hình đó, tại Bộ NN&PTNT, Trung tâm Tin học và
Thống kê, Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường đã phối hợp
với Ban Cơ yếu Chính phủ triển khai thí điểm ứng dụng chữ ký
số chuyên dùng phục vụ các cơ quan thuộc hệ thống chính trị,
việc triển khai được thực hiện như sau:
- Bộ trưởng đã có văn bản ủy quyền việc quản lý, cấp phát
mới, thu hồi và hủy bỏ đối với các chứng thư số (công cụ ký
số) cho Vụ trưởng Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường theo
hướng dẫn của Thông tư 05/2010/TT-BNV.
14
- Đến nay, Bộ đã cấp 550 chữ ký số cho cá nhân, tổ chức và
thiết bị để ứng dụng trong các văn bản quản lý, điều hành, dịch
vụ công trực tuyến. Văn phòng điện tử đã có Module chữ ký số
được cải tiến, nâng cấp đang xây dựng kế hoạch triển khai trên
toàn hệ thống. Hiện nay đã có một số đơn vị thuộc Bộ đã bắt
đầu triển khai triển khai ứng dụng thực hiện chữ ký số trong các
giao dịch điện tử: Hải quan một cửa, dịch vụ công trực tuyến,
văn bản điện tử.
Về môi trường pháp lý, cơ cở hạ tầng, nguồn nhân lực và
công nghệ là hoàn toàn đáp ứng được cho việc triển khai chữ ký
số, tuy nhiên, việc triển khai vẫn gặp phải những khó khăn như:
(i)Việc triển khai mới chỉ thực hiện mang tính chất thí điểm, thử
nghiệm trong phạm vi hẹp, mới chỉ cấp phát cho các lãnh đạo
và mới chỉ được tích hợp thử nghiệm trên Văn phòng điện tử
dùng chung; (ii) Các đơn vị trực thuộc Bộ chưa xác định được
vai trò của chữ ký số trong quản lý, điều hành. Lãnh đạo các
đơn vị còn thiếu sự quan tâm, chỉ đạo, và tuyên truyền; (iii)
Chưa có lộ trình (kế hoạch) ứng dụng mở rộng cho tất cả các
đơn vị trực thuộc. Thiếu cơ chế, chế tài áp dụng chữ ký số, thiếu
quy trình xử lý nghiệp vụ dẫn đến việc áp dụng còn lúng túng
và gặp nhiều khó khăn.
4.5 Hệ thống các phần mềm,cơ sở dữ liệu chuyên ngành
Cơ sở dữ liệu (CSDL) nông nghiệp và nông thôn các địa
phương có thể được xây dựng với mục đích tạo ra một cơ sở dữ
liệu trên nền tảng web đơn giản, thuận lợi cho việc truy cập
thông tin, thiết thực với nhiều nhóm người dung. Số liệu thu
thập, lưu trữ trong CSDL từ nguồn số liệu thống kê chính thức,
tư liệu kinh tế xã hội các tỉnh/thành phố và số liệu điều tra nông
15
nghiệp nông thôn, mức sống dân cư của Tổng cục Thống kê và
nguồn từ các cơ quan, địa phương khác được tổ chức thành các
bảng số liệu, với rất nhiều chỉ tiêu có thể đưa ra theo các mẫu
báo cáo khác nhau. Số liệu cập nhật vào cơ sở dữ liệu từ nhiều
năm, sẽ tiếp tục được cập nhật theo tần suất hàng năm, tương
ứng với mỗi nguồn số liệu. Thông tin có thể được tìm kiếm,
trích rút và lập báo cáo theo giai đoạn nhất định và được so sánh
theo theo mốc thời gian.
Hiện tại, có rất nhiều các phần mềm và cơ sở dữ liệu được
ứng dụng trong các lĩnh vực chuyên môn, chuyên biệt khác
nhau, phục vụ các mục tiêu quản lý, nghiên cứu, sản xuất như
các phần mềm và cơ sở dữ liệu phục vụ trong lĩnh vực thủy lợi,
lâm nghiệp, thủy sản, nông nghiệp, thống kê, dự báo
− Phần mềm CSDL Thống kê: đã vận hành, đáp ứng được
mục tiêu tổng hợp, xử lý báo cáo thống kê của 63 tỉnh thành;
Phân hệ chức năng cập nhật trực tuyến số liệu về kết quả thực
hiện thống kê, kiểm tra, thanh tra cơ sở sản xuất, kinh doanh vật
tư nông nghiệp và sản phẩm nông lâm thủy sản đã được cài đặt
và vận hành tốt.
− Cơ sở dữ liệu quản lý các dự án đầu tư: hỗ trợ thu thập,
quản lý thông tin và lập báo cáo giám sát đánh giá kết quả thực
hiện kế hoạch vốn đầu tư. Sau 5 năm vận hành CSDL
( đã thu được một số thành quả tích cực
như sau: Hầu hết các dự án đã báo cáo hàng tháng theo hình
thức trực tuyến, tỷ lệ các dự án được báo cáo liên tục tăng trong
những năm gần đây, bình quân hằng tháng đạt 97%; Thiết lập
được mạng lưới báo cáo với trên 300 người sử dụng, thành thạo
quy trình cập nhật, xử lý thông tin. Nhiều đơn vị đã chủ động
cập nhật số liệu thực hiện từ các năm trước, số liệu vốn địa
16
phương để đảm bảo thông tin thể hiện đầy đủ và chính xác;
CSDL MIC được phổ biến rộng rãi, đến nhiều cơ quan quản lý
trong Bộ NN&PTNT như các Tổng cục, Cục Quản lý xây dựng
công trình, Vụ Tài chính trong công tác quản lý và giám sát đầu
tư. Hệ thống cũng được Bộ Kế hoạch và Đầu tư đánh giá tốt so
với các tỉnh và Bộ ngành khác.
− Hệ thống phần mềm thư viện điện tử: Đã được vận hành,
nhằm nâng cao hiệu quả cung cấp thông tin, tư liệu phục vụ
công tác nghiên cứu, chỉ đạo điều hành của Bộ NN&PTNT.
Hình thành hệ thống liên thông thư viện trong ngành nhằm tăng
cường mối liên kết, huy động nguồn lực, cung cấp tài liệu và
thông tin của ngành phục vụ cán bộ lãnh đạo, cán bộ làm công
tác quản lý, nghiên cứu, tham gia sản xuất trong và ngoài
ngành, xây dựng kho tư liệu số thống nhất trong ngành
NN&PTNT, tăng cường năng lực cho cán bộ làm công tác thư
viện của ngành và cải tạo hệ thống phòng đọc và phòng làm
việc của thư viện.
− Cơ sở dữ liệu nông nghiệp nông thôn các tỉnh: Số liệu thu
thập, lưu trữ trong CSDL này được lấy từ nguồn số liệu thống
kê chính thức, tư liệu kinh tế xã hội các tỉnh/thành phố và số
liệu điều tra nông nghiệp nông thôn, điều tra mức sống dân cư
của Tổng cục Thống kê và nguồn từ các cơ quan, địa phương.
Nội dung gồm dữ liệu từ năm 2000 cho tới năm 2013 với hơn
330 chỉ tiêu được phân loại cụ thể.
− Cơ sở dữ liệu thông tin thị trường: Được hỗ trợ từ nguồn
vốn của ngân hàng phát triển châu Á (ADB) để xây dựng phần
mềm và kinh phí Xúc tiến thương mại để thu thập giá của các
mặt hàng nông sản tại 17 tỉnh thành trên cả nước và các sàn
giao dịch trên thế giới nhằm hỗ trợ công tác chỉ đạo, điều hành
17
của Lãnh đạo Bộ cũng như Ban chỉ đạo thị trường nông sản
thực hiện một cách kịp thời.
Bên cạnh đó, nhiều phần mềm ứng dụng, tiện ích phục vụ
công tác quản lý, nghiên cứu, sản xuất, phục vụ công việc
chuyên môn trong các lĩnh vực: nông nghiệp, thủy lợi, lâm
nghiệp, thủy sản, cũng đã được triển khai nhằm nâng cao
năng lực quản lý điều hành chung của Bộ. Các phần mềm
CSDL chuyên ngành, ứng dụng CNTT trong công tác quản lý,
điều hành, nghiên cứu khoa học tại các đơn vị thuộc Bộ đã cập
nhật kịp thời các kết luận giao ban, nhiệm vụ của Lãnh đạo Bộ
giao cho các đơn vị, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, các
thông báo, báo cáo, chương trình công tác của Bộ, các sự kiện
thời sự nổi bật của ngành, tình hình bão lụt, dịch bệnh trên cây
trồng, vật nuôi
4.6 Phát triển Cổng thông tin điện tử và các Website
Bộ Nông nghiệp và PTNT đã đầu tư xây dựng cổng thông tin
điện tử, đến thời điểm này, đã đáp ứng được các quy định của
Nghị định số 43/2011/NĐ-CP, ngày 13/6/2011 của Thủ tướng
Chính phủ quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công
trực tuyến, cụ thể có các chức năng, nhiệm vụ chính như sau:
- Lưu trữ, chia sẻ và cung cấp các thông tin về chỉ đạo, điều
hành của Bộ, các văn bản quy phạm pháp luật, các tin tức hoạt
động trong lĩnh vực ngành nông nghiệp và các lĩnh vực khác.
- Là cầu nối trao đổi thông tin giữa người dân, doanh nghiệp
với các cơ quan quản lý nhà nước trực thuộc Bộ.
- Là đầu mối liên kết các cổng thôn tin điện tử thành phần
của các đơn vị, cơ quan trực thuộc Bộ.
Cùng với đó, hầu hết các cơ quan trực thuộc (Tổng cục, cục,
18
vụ, trung tâm, viện) cũng đã đầu tư, xây dựng cổng thông tin
điện tử cho riêng đơn vị mình, phần lớn các cổng thông tin điện
tử này có kết nối và chia sẻ trên cổng thông tin điện tử của Bộ
với những mức độ khác nhau. Đa phần đã đáp ứng được các yêu
cầu chung của một cổng thông tin điện tử như cung cấp văn bản
chỉ đạo điều hành, văn bản pháp luật, kế hoạch, lịch công tác,
thông báo, tin tức hoạt động, chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ
chức, bảo đảm tính chính xác, kịp thời, công khai, minh bạch.
Nhìn chung, các trang tin điện tử của các đơn vị đã đáp ứng
được các yêu cầu cơ bản về tra cứu, tìm hiểu những thông tin cơ
bản của đơn vị, tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những hạn chế và
nhược điểm như: (i) Không đồng nhất về công nghệ do các
Website/Portal được xây dựng ở những thời điểm khác nhau,
bởi những đơn vị khác nhau nên sử dụng công nghệ và nền tảng
khác nhau; (ii) Phân tán về quản lý, chỉ một số ít các
Website/Portal được duy trì và vận hành tập trung tại một nơi
(Trung tâm Tin học và Thống kê), còn lại hầu hết được duy trì
và vận hành phân tán tại các đơn vị khác nhau; (iii) Lạc hậu về
công nghệ xây dựng trang tin đã tạo ra những lỗ hổng về bảo
mật, không được các nhà cung cấp hỗ trợ kỹ thuật dẫn đến mất
quyền truy cập hoặc tạo diều kiện cho các tấn công, xâm nhập
trái phép; (iv) Nhiều đơn vị không thường xuyên cập nhật nội
dung, chưa có đội ngũ quản trị, vận hành hệ thống và biên tập
bài chuyên nghiệp; (v) Chưa có quy hoạch, sự thống nhất về
việc đặt tên miền cho website/cổng TTĐT của các đơn vị.
4.7 Hệ thống ứng dụng trực tuyến trên internet
Ứng dụng đầu tiên, phổ biến nhất của công nghệ thông tin và
mang lại nhiều lợi ích nhất phải kể đến là internet. Internet cung
19
cấp vô số lời giải miễn phí và nhanh chóng cho những vấn đề
thường gặp của nhà nông. Đó có thể là lời khuyên từ chuyên
gia, là kinh nghiệm thực tiễn của các nông dân khác, là một
chương trình hỗ trợ của chính phủ Với lượng thông tin khổng
lồ và cập nhật, internet còn giúp người nông dân hiện đại lập kế
hoạch sản xuất thật chi tiết, từ sản lượng, chi phí đầu vào, lợi
nhuận mong đợi, rủi ro gặp phải để linh hoạt ứng phó với các
tình huống phát cũng tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động mua
bán của người nông dân.
