Tài liệu Vai trò của can thiệp nội mạch trong điều trị chảy máu tiêu hóa: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 133
VAI TRÒ CỦA CAN THIỆP NỘI MẠCH
TRONG ĐIỀU TRỊ CHẢY MÁU TIÊU HÓA
Đặng Quốc Việt*, Trần Công Duy Long*, Võ Tấn Đức**, Nguyễn Hoàng Bắc*, Nguyễn Văn Hải*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Chảy máu tiêu hóa là một cấp cứu nguy hiểm. Nội soi tiêu hóa có thể cầm máu trong hầu hết
các trường hợp. Tuy nhiên vẫn có những trường hợp nội soi thất bại hoặc vị trí khó can thiệp. Can thiệp nội
mạch đóng vai trò là một phương pháp điều trị xâm lấn tối thiểu có hiệu quả trong các trường hợp này.
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả các trường hợp được chỉ định can thiệp nội mạch điều trị chảy máu tiêu hóa, tỉ
lệ thành công, tai biến, biến chứng của kỹ thuật này.
Phương pháp: Báo cáo hàng loạt ca.
Kết quả: Từ tháng01/2017 đến tháng 12/2018, có 26 lượt can thiệp nội mạch trên 23 bệnh nhân được thực
hiện, trong đó chảy máu tiêu hóa trên là 12 trường hợp, chảy máu tiêu hóa dưới 14 trường hợp. Có 20 trường
hợp ...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 219 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của can thiệp nội mạch trong điều trị chảy máu tiêu hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 133
VAI TRÒ CỦA CAN THIỆP NỘI MẠCH
TRONG ĐIỀU TRỊ CHẢY MÁU TIÊU HÓA
Đặng Quốc Việt*, Trần Công Duy Long*, Võ Tấn Đức**, Nguyễn Hoàng Bắc*, Nguyễn Văn Hải*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Chảy máu tiêu hóa là một cấp cứu nguy hiểm. Nội soi tiêu hóa có thể cầm máu trong hầu hết
các trường hợp. Tuy nhiên vẫn có những trường hợp nội soi thất bại hoặc vị trí khó can thiệp. Can thiệp nội
mạch đóng vai trò là một phương pháp điều trị xâm lấn tối thiểu có hiệu quả trong các trường hợp này.
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả các trường hợp được chỉ định can thiệp nội mạch điều trị chảy máu tiêu hóa, tỉ
lệ thành công, tai biến, biến chứng của kỹ thuật này.
Phương pháp: Báo cáo hàng loạt ca.
Kết quả: Từ tháng01/2017 đến tháng 12/2018, có 26 lượt can thiệp nội mạch trên 23 bệnh nhân được thực
hiện, trong đó chảy máu tiêu hóa trên là 12 trường hợp, chảy máu tiêu hóa dưới 14 trường hợp. Có 20 trường
hợp phát hiện thoát mạch hay bất thường mạch máu trên hình chụp mạch máu. Tỉ lệ thành công về kỹ thuật là
95% (19/20 trường hợp can thiệp), thành công cầm máu là 89,5 % (17/19 trường hợp, có 1 trường hợp can thiệp
2 lần). Tỉ lệ tai biến biến chứng là 0%.
Kết luận: Can thiệp nội mạch trong điều trị chảy máu tiêu hóa là một kỹ thuật hiệu quả với tỉ lệ thành công
cao và an toàn với tỉ lệ tai biến, biến chứng rất thấp.
Từ khóa: chảy máu tiêu hóa, can thiệp nội mạch
ABSTRACT
THE ROLE OF ENDOVASCULAR INTERVETION FOR GASTROINTESTINAL
BLEEDINGTREATMENT
Dang Quoc Viet, Tran Cong Duy Long, Vo Tan Duc, Nguyen Hoang Bac, Nguyen Van Hai
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 1- 2019: 133-138
Background: Gastrointestinal bleeding is a dangerous emergency. Endoscopic procedures can control most
of these cases. Howeverm there are still cases that endoscopy cannot handle due to rebleeding or challenging
bleeding site. Endovascular invervention - Transcatheter arterial embolization (TAE) is a minimally invasive
procedure that is effective for these difficulties.
Objects: Describing all gastrointestinal bleeding cases, success rate and morbidity rate of TAE for these cases.
Method: Case series report.
Results: From 1/2017 to 12/2018, TAE were indicated for 23 gastrointestinal bleeding patients, including
12 casee of upper GI bleeding, 14 cases of lower GI bleeding. There were 20 cases of active bleedings or vascular
dysplasia detected on arteriogram. Technical success rate was 95% (19/20) while bleeding controlling success rate
was 89.5% (17/19, 1 case had 2 interventions). Procedure-related morbidity rate was 0%.
Conclusion: Endovascular intervention for GI bleeding is an effective technique with high success rate and
very low procedure-related morbidity rate.
Keyword: gastrointestinal bleeding, transcatheter arterial embolization
*BM Ngoại, Khoa Y, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh – BV Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
**Bộ Môn Chẩn Đoán Hình Ảnh, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc BS. Đặng Quốc Việt ĐT: 0903010186 Email