Nhờ phát triển nhanh của công nghệ internet và dịch vụ
đường truyền ngày càng tốt hơn, nhiều ứng dụng trực tuyến trên
internet đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT triển khai. Bên cạnh
việc cho phép tra cứu thông tin và các ứng dụng trên cổng thông
tin của Bộ, một số đơn vị trong Bộ đã xây dựng được các hệ
thống ứng dụng trực tuyến phục vụ ngành như Cục Kiểm lâm,
Cục Quản lý đê điều và PCLB, Vụ kế hoạch, Trung tâm Tin học
và Thống kê,...
Một ứng dụng trực tuyến khác mang lại hiệu quả cao được
thực hiện bởi Vụ kế hoạch, đó là Hệ thống thu thập thông tin về
quản lý vốn cho khoảng 700 dự án đầu tư sử dụng vốn ngân
sách, vốn trái phiếu Chính phủ và vốn vay ODA. Trong đó bao
gồm các thông tin cơ bản về dự án được duyệt, kế hoạch đầu tư
hàng năm, quá trình thực hiện và giải ngân theo từng kỳ. Các
nội dung này được cập nhật bởi hơn 300 chủ đầu tư thực hiện
dự án ( http:// mic.mard.gov.vn). Vụ cũng đã xây dựng một cơ
sở dữ liệu nông nghiệp nông thôn các tỉnh được thu thập từ
nguồn thống kê chính thức, tư liệu kinh tế xã hội tỉnh/thành phố
cùng với số liệu điều tra nông nghiệp nông thôn
(
20
Nhiều đơn vị trong Bộ cũng đã và đang triển khai các hệ
thống ứng dụng trực tuyến như thư viện điện tử, hệ thống thống
kê, văn phòng điện tử, hệ thống giao lưu trực tuyến,. Tuy
nhiên, những ứng dụng loại này chưa nhiều cần phải phát triển
nhiều hơn nữa để tận dụng được thế mạnh của Internet và mang
lại sự thuận lợi cho người dùng.
Bộ đã thiết lập được 2 phòng họp trực tuyến: một phòng
phục vụ các cuộc họp chung của Bộ và một phòng phục vụ cho
công tác của Ủy ban phòng chống lụt bão, hàng năm có khoảng
15 cuộc họp trực tuyến.
Hệ thống thư điện tử chính thức của Bộ NN&PTNT có tên
miền là @mard.gov.vn được thành lập năm 2008 bắt nguồn từ
việc hợp nhất 3 hệ thống thư điện cũ của Bộ trước kia là
@mard.gov.vn, @agroviet.gov.vn và @mofi.gov.vn. Hiện tại có
khoảng gần 2000 người sử dụng trong Ngành với khoảng 500
người trao đổi thông tin hàng ngày. Hệ thống thư điện tử này do
Trung tâm Tin học và Thống kê quản lý đã cấp account sử dụng
cho hầu hết các tổng cục, cục, vụ, trung tâm thuộc Bộ,... và một
số cán bộ chủ chốt tại các viện nghiên cứu, các trường đào tạo
và các sở Nông nghiệp và PTNT và trở thành một kênh trao đổi
thông tin cơ bản của Bộ.
4.8 Quản lý theo dõi diễn biến hiện trạng rừng và đất lâm
nghiệp
Mục đích theo dõi diễn biến rừng và đất lâm nghiệp là nắm
vững diện tích các loại rừng, đất lâm nghiệp hiện có được phân
chia theo chức năng sử dụng rừng và loại chủ quản lý; lập bản
đồ hiện trạng rừng ở các tỉ lệ nhằm giúp hoạch định chính sách
lâm nghiệp ở địa phương và trung ương phục công tác bảo vệ và
21
phát triển rừng. Cập nhật diện tích các loại rừng và đất lâm
nghiệp trên cơ sở phân loại rừng và đất rừng. Số liệu thu thập ở
thực địa phải được cập nhật vào cơ sở dữ liệu và bản đồ rừng.
Việc theo dõi diễn biến rừng và đất lâm nghiệp được ứng dụng
công nghệ thông tin như sử dụng phần mềm cơ sở dữ liệu
(DBR), Phần mềm xử lý bản đồ (MapInfo, Microstation), phần
mềm xử lý ảnh viễn thám (PCI, ERDAS). Các phần mềm này
được quản lý, sử dụng thống nhất trong toàn quốc, bảo đảm tính
tích hợp dữ liệu từ địa phương tới trung ương.
Từ năm 2013 đến nay, ngành nông nghiệp và phát triển nông
thôn đang triển khai dự án phát triển hệ thống Thông tin Quản
lý ngành lâm nghiệp (FORMIS) do chính phủ Phần Lan tài trợ.
Lực lượng kiểm lâm, cán bộ phụ trách lâm nghiệp các cấp chịu
trách nhiệm cập nhật các dữ liệu vào hệ thống thông qua các
thông tin diễn biến rừng tại địa bàn. Đến nay, Tổng cục Lâm
nghiệp đã cơ bản tích hợp vào hệ thống cơ sở dữ liệu hiện trạng
rừng, đất rừng trên toàn quốc, thay thế hoàn toàn việc quản lý,
lưu trữ theo hồ sơ giấy như trước đây. Tính đến nay, đã có 60
tỉnh, thành phố trên toàn quốc được triển khai phần mềm quản
lý theo dõi diễn biến rừng và đất lâm nghiệp hiện đại, giúp cho
việc quản lý và khai thác dữ liệu tài nguyên rừng, giám sát mọi
diễn biến của rừng và đất lâm nghiệp hiệu quả trên phạm vi toàn
quốc. Chương trình này sẽ giúp cho ngành lâm nghiệp từ trung
ương đến địa phương quản lý rừng linh hoạt, hiệu quả. Giúp các
chủ rừng, các doanh nghiệp chế biến gỗ, người làm nghề rừng
theo dõi chi tiết từng lô rừng, chất lượng và diễn biến rừng, góp
phần phát triển kinh tế lâm nghiệp. Viện Điều tra Quy hoạch
rừng (Việt Nam) đã ứng dụng khá thành công các công nghệ
GIS, Viễn thám, GPS trong theo dõi diễn biến, đánh giá tài
22
nguyên rừng. Ảnh vệ tinh có độ phân giải cao sau khi được giải
đoán, chồng xếp, đối chiếu với bản đồ rừng đã có, những khu
vực nào mâu thuẫn sẽ được xác định để kiểm chứng thực địa
với GPS.
4.9 Dịch vụ công trực tuyến
Thực hiện Quyết định 08/QĐ-TTg ngày 6/1/2015 của Thủ
tướng Chính phủ về rà soát, đơn giản hóa TTHC trong các lĩnh
vực trọng tâm thuộc Bộ NN-PTNT là thủy sản, động vật trên
cạn, vật tư nông nghiệp, lâm nghiệp, thú y, bảo vệ thực vật,
thủy lợi.Ngày 15//3/2017, Cổng dịch vụ công trực tuyến của
Bộ (địa chỉ tại https://dvc.mard.gov.vn) đã được Bộ Nông
nghiệp và PTNT tổ chức khai trương vào ngày 15/3/2017 với
mục tiêu phấn đấu hết năm 2017, hầu hết dịch vụ công phổ
biến, liên quan đến nhiều người dân, doanh nghiệp được cung
cấp ở mức độ 3; cho phép sử dụng thanh toán lệ phí trực tuyến,
nhận hồ sơ và trả kết quả trực tuyến hoặc gửi qua mạng (dịch vụ
công trực tuyến mức độ 4).
Thực hiện việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức 3,4,
Bộ Nông nghiệp và PTNT xác định Cục Bảo vệ thực vật, Cục
Chăn nuôi là những đơn vị tiên phong triển khai công tác này.
Đây cũng là những đơn vị có nhiều thủ tục hành chính liên quan
nhiều đến hoạt động của doanh nghiệp, người dân. Kể từ khi
thực hiện việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 đã
giúp nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp.
Hiện nay, các cơ quan thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT thực
hiện 40 TTHC kiểm tra chuyên ngành gồm 32 TTHC liên quan
đến hàng hóa nhập khẩu và 8 TTHC liên quan đến hàng hóa
xuất khẩu.
23
Bộ Nông nghiệp và PTNT đã chỉ đạo quán triệt từ khâu xây
dựng các văn bản quy phạm pháp luật phải xác định thời gian,
hồ sơ, trình tự, thủ tục theo hướng tinh gọn, giảm thiểu chi phí,
thời gian thực hiện. Về cơ bản, các thủ tục hành chính kiểm tra
chuyên ngành đáp ứng yêu cầu quản lý, phù hợp thông lệ quốc
tế.
Trong nhiều lĩnh vực, thời gian giải quyết đã được tính theo
giờ hoặc cấp phép ngay sau khi doanh nghiệp có yêu cầu. Cụ
thể, đối với kiểm tra lô hàng thủy sản xuất khẩu, đã chuyển sang
phương thức kiểm tra ngay trong quá trình sảnxuất và cấp Giấy
chứng nhận khi doanh nghiệp có yêu cầu, rút ngắn thời gian từ
5 - 7 ngày làm việc xuống còn 8 giờ/1 lô hàng. Thực tế, nhiều lô
hàng được cấp Giấy chứng nhận trong 2 - 3 giờ, tiết kiệm cho
doanh nghiệp từ 15 - 20% chi phí. Đối với kiểm dịch thực vật,
theo quy định của Luật Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật, thời gian
giải quyết là 24 giờ kể từ khi bắt đầu kiểm dịch. Trên thực tế, từ
khi tổ chức đăng ký kiểm dịch đến khi được cấp giấy rút ngắn
xuống còn không quá 4 giờ đối với đường bộ, đường hàng
không và không quá 10 giờ đối với đường biển.
Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã chỉ đạo các đơn vị
trực thuộc đã và đang thực hiện 11 thủ tục hành chính (TTHC)
theo cơ chế một cửa quốc gia liên quan đến kiểm tra chuyên
ngành. Tính đến ngày 23/10/2017, Bộ đã tiếp nhận tổng số
168.854 hồ sơ đề nghị cấp giấy phép điện tử qua Cổng một cửa
quốc gia; kết quả đã xử lý, giải quyết 156.214 hồ sơ, đạt tỉ lệ
trên 95%. Trong đó, tính từ đầu năm 2017 đến 23/10/2017, các
đơn vị thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT đã tiếp nhận, xử lý giải
quyết hồ sơ cấp phép điện tử qua Cổng một cửa quốc gia tổng
số 125.533 hồ sơ; xử lý, giải quyết và cấp giấy phép điện tử
24
120.152 hồ sơ, đang tiếp tục xử lí 5.401 hồ sơ. Bộ NN-PTNT
tiếp tục mở rộng giải quyết TTHC theo cơ chế một cửa quốc gia
đến Quý I/2018 đối với 8 TTHC kiểm tra chuyên ngành tại 7
đơn vị. Đây là các TTHC có số lượng giao dịch nhiều, tác động
lớn tới hoạt động của doanh nghiệp và người dân.
Các đơn vị đang thực hiện giải quyết TTHC theo cơ chế một
cửa quốc gia tại Bộ NN-PTNT gồm: Tổng cục Thủy sản, Cục
Chăn nuôi, Cục Bảo vệ thực vật, Cục Quản lí Chất lượng nông
lâm sản và thủy sản và Cục Thú y. Trong đó, một số đơn vị đã
đạt được kết quả tích cực, được người dân và doanh nghiệp
đánh giá rất cao. Cụ thể, Cục Chăn nuôi với những thủ tục liên
quan tới xuất nhập khẩu thức ăn chăn nuôi, Cục Bảo vệ thực vật
với thủ tục nhập khẩu thuốc BVTV, Tổng cục Thủy sản với các
hồ sơ xuất nhập khẩu thức ăn thủy sản 100% các công đoạn
từ khi tiếp nhận đến lúc trả hồ sơ kết quả đều thông qua hệ
thống mạng trực tuyến. Qua đó, tiết kiệm được rất nhiều thời
gian, công sức, tiền bạc... Theo kế hoạch, khoảng 80% số lượng
hồ sơ, TTHC thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước chuyên ngành
của các đơn vị thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT về hoạt động
xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập và
quá cảnh hàng hóa sẽ được giải quyết trên mạng thông tin điện
tử mức độ 3, 4 vào năm 2018.
4.10 Truy xuất nguồn gốc thực phẩm
Công nghệ thông tin giúp phân phối hiệu quả và cung cấp
các số liệu thực tế phục vụ cho việc truy xuất nguồn gốc thực
phẩm và tiêu chuẩn an toàn thực phẩm. Sử dụng công nghệ truy
xuất nguồn gốc sẽ dễ dàng xử lý các lô hàng kém chất lượng
hoặc hàng giả và giúp cho việc kiểm soát chặt chẽ các hàng hóa
25
đưa vào thị trường một cách minh bạch và rõ ràng đồng thời
làm hạn chế lượng hàng kém chất lượng, hàng giả lưu thông
trên thị trường, giúp người tiêu dùng được tiếp cận một hệ
thống cung cấp thông tin minh bạch, đầy đủ nhất, truy xuất
nguồn gốc về sản phẩm từ khâu sản xuất, nguyên liệu, đóng gói
và vận chuyển phân phối.
Các thị trường phát triển rất chú trọng việc truy xuất nguồn
gốc, đặc biệt trong ngành thực phẩm. Ở châu Âu, từ năm 2005,
EU xác định truy xuất nguồn gốc là quy định bắt buộc cho các
nước thành viên. Hệ thống siêu thị bán lẻ ở Anh cũng tăng
cường hệ thống kiểm định này. Tháng 1/2011, Mỹ đã ban hành
Luật Hiện đại hóa An toàn thực phẩm (FSMA - Food Safety
Modernization Act), yêu cầu tăng cường theo dõi, truy vết thực
phẩm và lưu trữ hồ sơ đối với thực phẩm nguy cơ cao (phải có
hệ thống lưu trữ hồ sơ dễ tiếp cận, khi cần thiết có thể gửi tới cơ
quan thẩm quyền trong thời gian 24 giờ kể từ khi nhận được yêu
cầu của cơ quan kiểm tra). Tương tự, Ireland, Canada cũng đã
có những quy định nghiêm ngặt về việc dán nhãn mác, nhận
diện sản phẩm, cơ sở sản xuất. Ở Ấn Độ, từ năm 2006, các nhà
sản xuất, chế biến nho đã lập ra hệ thống truy xuất nguồn gốc
điện tử GrapeNet. Nhờ vậy, họ chiếm hoàn toàn lòng tin từ thị
trường nhập khẩu EU. Từ năm 2010 đến nay, Bộ Nông nghiệp
Thái Lan, thông qua Văn phòng quốc gia về tiêu chuẩn nông
sản và thực phẩm (ACFS-The National Bureau of Agricultural
Commodity and Food Standards), đã đưa ra chuẩn quốc gia về
truy xuất nguồn gốc điện tử, xây dựng cổng thông tin truy xuất
nguồn gốc điện tử để nông dân vào đăng ký dùng miễn phí,
được ACFS tập huấn và hỗ trợ. Đến nay, nải chuối hay quả sầu
riêng bán ở cửa hàng rau quả nhỏ ở Thái Lan cũng được dán mã
26
QR. Điều này đã mang lại hiệu quả kinh tế rõ ràng cho nông
dân Thái Lan.
Việc đảm bảo hàng hóa có chất lượng tốt là điều rất quan
trọng cho khả năng cạnh tranh. Trong bối cảnh hội nhập hiện
nay, sự cạnh tranh không chỉ xuất hiện khi hàng hóa Việt Nam
đi ra thế giới mà còn ở ngay thị trường trong nước, khi hàng hóa
thế giới tiến vào Việt Nam. Doanh nghiệp cần đảm bảo cơ sở
cho niềm tin của người tiêu dùng. Giải pháp là hệ thống minh
bạch thông tin về quá trình hàng hóa từ lúc sản xuất cho đến khi
tới tay người tiêu thụ. Nhiều doanh nghiệp đã hướng đến sản
xuất thực phẩm đạt các tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, ASC,
HACCP..., nhưng như vậy vẫn chưa đủ nghiêm ngặt cho chuẩn
mực chất lượng. Người tiêu dùng cần có sự minh bạch hơn về
quy trình, nguồn gốc sản phẩm, tức họ cần có thông tin truy
xuất nguồn gốc tại tất cả các khâu trong chuỗi sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm, để biết liệu đơn vị cung cấp sản phẩm có nỗ lực
tối đa trong vấn đề đảm bảo chất lượng sản phẩm hay không;
sản phẩm có được kiểm soát chất lượng một cách nghiêm túc
trong toàn bộ chuỗi cung ứng hay không. Do vậy, truy xuất
nguồn gốc sản phẩm đang dần trở thành xu thế tất yếu và là yêu
cầu bắt buộc, cho phép người tiêu dùng có đầy đủ thông tin
ngược dòng, từ sản phẩm cuối cùng về nơi sản xuất ban đầu, rà
soát từng công đoạn trong chế biến và phân phối. Xu hướng
hiện nay là sử dụng công nghệ thông tin và các thiết bị điện tử
để giúp cho việc cập nhật thông tin, quản lý dữ liệu và truy xuất
nguồn gốc sản phẩm được thuận lợi. Với giải pháp này, doanh
nghiệp sản xuất đưa thông tin lên hệ thống từ những khâu đầu
của chuỗi sản xuất cho đến khâu đóng gói sản phẩm. Tất cả
thông tin về sản phẩm được lưu trữ vào máy chủ, dễ dàng truy
27
xuất và người mua có thể xem thông tin về lô hàng trên hệ
thống ngay khi lô hàng chưa rời khỏi nơi sản xuất. Có thể truy
xuất nhanh nguồn gốc sản phẩm qua mã QR (QR code: mã vạch
2 chiều hay mã phản hồi nhanh, mã vạch ma trận) in trên bao bì
sản phẩm bằng cách dùng ứng dụng quét mã trên điện thoại
thông minh.
Khác với phương pháp truy xuất nguồn gốc truyền thống
được ghi chép bằng tay, lưu trữ bằng giấy tờ sổ sách, với sự hỗ
trợ của CNTT, đơn vị sản xuất sẽ dễ dàng hơn trong việc quản
lý hồ sơ, giấy tờ trên máy tính. Tất cả thông tin sản phẩm được
lưu trữ vào máy chủ, dễ dàng truy xuất. Lô hàng mới đóng gói
đã được đưa thông tin lên mạng chưa ra khỏi nhà máy nhưng
bên người bán đã xem được thông tin lô hàng. Tuy nhiên, hệ
thống này chỉ là công cụ, đơn vị sản xuất phải có trách nhiệm
cung cấp thông tin trong từng khâu một, chứng chỉ kiểm nghiệm
của nhà sản xuất. Nhiều doanh nghiệp có dây chuyền sản xuất
phức tạp sẽ cần có hệ thống truy xuất nội bộ để quản lý thông
tin sản phẩm. Nếu thực hiện tốt công việc truy xuất nội bộ thì
việc áp dụng hệ thống truy xuất điện tử sẽ được thực hiện dễ
dàng hơn. Các nền tảng của truy xuất nguồn gốc điện tử cũng
đảm bảo khả năng có thể tích hợp hài hòa với hệ thống hoạch
định nguồn lực doanh nghiệp (ERP - Enterprise Resource
Planning).
Với doanh nghiệp, các doanh nghiệp sẽ có thêm cơ hội quảng
bá, xây dựng thương hiệu; góp phần đẩy mạnh quá trình tương
tác giữa người sản xuất, doanh nghiệp phân phối và người tiêu
dùng. Truy xuất nguồn gốc là bước đầu tạo sự tin tưởng nơi
khách hàng, bày tỏ thiện chí minh bạch mọi thông tin về sản
phẩm.
28
Về phía người tiêu dùng, truy xuất nguồn gốc thực phẩm
là giải pháp cho phép người tiêu dùng trực tiếp thu thập thông
tin về thực phẩm, truy ngược dòng từ thành phẩm cuối cùng về
nơi sản xuất ban đầu, rà soát từng công đoạn trong chế biến và
phân phối bằng cách sử dụng ứng dụng chạy trên điện thoại
thông minh để quét mã QR code dán trên sản phẩm. Đây là giải
pháp kiểm tra chất lượng sản phẩm hiệu quả, nhanh gọn. Khi
chủ động truy xuất bằng chính mã vạch trên mỗi sản phẩm
thông qua hệ thống thông tin hiện đại, người tiêu dùng yên tâm
mua sắm, còn nhà bán lẻ dễ kiểm soát rủi ro phát sinh khi theo
dõi và xác minh toàn bộ đường đi của hàng hóa. Người tiêu
dùng chỉ cần sử dụng smartphone chụp lại mã QR trên bao bì
sản phẩm là có thể biết được mọi thông tin về sản phẩm mình
đang chuẩn bị mua. Đặc biệt, người tiêu dùng cũng có thể xem
lại sản phẩm đã quét hay bản đồ từ vị trí của mình tới vị trí các
nhà cung cấp thực phẩm trong hệ thống thông qua Google
Maps. Ngoài ra, những góp ý, phản hồi về sản phẩm của người
tiêu dùng cũng sẽ được chuyển đến cơ quan quản lý và doanh
nghiệp. Dùng mã code để truy xuất nguồn gốc thực phẩm sẽ
giúp công tác quản lý chất lượng thực phẩm chặt chẽ hơn, giúp
người tiêu dùng tránh mua phải các loại hàng trôi nổi, không rõ
nguồn gốc xuất xứ trên thị trường.
4.11 Công nghệ viễn thám
Ngành viễn thám phát triển đã đóng một vai trò hết sức quan
trọng, là một công cụ phục vụ và hổ trợ đắc lực cho các ngành
khác nhau. Với kỹ thuật của viễn thám bằng ảnh máy bay hay
ảnh vệ tinh con người có thể quan sát được những vật thể trên
bề mặt của trái đất ở phạm vi rộng lớn mà mắt thường không
thể quan sát được đồng thời xác định hình thể cũng như tính
29
chất của vật thể đó qua việc giải đoán ảnh. Các ảnh sau khi thu
được là một ảnh thực với độ chính xác và thể hiện đầy đủ các
chi tiết của bề mặt trái đất vào lúc chụp. Do đó, bức ảnh được
xem như là một trợ dụng cụ xuất sắc cho phép con người nghiên
cứu thiên nhiên ở bất cứ nơi nào và bất kỳ lúc nào. Ngày nay
với kỹ thuật chụp ảnh viễn thám ngày càng hiện đại hơn đã góp
phần to lớn trong việc thu thập, phân tích các thông tin và phát
hiện sự hiện diện cũng như sự thay đổi của môi trường và tài
nguyên thiên nhiên trên trái đất để phục vụ cho các mục đích
khác nhau, cụ thể:
- Viễn thám trong quản lý sử dụng đất: Thống kê và thành
lập bản đồ sử dụng đất; Điều tra giám sát trạng thái mùa màng
và thảm thực vật.
- Ứng dụng công nghệ viễn thám trong lâm nghiệp: Điều tra
phân loại rừng, diễn biến của rừng; Nghiên cứu về côn trùng và
sâu bệnh phá hoại rừng, cháy rừng.
- Viễn thám ứng dụng trong quản lý sự biến đổi môi trường:
Điều tra về sự biến đổi sử dụng đất và lớp phủ; Vẽ bản đồ thực
vật; Nghiên cứu các quá trình sa mạc hoá và phá rừng; Giám sát
thiên tai (hạn hán, lũ lụt, cháy rừng, bão, mưa đá, sương mù,
sương muối,...); Nghiên cứu ô nhiễm nước và không khí.
- Viễn thám trong nghiên cứu tài nguyên nước: Lập bản đồ
phân bố tài nguyên nước; phân bố tuyết; phân bố mạng lưới
thuỷ văn; các vùng đất thấp.
- Ngoài ra viễn thám còn được ứng dụng trong địa chất như
thành lập bản đồ địa chất; bản đồ phân bố khoáng sản; bản đồ
phân bố nước ngầm; bản đồ địa mạo. Trong khí tượng thuỷ văn
Viễn thám được ứng dụng trong đánh giá định lượng lượng
30
mưa, bão và lũ lụt, hạn hán; Đánh giá, dự báo dòng chảy, đánh
giá tài nguyên khí hậu, phân vùng khí hậu.
Trong những năm gần đây, đã có nhiều nghiên cứu về ứng
dụng tư liệu ảnh viễn thám MODIS trong theo dõi mùa vụ lúa
như nghiên cứu của Dương Văn Khảm và ctv (2007), Chi- Farn
Chen et al. (2008), Trần Thị Hiền (2010), và Vũ Hữu Long và
ctv (2011); Trần Thị Hiền, và ctv (2013); Vo Quang Minh, Hồ
Văn Chiến (2013). Kết quả từ những nghiên cứu này cho thấy
ảnh MODIS có thể giúp theo dõi và xác định được thời vụ lúa ở
các địa phương, đánh giá được hiện trạng canh tác lúa làm cơ sở
dự báo và đề xuất các giải pháp phù hợp. Việc sử dụng kỹ thuật
ảnh viễn thám kết hợp với kỹ thuật hệ thống thông tin địa lý
(GIS), bằng phương pháp thống kê hay nội suy không gian, đã
được ứng dụng trong nhiều nghiên cứu về sự phân bố không
gian các đặc tính tự nhiên ở nhiều nước trên thế giới (Liebhold
and Kamata, 2000). Từ kết quả giải đoán có thể theo dõi và xác
định được thời điểm cũng như tiến độ xuống giống ở các địa
phương, đánh giá được hiện trạng canh tác lúa và dự đoán
những vùng có nguy cơ dịch hại làm cơ sở đề xuất các giải pháp
phù hợp với từng trà lúa ở từng vùng khác nhau.
Việt Nam là một trong 5 nước chịu ảnh hưởng lớn nhất do
biến đổi khí hậu nên việc áp dụng công nghệ viễn thám vào quy
hoạch và điều hành SX nông nghiệp là xu thế tất yếu. Hiện nay,
khoa học ứng dụng cho lĩnh vực này ngày càng phát triển. Bộ
Nông nghiệp và PTNT rất quan tâm đến việc ứng dụng công
nghệ viễn thám vào SX nông nghiệp như ứng dụng công nghệ
GIS vào bảo vệ và phát triển rừng; dự đoán sản lượng lúa; kiểm
soát tàu đánh cá trên biển; giám sát lũ lụt và thảm họa thiên
tai
31
Việc ứng dụng dữ liệu MODIS hiệu để phát hiện mức độ
ngập lụt theo không gian-thời gian rộng lớn và có thể cập nhật
hàng ngày là một kết quả khá quan trọng cho vùng hạ lưu sông
Mekong thời gian qua. Ảnh vệ tinh MODIS (MOD09A1, độ
phân giải 500m, 8 ngày lập) ở khu vực hạ lưu sông Mekong
chụp từ ngày 26/02/2000 đến ngày 27/12/2011 được sử dụng có
khả năng phát hiện những thay đổi lũ lụt cao ở cấp khu vực, có
sự tương quan khá cao với số liệu mực nước thủy văn ghi nhận
tại các trạm quan trắc (R2: 0,79-0,90). Có mối liên hệ chặt chẽ
giữa chỉ số thực vật tăng cường EVI, chỉ số nước bề mặt LSWI
với trạng thái phát triển thực vật và diễn biến lũ. Bản đồ hiện
trạng ngập vào mùa lũ của khu vực nghiên cứu được thành lập
giúp đánh giá mức độ ngập lũ và đặc điểm thời gian lũ lụt qua
các năm 2000 đến 2011.
Trong những năm qua, Việt Nam đã dùng công nghệ viễn
thám để xây dựng bản đồ hiện trạng sử dụng đất tại 11 tỉnh
vùng Đồng bằng sông Hồng bằng phương pháp sử dụng ảnh vệ
tinh SPOT4 và SPOT5. Theo dõi lúa Đồng bằng sông Hồng từ
năm 2012 đến nay, sử dụng ảnh vệ tinh MODIS để dự báo năng
suất, ước tính sản lượng, theo dõi sinh trưởng của lúa, theo dõi
tình trạng khô hạn, ngập úng.
Hệ thống Webgis và viễn thám quản lý sản xuất lúa khu vực
Đồng bằng sông Cửu Long cũng đã sử dụng ảnh MODIS để
theo dõi sản xuất lúa, tạo thành nguồn dữ liệu đầu vào độc lập
cho hệ thống thông tin, sử dụng phép phân tích dữ liệu đầu vào
độc lập cho hệ thống thông tin, sử dụng phép phân tích dữ liệu
không gian và thời gian để xác định thời điểm xuống giống, tiến
độ xuống giống; xác định giai đoạn sinh trưởng của lúa trên
ruộng. Trên cơ sở đó, xây dựng bản đồ hiện trạng lúa thống kê
32
diện tích lúa theo từng giai đoạn sinh trưởng, xác định tiến độ
thu hoạch lúa. Qua đó, tính toán diện tích gieo cấy và dự đoán
năng suất cho từng xã, từng huyện, từng tỉnh.
V. Một số ứng dụng CNTT trong sản xuất và kinh doanh
Nông nghiệp
5.1 Công nghệ không dây (wireless)
Công nghệ không dây đã mở rộng nhanh chóng trong những
năm gần đây, đặc biệt là trong công nghệ điện thoại di động.
Bên cạnh đó công nghệ không dây còn có nhiều ứng dụng trong
nông nghiệp. Mục đích chính là đơn giản hóa truyền hình mạch
kín hệ thống camera. Việc sử dụng các thông tin liên lạc không
dây giúp loại bỏ sự cần thiết cho việc lắp đặt cáp đồng trục,
giúp liên lạc tầm xa hoặc thực tế không thể lắp đặt hệ thống dây
dẫn. Ứng dụng công nghệ không dây làm đơn giản hóa việc kết
nối trong hệ thống.
Một số ứng dụng về mạng cảm biến không dây bao gồm theo
dõi sự di chuyển của các loài chim, loài thú nhỏ, côn trùng;
kiểm tra các điều kiện môi trường ảnh hưởng tới mùa màng và
vật nuôi; tình trạng nước tưới; phát hiện hóa học, sinh học; tính
toán trong nông nghiệp; kiểm tra môi trường không khí, đất
trồng, biển; phát hiện cháy rừng; nghiên cứu khí tượng và địa
lý; phát hiện lũ lụt; vẽ bản đồ sinh học phức tạp của môi trường
và nghiên cứu ô nhiễm môi trường. Các ứng dụng của các mạng
cảm biến không dây cũng được sử dụng trên các trang trại chăn
nuôi. Người chăn nuôi có thể sử dụng các mạng cảm biến trong
quá trình quyết định vị trí của động vật trong trang trại và với
các cảm biến được gắn theo mỗi động vật, xác định yêu cầu cho
các phương pháp điều trị để phòng chống các động vật ký sinh.
33
Người chăn nuôi heo, gà có các đàn trong các chuồng nuôi mát,
thoáng khí. Mạng cảm biến không dây có thể được sử dụng cho
việc giám sát nhiệt độ khắp chuồng nuôi, đảm bảo an toàn cho
đàn.
Mạng có thể được dung để đo độ ẩm ở từng khu vực trong
trang trại hay lượng mưa ở những khu vực khác nhau. Các nút
mạng được bố trí tại các cánh đồng khác nhau để thu thập các
thông tin về môi trường (nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng...) sau đó
chuyển dữ liệu về người nông dân. Người nông dân khi có các
thông tin về môi trường ở từng khu vực khác nhau sẽ đưa ra các
phương hướng chăm sóc khác nhau đối với từng khu vực để
chăm sóc cho tốt.
Trong dự báo cháy rừng, mỗi nút mạng sẽ gắn một cảm biến
đo nhiệt độ, độ ẩm của không khí phân tán trong rừng, Mỗi nút
cảm biến có thể thu thập nhiều thông tin khác nhau liên quan
đến cháy như nhiệt độ, khói ...Các dữ liệu thu thập được truyền
tới trung tâm điều khiển để giám sát, phân tích, phát hiện và
cảnh báo cháy sớm ngăn chặn thảm họa cháy rừng.
Trong nuôi trồng thủy sản, mạng cảm biến không dây có thể
được dùng để quan trắc nồng độ ôxy, độ pH trong các hồ nuôi
trồng hải sản, khi đó có thể điều khiển tự động các quạt đạp
nước cung cấp ôxy và thông báo cho người quản lý biết tình
hình về nguồn nước hiện tại trong ao. Nút mạng có lắp Sensor
đo ôxy hoặc CO2 được thả xuống ao để đo lượng Ôxy và dữ
liệu được gởi qua các nút trung gian về máy tính, máy tính được
kết nối và lập trình điều khiển bật tắt các quạt đạp nước trong
một khoảng thời gian nhất định phụ thuộc vào nồng độ ôxy đo
được tại ao tại các thời điểm khác nhau.
34
5.2 Định vị toàn cầu (GPS)
Thiết bị định vị toàn cầu (GPS) là thiết bị thu nhận và xử lý
tín hiệu từ các vệ tinh định vị, giúp xác định tọa độ vị trí các
điểm trên mặt đất dựa vào một hệ thống gồm 3 thành phần
chính là vệ tinh định vị-Trạm mặt đất-Người sử dụng.
Trong nông nghiệp, việc sử dụng các hệ thống định vị toàn
cầu đem lại lợi ích trong địa lý, lập bản đồ, khảo sát biến động
không gian. Máy thu GPS giảm giá thành trong những năm qua,
làm cho nó phổ biến hơn cho mục đích dân sự. Với việc sử dụng
GPS, người dân có thể sản xuất bản đồ số hóa đơn giản nhưng
chính xác cao mà không cần sự giúp đỡ của một chuyên gia vẽ
bản đồ. Ở các nước phát triển đã ứng dụng máy nông nghiệp có
máy tính hướng dẫn với bộ tích hợp chuyên dụng. Máy tính
được dùng để điều khiển và tiếp nhận tín hiệu dẫn đường từ vệ
tinh thông qua hệ thống định vị toàn cầu (GPS). Công nghệ
GPS giúp thiết bị máy nông nghiệp cắt các hàng cây theo 1
đường thẳng đã thiết kế và sử dụng lượng phân bón đúng vị trí
cần bón. Người dân ở miền bắc Virginia sử dụng Hệ thống
hướng dẫn định vị toàn cầu được tích hợp vào bộ điều khiển
máy nông nghiệp để hướng dẫn tự động tác nghiệp bón phân
hay canh tác trên bề mặt đất. Sau khi hoàn thành các công đoạn
chuẩn bị đất trồng, nó sẽ trở lại và gieo hạt trên đúng trên thửa
đất được đánh dấu. Nhà nông học tại trường Đại học Purdue
(Ấn Độ) ứng dụng thiết bị dẫn đường để tiết kiệm lượng hạt
giống, thuốc trừ sâu hoặc phân bón, do đó nó có thể tiết kiệm
chi phí và ít gây tổn hại đến môi trường ngăn ngừa sự lan tràn
của các loài cỏ dại phá hoại mùa màng. Ngoài ra, còn có thê
theo dõi sự di chuyên của côn trùng hoặc sâu bệnh. Ví dụ ở
Kenya, giải pháp ngăn chặn voi tự nhiên vào các trang trại phá
35
hủy các cây trồng quý giá là gắn thẻ con voi bằng một thiết bị
gửi tin nhắn văn bản khi nó vượt qua hàng rào địa lý. Sử dụng
công nghệ SMS và GPS, do đó, voi được thả tự nhiên tuy nhiên
sẽ được chính quyền cảnh báo khi chúng đến gần các nông trại.
Ứng dụng GPS/GIS trong quản lý điều hành
hệ thống thu hoạch, bón phân
Một cách tiếp cận mới trong nghiên cứu hoạch định chiến
lược, chính sách nông nghiệp là dựa trên hệ thống địa lý đa cấp
độ. Với mục tiêu khái quát hóa tính đa dạng nông nghiệp-sinh
thái và kinh tế-xã hội, tổng hợp các dữ liệu không đồng nhất (đa
thời điểm, đa nguồn gốc và có độ phân giải khác nhau) trong
một cơ sở kiến thức chung và xác định các vùng đồng nhất xét
theo góc độ và các vấn đề phát triển. Kết quả nghiên cứu đem
lại sự phân loại các vấn đề phát triển, sự phù hợp giữa giải pháp
đề xuất và nơi tiếp nhận sẽ là cơ sở khoa học và khách quan hỗ
trợ cho các nhà quy hoạch, quản lý ra quyết định.
Sản xuất nông lâm nghiệp trở nên đơn giản, dễ dàng hơn với
việc sử dụng GPS. Toàn bộ thông tin về nông lâm nghiệp được
thể hiên trên bản đồ, các nhà hoạch định chính sách, các nhà
đầu tư dễ dàng có những quyết định phù hợp và chính xác. Nhật
Bản là một trong những quốc gia áp dụng GPS vào sản xuất
nông nghiệp phổ biến nhất. Các nhà sản xuất lắp đặt các thiết bị
GPS để tiếp nhận thông tin truyền qua vệ tinh của các máy kéo,
36
máy liên hợp và máy móc thiết bị nông nghiệp khác, đã giúp
hoạt động canh tác nông nghiệp được vận hành chính xác.
Mạng lưới cảm biến được sử dụng để đo nhiệt độ, độ ẩm, ánh
sáng, carbon dioxide hay những yếu tố cần thiết giúp phát triển
tốt nhất một số cây trồng phù hợp với thổ nhưỡng và khí hậu.
Mạng lưới này đi kèm với những điều chỉnh tự động trong hệ
thống thông gió, che chắn ánh sáng và các yếu tố khác giúp duy
trì mức độ carbon dioxide phù hợp nhất để phát triển và hỗ trợ
môi trường tối ưu cho từng loại cây trồng.
37
Hệ thống định vị toàn cầu kiểu Nhật là hệ thống vệ tinh định
vị chất lượng cao Quasi-Zenith Satellite System (QZSS), tiếng
Nhật là Juntencho, âm Hán-Nhật là Chuẩn thiên đỉnh, bao phủ
vùng Đông Á và châu Đại Dương. Vệ tinh Juntencho đầu tiên
có tên Michibiki được phóng ngày 11/9/2010.
GPS giúp hoạt động canh tác nông nghiệp
được vận hành chính xác
Hệ thống GPS hiện hành ở Nhật chủ yếu vẫn dựa vào các vệ
tinh của Mỹ. Nhưng do nước này có nhiều đồi núi nên tín hiệu
GPS khó có thể hoàn toàn phủ kín các vùng, và định vị vẫn tồn
tại sai số khá lớn, vào khoảng 10 m. Kế hoạch vũ trụ cơ bản
công bố hồi tháng Một năm nay đề xuất, trước năm 2033 sẽ
38
tăng số lượng vệ tinh QZSS từ một hiện nay lên bảy cái, nhằm
xây dựng hệ thống định vị riêng của Nhật, bảo đảm bất kỳ vùng
nào trong cả nước Nhật đều có thể nhận được số liệu xác định
phương vị với sai số không quá 5 m.
Hệ thống mới này sẽ mở đường cho tiến trình sử dụng số liệu
vệ tinh để phục vụ nông nghiệp. Người ta cũng đang tăng cường
khả năng sử dụng xe không người lái và máy móc loại nhỏ
không người điều khiển để tiến hành kiểm tra các thiết bị hạ
tầng cơ sở.
5.3 Hệ thống thông tin địa lý
Có thể nói GIS là một hệ thống dưới dạng số dùng cho việc
phân tích và quản lý các số liệu thuộc về địa lý được kết hợp
với các hệ thống phụ dùng cho việc nhập các dữ liệu và quyết
định một kế hoạch phát triển nào đó. GIS, được sử dụng rộng
rãi trong nông nghiệp, các dữ liệu trắc địa cần thiết như địa hình
và đường nét được kết hợp với dữ liệu thống kê khác để phân
tích. GIS được sử dụng trong việc ra quyết định những gì cần
thiết để canh tác và trồng nơi nào bằng cách sử dụng dữ liệu
lịch sử và lấy mẫu. Thí dụ như các bản đổ đất, mưa, địa hình,
mật độ dân số, sử dụng đất, ... có thể được kết hợp để phát triển
thành một bản đổ mới sẽ chỉ ra được những vùng có khả năng
đất bị xói mòn hoặc những vùng đất thích nghi cho sự phát triển
của các loại cây ăn trái hoặc lúa 2, 3 vụ, ... với các mức độ khác
nhau tuỳ vào các yêu cầu mà ta đã đặt ra trước đó. Bên cạnh đó,
GIS có thể được sử dụng để theo dõi sự phát triển của cỏ dại,
sâu bệnh phá hoại mùa màng, thể hiện loại đất, hạn hán, lũ lụt
và rất nhiều yếu tố khác giúp quản lý quá trình sản xuất nông,
lâm nghiệp và phát triển nông thôn. Trong sản xuất nông
39
nghiệp, GIS có thể sử dụng để giám sát mùa vụ cho từng cây
trồng. Việc dự báo có thể bằng cách xem xét khí hậu của vùng
hoặc bằng cách theo dõi sự sinh trưởng và phát triển cây trồng,
sẽ dự đoán được sự thành công của mùa vụ. GIS có thể giúp tìm
và thể hiện những thay đổi của cây trồng trong từng gia đoạn.
Ngoài ra GIS có thể ứng dụng trong quản lý bảo vệ thực vật,
giám sát cỏ dại ở các thời kỳ một cách chính xác.
Một số ứng dụng của GIS trong sản xuất nông nghiệp và phát
triển nông thôn:
Thổ nhưỡng: Xây dựng các bản đồ đất và đơn tính đất; Đặc
trưng hoá các lớp phủ thổ nhường.
Trồng trọt: Khả năng thích nghi các loại cây trồng; Sự thay
đổi của việc sử dụng đất; Xây dựng các đề xuất về sử dụng đất;
Khả năng bền vững của sản xuất nông nghiệp Nông - Lâm kết
hợp; Theo dõi mạng lưới khuyến nông; Khảo sát nghiên cứu
dịch - bệnh cây trồng (côn trùng và cỏ dại); Suy đoán hay nội
suy các ứng dụng kỹ thuật
Quy hoạch thuỷ văn và tưới tiêu: Xác định hệ thống tưới
tiêu; Lập thời biểu tưới nước; Tính toán sự xói mòn/ bồi lắng
trong hồ chứa nước; Nghiên cứu đánh giá ngập lũ.
Kinh tế nông nghiệp: Điều tra dân số / nông hộ; Thống kê;
Khảo sát kỹ thuật canh tác; Xu thế thị trường của cây trồng;
Nguồn nông sản hàng hoá.
Phân tích khí hậu: Hạn hán; Các yếu tố thời tiết; Thống kê
Mô hình hoá nông nghiệp: Ước lượng / tiên đoán năng suất
cây trồng
Chăn nuôi gia súc/gia cầm: Thống kê; Phân bố; Khảo sát và
theo dõi diễn biến, dự báo dịch bệnh.
40
5.4 Các ứng dụng trên điện thoại thông minh
Ngày nay, việc sử dụng điện thoại trong sản xuất nông
nghiệp trên toàn thế giới ngày một lan rộng, bởi nó mang lại rất
nhiều tiện lợi, hữu ích như tiết kiệm chi phí, thời gian, công sức
đồng thời cải thiện đáng kể năng suất, sản lượng nông nghiệp.
Những ứng dụng điện thoại di động không chỉ phân tích các yếu
tố đầu vào, dự báo thời tiết nông nghiệp, cung cấp kiến thức về
trồng trọt và chăn nuôi, mà còn có các dịch vụ công nghệ cao.
Tại Ấn Độ, điện thoại thông minh (smartphone) đang tạo nên
một cuộc cách mạng cho nền nông nghiệp nước này. Ngày càng
nhiều nông dân Ấn Độ sử dụng các ứng dụng trên smartphone
để biết được lượng nước cần tưới dựa trên dự báo mưa, giá cả
thực phẩm chính phủ, biện pháp phòng sâu bệnh, cách chăm sóc
và phòng bệnh cho gia súc, kết nối người mua và người bán địa
phương.
Trong khi đó tại Mỹ, số lượng nông dân sử dụng smartphone
đã tăng từ 10% (năm 2010) lên 40% năm 2011. Hiện số nông
dân sở hữu điện thoại thông minh ở nước này là 94%. Nhờ
những thông tin chính xác, nông dân đã tiết kiệm tới 50% lượng
nước tưới. Không chỉ có tiết kiệm nước, các ứng dụng phổ biến
được nông dân Mỹ sử dụng bao gồm: IveGot1 - ứng dụng cung
cấp thông tin về vị trí địa lý của khu vực, và phát hiện các loài
vật xâm phạm vào trang trại; Bigoven – sử dụng những thành
phần hiện có của nông dân để thiết lập công thức sản xuất,
Allergy Detective – phát hiện bệnh cho cây trồng; Nutrition
Menu – kiểm tra mức độ dinh dưỡng dựa trên những thức ăn
được nạp vào cơ thể; Field Guide – đăng tải ảnh và định vị GPS
về các loài vật có hại, Cattle Breeding Calculator – theo dõi quá
41
trình chăm sóc, thu hoạch của gia súc. Ngoài ra còn có các ứng
dụng cho phép nông dân vay vốn, tiết kiệm tiền và đổi tiền. Từ
đầu năm đến giờ, tổng giá trị các giao dịch thông qua các ứng
dụng này đã đạt 730 tỷ đô la.
Tại Việt Nam, việc sử dụng smartphone để điều khiển, kiểm
soát và thu thập dữ liệu của một nông trại còn chưa phổ biến
nhiều. Hầu hết mới chỉ dùng lại ở việc hẹn giờ tưới cây bằng
điện thoại. Tuy nhiên, Việt Nam có một vài mô hình đã áp dụng
thành công ứng dụng trên smartphone đạt hiệu quả rất cao, như
mô hình trồng nấm linh chi ở An Giang. Nhờ ứng dụng điện
thoại điều khiển từ xa để biết được nhiệt độ và độ ẩm của vườn,
trại nấm đã cho năng suất tăng hơn 30% so với phương pháp
thông thường. Thông qua phần mềm, người nông dân có thể biết
được độ ẩm và nhiệt độ trong vườn. Chỉ cần ra lệnh tưới trên
điện thoại, hệ thống phun sương sẽ bắt đầu tưới và tự động
dừng khi độ ẩm đã đạt ngưỡng quy định. Do vậy, điện thoại di
động đã giúp tiết kiệm được thời gian, công sức tưới hàng ngày
và đo đạc được chỉ số phát triển của cây trồng, vật nuôi.
5.5 Nhận dạng bằng tần số vô tuyến (RFID)
Hệ thống RFID ra đời giúp nhà nông tăng năng suất chất
lượng sản phẩm nông nghiệp. Radio Frenquency Identifycation
– RFID gồm: thẻ, bộ đọc thẻ, máy chủ, phần mềm lớp giữa
(middleware) và phần mềm ứng dụng. Loại thiết bị này cho
phép cây trồng “giao tiếp” với nông dân: giúp cho người nông
dân biết thông tin chúng đang thiếu và cần gì (nước, phân bón),
kiểm soát sâu bệnh cho cây RFID là công nghệ tự động nhận
dạng đối tượng bằng sóng vô tuyến, có khả năng lưu trữ và nhận
dữ liệu từ xa thông qua bộ phát tần số siêu nhỏ. Công nghệ này
42
cho phép theo dõi chặt chẽ nguồn gốc và quá trình phát triển
của gia súc, cây trồng. Khi được gắn lên nông sản, thẻ RFID
cung cấp thông tin giúp kiểm soát theo quá trình, từ sản xuất,
đóng gói, bảo quản, đến vận chuyển, Nhờ đó người nông dân
vừa giảm bớt tổn thất, vừa tạo dựng được niềm tin với người
mua.
Hệ thống truy nguyên nguồn gốc nông sản ứng dụng công
nghệ RFID và điện thoại di động Xây dựng hệ thống truy
nguyên nguồn gốc nông sản để định dạng một sản phẩm và lưu
trữ thông tin của sản phẩm đó từ quá trình sản xuất đến tiêu thụ
trên cơ sở ứng dụng công nghệ RFID và điện thoại di động. Hệ
thống bao gồm 3 thành phần: (i) cập nhật thông tin sản xuất sử
dụng điện thoại di động; (i) hệ thống phân phối sử dụng công
nghệ RFID và thẻ đọc; và (iii) thông tin cung cấp cho khách
hàng.
Đeo thẻ RFID cho bò.
Bảo vệ động vật tránh khỏi bệnh tật là một trách thức nghiêm
trọng mà các nước trên thế giới phải đối mặt, trong đó có Việt
Nam. Bảo vệ an toàn thực phẩm cũng là một sự kiện lớn liên
43
quan đến nền kinh tế quốc gia cũng như đời sống của nhân dân.
Nhờ vào các đặt tính kỹ thuật và sự tiện dụng của công nghệ,
cho phép ứng dụng rộng rãi trong trong việc theo dõi nguồn gốn
động vật. Từ những thành công và kinh nghiệm trên thế giới,
ứng dụng công nghệ RFID, trong việc quản lý động vật đang
được mở rộng.
Sản phẩm dành cho động vật là thẻ đeo tai và thiết bị RFID
nhận dạng thẻ, thiết bị được sử dụng để theo dõi và giám sát khi
chăn nuôi, lúc vận chuyển và giết mổ. Nếu bệnh dịch có xảy ra,
công nghệ RFID sẽ truy tìm nguồn gốc động vật để thực hiện
quản lý an ninh và nhanh chóng truy tìm sản phẩm (thịt). Và sẽ
ngắt các tuyến đường lay lan của bệnh tật, từ đó, có thể kiểm
soát bệnh dịch xảy ra và truyền nhiểm nhằm đảm bảo chất
lượng sản phẩm (thịt). Trong khi đó, RFID có thể nhận dạng ra
sự thực hiện minh bạch trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm (thịt).
Để bảo vệ an toàn vệ sinh thực phẩm, các nhà đầu tư có thể
sử dụng hệ thống này để theo động vật nhằm tránh lây lan bệnh
tật đồng thời từ đó duy trì nòi giống và theo dõi lịch sử của
chúng. Trong khi đó, hệ thống này cung cấp thời gian thực, cập
nhật thông tin chi tiết và đáng tin cậy cho động vật tự lúc mới
sinh ra cho đến khi thành phẩm.
RFID cho phép theo dõi liên tục toàn bộ môi trường chăn
nuôi. Người dùng được cảnh báo bằng điện thoại hoặc email
nếu có bất kỳ tình trạng nào nằm ngoài tham số đã cài sẵn. Một
số hệ thống có chức năng của một hệ thống giám sát tổng hợp
đối với lợn, gia súc, gà thịt và sản xuất sữa, hiện đã sẵn sàng
cho các mục đích thương mại. Ví dụ, từ năm 2009, Cục Thú y
44
Malaysia đã triển khai chương trình sử dụng RFID để theo dõi
80.000 gia súc trên toàn quốc. Mỗi gia súc được gắn thẻ RFID,
giúp xác định vị trí, nguồn gốc, các chỉ số sinh lý Theo dõi
bằng RFID, một mặt giúp nông dân điều chỉnh chế độ ăn uống
thích hợp cho gia súc, mặt khác có thể nhanh chóng kiểm soát
khi dịch bệnh bùng phát. Chương trình này đã góp phần nâng
cao khả năng cạnh tranh của nông sản Malaysia trên thị trường
quốc tế, đáp ứng được yêu cầu nghiêm ngặt từ những nước nhập
khẩu như Mỹ, châu Âu, Trung Đông. Tại Australia, một hệ
thống có tên Moocall giúp nông dân giám sát những con bò
đang chuẩn bị sinh con. Một cảm biến chạy bằng pin phát hiện
chuyển động của bò và gửi thông báo SMS. Pin có thời lượng
60 ngày, thiết bị sẽ gửi cảnh báo khi mức pin còn 15%. Một ứng
dụng khác là CattleWatch sử dụng công nghệ đám mây, các
cảm biến điện tử và nền tảng truyền thông tin để theo dõi từ xa
tình trạng sức khỏe và vị trí của gia súc. Người dùng có thể truy
cập dữ liệu về vị trí đàn, thời gian đi bộ, chăn thả, nghỉ ngơi,
tình trạng tiêu thụ nước, nhiệt độ và các dữ liệu sức khỏe khác
theo thời gian thực từ bất cứ đâu qua điện thoại thông minh. Hệ
thống được gắn ở cổ gia súc (vòng đai) hoặc gắn thẻ vào tai này
còn có thể phát sóng cảnh báo nếu phát hiện động vật ăn thịt
hoặc kẻ săn trộm.
5.6 Thương mại điện tử (Ecommerce)
Công nghệ thông tin giúp tăng khả năng tiếp cận thị trường
đầu vào cũng như đầu ra trong nông nghiệp. Chợ thương mại
điện tử là hướng đi mới giúp doanh nghiệp giới thiệu, quảng bá
hình ảnh, sản phẩm, tiềm năng hợp tác tới lượng khách hàng
lớn. Phương thức kinh doanh này hứa hẹn nâng cao sức cạnh
45
tranh của nông sản Việt chất lượng trong bối cảnh hội nhập kinh
tế quốc tế đang diễn ra sâu rộng trên phạm vi toàn cầu.
Các doanh nghiệp khi tham gia là thành viên, sẽ được thực
hiện một số giao dịch thương mại điện tử cơ bản như: Chào bán
sản phẩm, đặt hàng, trả lời đơn đặt hàng... Mỗi doanh nghiệp
được mở một trang web riêng hay gọi là gian hàng của doanh
nghiệp (showroom) trên sàn giao dịch. Trang web giúp doanh
nghiệp quảng bá, giới thiệu sản phẩm, dịch vụ doanh nghiệp thị
trường trong nước và nước ngoài. Mỗi doanh nghiệp có thể
được cấp một tài khoản truy cập vào chợ thương mại điện tử để
quản lý, cập nhật thông tin, sản phẩm, dịch vụ lên chợ. Chuyên
mục sản phẩm sẽ giới thiệu các sản phẩm của các doanh nghiệp,
nông dân theo từng nhóm khác nhau: giống cây trồng, giống vật
nuôi, thức ăn chăn nuôi, giống thủy sản. Người sử dụng có thể
giao tiếp trực tiếp với sản phẩm trong một nhóm, sàn giao dịch
sẽ xuất hiện gian hàng của từng doanh nghiệp với thông tin chi
tiết và sản phẩm đó. Người sử dụng có thể đặt mua hàng hoặc
liên hệ với doanh nghiệp đối với sản phẩm.
Cùng với kênh bán hàng truyền thống, kênh bán hàng trực
tuyến đang được phát triển mạnh tại Việt Nam. Không chỉ có ở
các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, thương mại dịch vụ,
thương mại điện tử đã len lỏi đến với đối tượng là nông dân sản
xuất nông nghiệp. Với sự phát triển của hệ thống Internet và
phổ cập tin học cơ sở trong phong trào xây dựng nông thôn mới,
bà con nông dân sẽ dễ dàng tiếp cận và trải nghiệm hình thức
này. Qua chợ thương mại điện tử, bà con nông dân sản xuất trở
thành những nhà cung cấp tiềm năng, bày bán sản phẩm, tìm
kiếm những mặt hàng chuyên dụng cho nông nghiệp, tìm kiếm
46
thông tin áp dụng vào sản xuất cũng như tìm kiếm đối tác để có
thể xuất khẩu hàng hóa.
Chợ thương mại rất có ý nghĩa đối với doanh nghiệp nông,
lâm, thủy sản Việt Nam trong hoạt động sản xuất, kinh doanh
cũng như góp phần thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm,
thủy sản. Nó sẽ tạo cơ hội để các doanh nghiệp nông, lâm, thủy
sản tăng cường trao đổi, tìm kiếm đối tác tiêu thụ sản phẩm, ký
kết hợp đồng với đối tác nước ngoài, đồng thời, nâng cao sức
cạnh tranh của doanh nghiệp, sản phẩm hàng hóa trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sâu rộng trên phạm vi toàn
cầu. Đặc biệt, khi các chợ thương mại điện tử uy tín trong và
ngoài nước kết nối với nhau, các doanh nghiệp sẽ nhanh chóng
tham gia vào phương thức kinh doanh đầy tiềm năng này và tiếp
cận khách hàng thực tế trong và ngoài nước. Đây được xem là
hướng đi mới và hữu ích nhằm giúp doanh nghiệp, người dân dễ
dàng tiếp cận những thông tin liên quan về thị trường, sản
phẩm, các quy định pháp lý, thiết lập và duy trì các mối liên hệ
với khách hàng và đối tác... giúp giảm bớt chi phí, thúc đẩy tiêu
thụ nông, lâm, thủy sản, sản phẩm thủ công mỹ nghệ, mua sắm
vật tư, thiết bị phục vụ nông nghiệp. Mặt khác, các giao dịch
của doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân qua chợ thương mại điện
tử sẽ giúp cho các nhà quản lý xây dựng chiến lược phát triển
ngành, dự báo thị trường. Đồng thời, giúp cho các doanh nghiệp
sản xuất nắm bắt được thị hiếu, thông tin thị trường và định
hướng sản xuất cho các doanh nghiệp và bà con nông dân.
Với mạng lưới phủ sóng rộng khắp, dễ sử dụng, đa chức
năng và giá rẻ, các thiết bị di động, đặc biệt là điện thoại đã giải
quyết được thách thức lớn nhất của nhà nông trong việc kết nối
với thị trường, thúc đẩy thương mại hóa các sản phẩm nông
47
nghiệp. Trước đây, nông dân hầu như không biết gì về giá cả thị
trường nên nông sản thường được bán với mức giá rất chênh
lệch ở những khu vực chỉ cách nhau vài cây số. Nhờ thông tin
cập nhật thường xuyên qua điện thoại di động, người nông dân
nay biết cách tiếp thị nông sản hiệu quả hơn, bán được nhiều
hơn với giá tốt hơn.
Đối với việc mua hàng trực tuyến các đầu vào và thiết bị
nông nghiệp bằng thương mại điện tử. Chợ thương mại điện tử
quy tụ các doanh nghiệp, những người sản xuất từ các ngành
hàng thuộc lĩnh vực nông nghiệp, với đầy đủ các nhóm sản
phẩm, được kết nối với các chợ thương mại điện tử nổi tiếng
trong và ngoài nước, các Website của các đơn vị trong ngành
nông nghiệp với nhiều chuyên mục: sản phẩm của các doanh
nghiệp; tin giao thương; doanh nghiệp; tìm kiếm sản phẩm; tin
giao thương doanh nghiệp; tìm kiếm nhanh; bản tin thương mại.
5.7 Áp dụng CNTT trong khuyến nông
Công nghệ thông tin là cầu nối giữa các nhà nghiên cứu nông
nghiệp, các tổ chức khuyển nông và nông dân, do đó thúc đẩy
sản xuất nông nghiệp. Tiến bộ mới trong công nghệ thông tin,
truyền thông và điện thoại di động cung cấp cho nông dân sản
xuất nhỏ nhiều thông tin và sản phẩm dịch vụ sản xuất nông
nghiệp một cách kịp thời và phù hợp. Đồng thời, công nghệ
thông tin giúp các cán bộ khuyến nông dễ dàng tiếp cận với
nông dân để phổ biến, chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật trong
nông nghiệp.
Viện lúa Quốc tế (IRRI) đã sử dụng cơ hội này để phát triển
các ứng dụng (Apps) trên máy tính cá nhân và điện thoại di
động Phần mềm Quản lý dinh dưỡng cho cây lúa, chuyển từ
48
hướng dẫn bón phân theo vùng chuyên biệt (SSNM) sang
hướng dẫn bón phân theo nhu cầu của từng nông hộ. Phiên bản
quốc gia về Phần mềm Quản lý dinh dưỡng cho cây lúa đã được
chạy thử nghiệm và phát hành tại Philippines, Indonesia và
Bangladesh. Những Apps riêng biệt không còn cần thiết cho
máy tính cá nhân và hệ điều hành riêng của điện thoại thế hệ
mới nữa. Thông qua việc sử dụng các tiến bộ mới trong lĩnh vực
CNTT gần đây, mỗi ứng dụng, phần mềm quản lý dinh dưỡng
sẽ hoạt động bình thường trên máy tính và điện thoại thế hệ mới
với hệ điều hành chính, bao gồm cả Android và iOS (Apple).
Phần mềm Quản lý dinh dưỡng được thiết kế cho cán bộ khuyến
nông trong hệ thống khuyến nông quốc gia và cho cả các tổ
chức tư nhân sử dụng. Cán bộ khuyến nông sử dụng các App
này để thu thập thông tin từ nông dân và sau đó cung cấp cho
nông dân bản hướng dẫn về bón phân cụ thể theo từng địa
phương, giống lúa, năng suất và các điều kiện canh tác của họ.
Phần mềm Quản lý dinh dưỡng được chia thành ba phần: (i)
Một 'giao diện” nhỏ được tải về máy tính hoặc điện thoại di
động của cán bộ khuyến nông để phỏng vấn nông dân; (ii) Một
'mô hình' tính toán và đưa ra bản hướng dẫn bón phân cho nông
dân, và (iii) Một “bản khuyến cáo” hướng dẫn bón phân cung
cấp cho nông dân bằng một bản in hoặc một tin nhắn (SMS).
Cán bộ khuyến nông thực hiện cuộc phỏng vấn với nông dân
khoảng 10 phút 'off-line' (không kết nối Internet hoặc điện
thoại). Sau phỏng vấn, các thông tin thu thập sẽ truyền qua
Internet về 'mô hình', nằm trên máy chủ của cơ sở dữ liệu. Bản
hướng dẫn sử dụng phân bón sẽ được truyền trở lại ngay trên
máy tính hoặc điện thoại thông minh của cán bộ khuyến nông.
Bản hướng dẫn này cũng có thể truyền trực tiếp cho nông dân
49
bằng tin nhắn SMS. Sử dụng ICT để tính toán và hướng dẫn bón
phân theo yêu cầu của từng nông hộ có thể nâng cao khả năng
khuyến nông và thúc đẩy ứng dụng các công nghệ mới. Việc mở
rộng ứng dụng khuyến cáo bón phân này cho nông dân đòi hỏi
cán bộ khuyến nông chuyên nghiệp phải tiếp xúc trực tiếp với
nông dân.
5.8 Thiết bị bay không người lái (Drone)
Thiết bị bay không người lái (drone) đang góp phần tạo nên
diện mạo mới cho việc áp dụng công nghệ cao trong nông
nghiệp. Drone có thể giúp từng bước cơ giới hóa nông nghiệp,
loại bỏ các chi phí sinh ra do lỗi của con người và tạo điều kiện
cho nông dân phản ứng nhanh với các mối đe dọa (như hạn hán
và sâu bệnh), giúp họ tối đa hóa thu nhập và lợi nhuận. Ngoài
tiết kiệm thời gian, drone còn giúp cải thiện năng suất cũng như
sản lượng thông qua các ứng dụng hỗ trợ từ tưới nước, kiểm tra
những phần canh tác có vấn đề, cho đến xác định vị trí vật nuôi.
Với giá thành ngày càng giảm, drone hứa hẹn sẽ tạo nên một
cuộc cách mạng mới trong nông nghiệp.
Drone nông nghiệp là hệ thống công nghệ cao, có thể quét tất
cả các góc của cánh đồng để đánh giá đất, theo dõi sức khỏe cây
trồng, bón phân, thậm chí theo dõi sản lượng, thời tiết và dự
toán; sau đó thu thập dữ liệu, phân tích nó cho hành động kịp
thời. Theo các chuyên gia, drone chính là thiết bị mới nhất bổ
sung vào danh sách những công nghệ hiện đại thuộc phạm vi
của ngành nông nghiệp chính xác - khái niệm về quản lý trang
trại hiện đại, sử dụng cảm biến để quét, thu thập dữ liệu từ cánh
đồng - vốn đã bao gồm GPS, hệ thống tự động và hình ảnh vệ
tinh
50
Thiết bị bay không người lái trong nông nghiệp áp dụng cho
canh tác nhằm giúp tăng sản lượng cây trồng và giám sát sự
tăng trưởng của cây trồng. Thông qua việc sử dụng các cảm
biến tiên tiến và khả năng chụp ảnh kỹ thuật số, nông dân có thể
sử dụng những máy bay không người lái này để giúp họ thu
thập hình ảnh phong phú hơn về các cánh đồng của mình.
Thông tin thu được từ các thiết bị như vậy có thể hữu ích trong
việc cải thiện sản lượng cây trồng và hiệu quả của trang trại.
Thiết bị bay không người lái trong nông nghiệp mang lại
nhiều lợi ích cho người nông dân và các nhà lai tạo giống. Công
nghệ Drone có thể cắt giảm các yêu cầu về lao động và giảm
các yêu cầu về nguồn lực (như nước tưới và thuốc trừ sâu).
Nông dân cũng có thể sử dụng máy bay không người lái để lấy
hình ảnh của các cánh đồng từ trên cao. Thông qua các hình ảnh
này, người nông dân có thể phân tích được các vấn đề về tưới
tiêu, sự biến đổi của đất, và dĩ nhiên là sâu bệnh và nấm. Ưu
điểm thứ hai của drone đó là nó có thể cung cấp các hình ảnh
dưới dạng hình ảnh đa phổ; những hình ảnh này được sử dụng
để hiển thị một tầm nhìn hồng ngoại cũng như một chế độ xem
quang phổ giúp phân tích khả năng tăng trưởng của cây trồng
đặc biệt, người nông dân có thể thấy sự khác biệt giữa cây trồng
khỏe mạnh và không lành mạnh. Sự khác biệt này không phải
lúc nào cũng có thể nhìn thấy bằng mắt thường, do đó có thể
giúp nông dân đánh giá sự tăng trưởng của cây trồng, cũng như
sản xuất cây trồng. Ngoài ra, drone có thể khảo sát mùa màng
cho nông dân theo định kỳ hàng tuần, hàng ngày hoặc thậm chí
hàng giờ. Người nông dân có thể sử dụng thông tin này để cho
thấy sự thay đổi của cây trồng theo thời gian để có những điều
chỉnh kịp thời về tưới tiêu và quản lý dịch hại. Do đó drone giúp
51
cải thiện công tác quản lý cây trồng và cải thiện sản lượng cây
trồng.
5.9 Tự động hóa trong ngành nông nghiệp công nghệ cao
Công nghệ thông tin tác động sâu sắc tới nền nông nghiệp
trên toàn thế giới, làm thay đổi phần lớn các yếu tố trong ngành
nông nghiệp ở mọi quốc gia. Dưới đây là những ứng dụng công
nghệ hiện đại nhất góp mặt trong sự thành công và phát triển
vượt trội của nền nông nghiệp nhiều quốc gia trong những năm
gần đây:
Máy cày, máy kéo không người lái
Với các phương tiện này, người nông dân có thể chỉ ngồi 1
chỗ điều khiển đồng thời nhiều loại máy và công cụ khác nhau
giúp giải quyết đồng thời khối lượng công việc lớn, thậm chí
tính chính xác của các loại máy này còn cao hơn so với loại
máy có người ngồi lái.
Các loại máy không người lái cũng giúp nâng cao tuổi nghề
của nông dân, khi về già họ vẫn có thể dễ dàng điều khiển máy
móc thay mình làm việc trên ruộng đồng.
Công nghệ tưới nhỏ giọt
Đây là một trong những phát minh mang tính đột phá của
Israel, giúp giải bài toán tưới tiêu trong điều kiện khô hạn, nên
nó đặc biệt quan trọng đối với các quốc gia có khí hậu khô
nóng. Theo đó, hệ thống dẫn tưới được tính toán kỹ lưỡng với
tốc độ chảy chậm, nhỏ giọt và cân bằng, giúp cây phát triển
nhanh và đồng đều. Một ví dụ điển hình như hệ thống tưới nhỏ
giọt mang tên Tipa sau khi áp dụng ở Senegal đã giúp cho các
nhà nông Senegal thu hoạch 3 vụ/năm thay vì 1 vụ như trước
đây, kể cả trên những vùng đất khô cằn nhất.
52
Nhờ công nghệ này, rất nhiều quốc gia đã gia tăng năng suất
hay phát triển được nhiều loại hình kinh tế nông nghiệp hiệu
quả hơn. Hệ thống tưới nhỏ giọt hiện đã được phổ cập nhanh
chóng tại nhiều nước trên thế giới. Các mẫu mới nhất còn có
khả năng tự làm sạch, duy trì tốc độ tưới không phụ thuộc vào
chất lượng nước và áp suất, khí hậu
VI. Kinh nghiệm áp dụng CNTT vào nông nghiệp của một
số nước
Mô hình áp dụng công nghệ thông tin vào nông nghiệp được
nhắc nhiều trên thế giới, nhất là ở Isarel và Nhật Bản - những
quốc gia đã làm nên điều kỳ diệu về nền nông nghiệp xanh công
nghệ cao. Nhờ ứng dụng công nghệ thông tin trong nông nghiệp
mà Isarel từ nước có điều kiện đất đai khô hạn, khí hậu khắc
nghiệt trở thành một quốc gia có nền nông nghiệp tiên tiến nhất
thế giới. Trong khi đó, Nhật Bản cũng nhờ áp dụng công nghệ
thông tin vào ngành nông nghiệp mà khẳng định vai trò của một
cường quốc về nông nghiệp - bên cạnh thế mạnh công nghiệp
và điện tử.
6.1 Israel
Có diện tích rất nhỏ, trên 20.000km2, nhưng Israel lại được
mệnh danh là “thung lũng Silicon” của thế giới trong lĩnh vực
nông nghiệp và công nghệ nước. Chỉ với 2,5% dân số làm NN
nhưng Israel là một trong những nước xuất khẩu nông sản hàng
đầu thế giới, khoảng trên 3 tỷ USD. Chính công nghệ thông tin
đã giúp một đất nước vô cùng khó khăn về điều kiện sản xuất
nông nghiệp như Israel có thể tự túc nông sản và xuất khẩu. Nếu
như năm 1955, mỗi nông dân Israel nuôi được trung bình 15
53
người thì đến nay mỗi nông dân có thể nuôi được hơn 150
người khác.
Tính riêng trong lĩnh vực trồng trọt, quốc gia có 2/3 diện tích
lãnh thổ là sa mạc này đã có năng suất tăng vượt trội nhờ ứng
dụng công nghệ tưới nhỏ giọt. Sau khi đã nạp đủ thông tin về độ
ẩm, không khí, đất đai, tuổi và nhu cầu tăng trưởng, bằng phần
mềm điều khiển tự động, chất dinh dưỡng theo các ống dẫn
nước tưới nhỏ giọt cho từng gốc cây, gốc rau. Hệ thống này tự
động đóng mở van khi độ ẩm của rễ cây đạt tới mức nhất định
thông qua các cảm biến điện tử. Hầu như toàn bộ các khâu từ
canh tác đến thu hoạch, bảo quản, tiêu thụ hiện nay ở Israel đều
được áp dụng công nghệ thông tin. Người nông dân có thể tự
quản lý toàn bộ các khâu sản xuất với diện tích canh tác 5 - 6
nghìn hécta mà không còn phải làm việc ngoài đồng ruộng.
Theo đó, chỉ cần một chiếc máy tính bảng hay điện thoại thông
minh có kết nối mạng, các thiết bị cảm ứng và phần mềm điều
khiển tự động từ xa sẽ giúp nông dân biết vườn cây nào cần bón
phân gì, số lượng bao nhiêu, diện tích nào cần tưới nước, tưới
bao nhiêu là vừa. Căn cứ vào các dữ liệu đó, máy tính sẽ cho
nông dân biết cần phải điều chỉnh các chỉ tiêu nào và mọi hoạt
động đều được điều khiển thông qua các thiết bị thông minh.
Nhờ áp dụng công nghệ thông tin vào sản xuất nông nghiệp,
đến nay, vùng sa mạc Arava khô cằn nhất Israel với lượng mưa
chỉ 20 mm/năm đã trở thành vùng sản xuất rau quả hết sức trù
phú. Một hecta đất có thể cho năng suất hơn 3 triệu bông hồng,
hay hơn 500 tấn cà chua mỗi vụ; mỗi năm, một con bò của
Israel cho tới 11 tấn sữa. Chỉ với 2,5% dân số làm nông nghiệp,
Israel không những bảo đảm đủ nhu cầu lương thực mà còn xuất
khẩu tới 3 tỷ USD nông sản mỗi năm.
54
6.2 Nhật Bản
Với lợi thế phát triển về công nghiệp điện tử, nền nông
nghiệp của Nhật Bản cũng được hỗ trợ mạnh mẽ bằng những
sản phẩm công nghệ cao. Cho tới nay, Nhật Bản đã áp dụng
công nghệ thông tin trong rất nhiều công đoạn sản xuất nông
nghiệp. Đơn cử như Hệ thống định vị toàn cầu, lắp đặt các thiết
bị GPS để tiếp nhận thông tin truyền qua vệ tinh của các máy
kéo, máy liên hợp và máy móc thiết bị nông nghiệp khác, đã
giúp hoạt động canh tác nông nghiệp được vận hành chính xác.
Mạng lưới cảm biến được sử dụng để đo nhiệt độ, độ ẩm, ánh
sáng, carbon dioxide hay những yếu tố cần thiết giúp phát triển
tốt nhất một số cây trồng phù hợp với thổ nhưỡng và khí hậu.
Mạng lưới này đi kèm với những điều chỉnh tự động trong hệ
thống thông gió, che chắn ánh sáng và các yếu tố khác giúp duy
trì mức độ carbon dioxide phù hợp nhất để phát triển và hỗ trợ
môi trường tối ưu cho từng loại cây trồng. Bên cạnh đó, trợ thủ
đắc nhất đối với người nông dân ở quốc gia này là Robot Nông
nghiệp - công nghệ tiên tiến được sử dụng để tự động hóa sản
xuất. Không chỉ tự động lựa chọn và thu hoạch nông sản, robot
còn làm thay những công việc khác như tiếp xúc với thuốc trừ
sâu hay hóa chất.
Nhằm giúp người nông dân có thể tiếp thị sản phẩm một
cách chủ động, Nhật Bản cũng xây dựng hệ thống điều hành
thương mại nông sản điện tử giúp cho việc phân phối nông sản,
giám sát và phân tích thị trường được nhanh chóng, chính xác
và khoa học.
Việc ứng dụng CNTT là điều kiện tiên quyết để quản lý hiệu
quả tất cả các quy trình, nó chính là chìa khóa cho chính phủ
55
trong việc nắm bắt tình hình NN của đất nước, xác định được
bao nhiêu trong số cây trồng đó là cần thiết, sản lượng tại các
khu vực và hợp tác xã NN như thế nào và sau đó mới quyết định
loại và khối lượng tối ưu để phát triển.
6.3 Urugoay
Công nghệ thông tin đang tạo điều kiện cho việc trao đổi
thông tin giữa nông dân và cơ quan quản lý, cũng như cho phép
áp dụng các mô hình thực chứng, sử dụng nhiều số liệu trong
quản lý đất đai và sản xuất nông nghiệp bền vững tại Urugoay.
Nổi tiếng với hệ thống truy xuất nguồn gốc quốc gia về chăn
nuôi, Urugoay hiện đang đưa vào sử dụng đại trà những hệ
thống dữ liệu, truy xuất nguồn gốc để hỗ trợ thâm canh bền
vững và nâng cao sức chống chịu của sản xuất nông nghiệp trên
toàn quốc. Một trong những sáng kiến đáng kể về sử dụng công
nghệ thông tin là việc thiết lập hệ thống thông tin, hỗ trợ ra
quyết định trong nông nghiệp có tên gọi là SNIA (viết tắt tiếng
Tây Ban Nha). Với ý tưởng thai nghén từ sau giai đoạn thời tiết
khắc nghiệt 2008-2009, SNIA ban đầu nằm trong hệ thống cảnh
bảo sớm và cũng được sử dụng như một công cụ lập kế hoạch
cho nông dân. Hệ thống dữ liệu này được khởi động năm 2014
và thực hiện thu thập số liệu về khí hậu, thổ nhưỡng, và mùa vụ.
SNIA dựa trên và cũng hỗ trợ trao đổi thông tin hai chiều giữa
hệ thống và nông dân.Một mặt, phần lớn dữ liệu của SNIA được
thu thập từ nông dân. Chẳng hạn như từ năm 2013, những nông
hộ có trên 100 ha đất buộc phải khai báo kế hoạch sử dụng,
quản lý đất hàng năm. Mặt khác, cơ sở dữ liệu của hệ thống
được tập hợp từ nhiều nguồn dữ liệu, kể cả nguồn viễn thám, đã
tạo cơ sở cho một loạt các dịch vụ thông tin, tư vấn công ích
56
cũng như các công cụ hỗ trợ ra quyết định, nhằm hỗ trợ nông
dân đưa ra các lựa chọn về sử dụng đất, canh tác, đồng thời để
tiếp cận thị trường thuận lợi hơn. Chẳng hạn, một chỉ số mới
được xây dựng gần đây sẽ sử dụng dữ liệu của SNIA để tính
toán ảnh hưởng của các hiện tượng thời tiết đối với các biến
động trong sản xuất, trong đó sử dụng dữ liệu về kế hoạch làm
đất kết hợp với số liệu thời gian thực về thời tiết và các số liệu
quốc gia hiện có khác. Chỉ số này được sử dụng để hỗ trợ các
quyết định ở cả cấp chính sách và hộ nông dân. Toàn bộ hệ
thống này, từ khâu thu thập đến sử dụng số liệu, đều phụ thuộc
rất nhiều vào công nghệ thông tin. Chẳng hạn, nông dân sẽ gửi
toàn bộ số liệu theo đường điện tử qua một hình thức giao diện
trực tuyến. Các kế hoạch làm đất của nông dân phải được chứng
nhận bởi các chuyên gia có chứng chỉ và được thẩm tra dựa trên
mô hình mô phỏng về tình trạng xói lở đất. Đến khi thực hiện,
các kế hoạch này lại được giám sát bằng hình ảnh vệ tinh. Các
cán bộ khuyến nông được đào tạo để trợ giúp nông dân sẽ soạn
thảo, thực hiện các kế hoạch này cũng được tập huấn theo cả
hình thức tập trung và từ xa.Các yếu tố thể chế tuy có thể sẽ là
yếu tố tiên quyết để bảo đảm thành công của hệ thống về lâu về
dài nhưng ứng dụng ICT vẫn là nền tảng của kiến trúc hệ thống
và khả năng nhân rộng của nó.
6.4 Thổ Nhĩ Kỳ
Thông qua việc cung cấp những thông tin khí tượng phù hợp,
kịp thời và đúng yêu cầu cho nông dân, chính quyền một tỉnh
của Thổ Nhĩ Kỳ đã giúp nông dân giảm mạnh lượng sử dụng
thuốc bảo vệ thực vật tại các vườn cây ăn quả. Hóa chất bảo vệ
thực vật dùng trong nông nghiệp có thể là một yếu tố đáng kể
góp phần gây ô nhiễm nguồn nước không tập trung. Trong khi
57
đó, các vườn cây ăn quả thường rất dễ bị sâu bệnh với thời điểm
sâu bệnh bùng phát và kết thúc lại hết sức nhạy cảm với các
hiện tượng thời tiết. Một khó khăn nữa là chênh lệch về độ ẩm,
lượng mưa, nhiệt độ và các yếu tố liên quan khác giữa các nông
trại (liên quan đến sâu bệnh) lại khá lớn, vì thế mà các bản tin
dự báo thời tiết của trung ương thường không ăn nhập với điều
kiện thực của từng nông trại để có thể giúp ích cho nông dân
trong phòng chống sâu bệnh. Ngoài ra, dự báo thời tiết của
trung ương được đưa ra dựa trên số liệu thu thập ở những vùng
nóng ấm, thành thị. Thời điểm dự báo thời tiết của trung ương
cũng có thể quá trễ để nông dân kịp có biện pháp phòng ngừa.
Đây là thực trạng diễn ra tại tỉnh Kastamonu, Thổ Nhĩ Kỳ, cho
đến khi chính quyền tỉnh thiết lập được một hệ thống dự báo khí
tượng thủy văn của địa phương có khả năng đáp ứng tốt hơn
nhu cầu của nông dân. Để thu thập những dữ liệu phù hợp hơn,
tỉnh đã lập một số trạm quan trắc thời tiết nông thôn cũng như
khá nhiều cánh đồng tham chiếu để thực hiện đo đạc tình hình
thời tiết, quan trắc chu kỳ sâu bệnh tại đó. Sau khi có những số
liệu này, trạm đã bắt đầu đưa ra được những thông tin dự báo
thời tiết có độ tin cậy cao hơn và cũng phù hợp hơn. Thêm vào
đó, trạm còn gửi thông báo hàng ngày đến cho nông dân qua tin
nhắn SMS để người dân kịp có biện pháp phòng ngừa. Trong
vòng hai năm thực hiện chương trình, lượng hóa chất bảo vệ
thực vật sử dụng đã giảm 50% mỗi năm, qua đó vừa tiết kiệm
chi phí mua hóa chất cho nông dân vừa tránh để hóa chất nhiễm
vào đất và phân rã.
58
VII. Kết luận
Công nghệ thông tin ngày càng được sử dụng để giúp các
nhà quản lý đưa ra quyết định tốt hơn, tuy nhiên họ phải đối mặt
với thay đổi liên tục các nguồn thông tin cần được xử lý. Như
vậy, hệ thống thông tin trong tương lai cho các mục đích nghiên
cứu sẽ khác nhiều so với hiện tại vì những thay đổi này. Việc
tích hợp công nghệ thông tin với nông nghiệp sẽ giúp điều
chỉnh nền kinh tế tổng thể. Các công nghệ thông tin khác nhau
như hệ thống hỗ trợ quyết định chuyên gia trong hệ thống và
viễn thám đã mang lại cuộc cách mạng trong nông nghiệp thế
giới.
Đóng góp cho những thành tựu của ngành Nông nghiệp và
PTNT, không thể không kể đến sự phát triển và ứng dụng công
nghệ thông tin - truyền thông trong Ngành đã giúp nâng cao
hiệu quả quản lý điều hành của Bộ, giúp cho các đơn vị trong
Ngành phát huy được hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nhiều ứng
dụng công nghệ thông tin đã được triển khai như: Hệ thống
mạng LAN, WAN của Bộ và các đơn vị, Cổng thông tin điện tử,
các website chuyên ngành, các dịch vụ hành chính công trên
mạng, các ứng dụng trực tuyến, hệ thống họp truyền hình, giao
lưu trực tuyến giữa Bộ trưởng với người dân và doanh nghiệp,
... và nhiều ứng dụng công nghệ thông tin tại các Sở Nông
nghiệp và PTNT. Vai trò của công nghệ thông tin đã thể hiện
một cách rõ rệt, giúp tăng cường công tác thông tin thông suốt
và kịp thời, cho phép tiếp cận với nguồn thông tin trong nước và
quốc tế dễ dàng, giúp nâng cao khả năng nghiên cứu, phân tích
và dự báo trong Ngành, cải thiện hiệu quả làm việc của cán bộ,
giúp vận hành nhanh gọn trơn tru bộ máy quản lý nhà nước.
59
Ngoài ra, công nghệ thông tin giúp cắt giảm chi phí hành chính,
giảm công lao động và giúp nâng cao hiệu quả làm việc giữa
người dân và các cơ quan quản lý nhà nước và khả năng phối
hợp giữa các cơ quan trong và ngoài Ngành.
Để nền nông nghiệp được phát triển bền vững trong thời kỳ
kinh tế hội nhập, một trong những mục tiêu quan trọng là cần
đầu tư nâng cao trình độ tiếp nhận khoa học kỹ thuật, thay đổi
tư duy canh tác cho người nông dân. Việc đưa ứng dụng công
nghệ thông tin vào phục vụ sản xuất nông nghiệp là một trong
những việc cần đầu tư, xúc tiến và được nông dân hưởng ứng.
Tuy nhiên, thực tế việc chuyển giao công nghệ cho nông dân
vẫn còn nhiều khó khăn, do phần lớn nông dân ở vùng sâu,
vùng xa, khả năng tiếp cận tri thức còn hạn chế nên việc tiếp
nhận các ứng dụng từ công nghệ thông tin vào thực tiễn sản
xuất nông nghiệp vẫn còn khá mới mẽ. Việc tự trang bị máy
tính để nông dân tự nghiên cứu phục vụ sản xuất vẫn còn nhiều
hạn chế.
Công nghệ thông tin đang mở rộng nhanh chóng và chạm
vào hầu hết các lĩnh vực hoạt động của con người nói chung và
ngành nông nghiệp nói riêng. Do đó, điều cần thiết là nông dân
có thể tham gia vào việc tạo ra các trang web cho các trang trại
của họ. Các trường đại học nông nghiệp phải chuẩn bị không
chỉ học sinh sử dụng mới công nghệ thông tin, mà còn phải giúp
nông dân trong sử dụng tốt hơn các trang web bằng các phương
tiện khác nhau.
Th.S Vũ Duy Linh, Th.S Nguyễn Hữu Tuyên
60
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Báo cáo kết quả khảo sát xây dựng kiến trúc Chính phủ điện
tử của Bộ Nông nghiệp và PTNT
FAO, 2015, Success stories on information and
communication technologies for agriculture and rural
development,
FAO, 2015, Information and communication technologies
for sustainable agriculture: Indicators from Asia and the Pacific,
Võ Quang Vinh, Công nghệ thông tin trong Nông nghiệp,
Hội thảo khoa học CNTT với biến đổi khí hậu
WorldBank, ICT in Agriculture (Updated Edition) :
Connecting Smallholders to Knowledge, Networks, and
Institutions, 2015,
https://openknowledge.worldbank.org/handle/10986/27526
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ld_12_2017_452_2207585.pdf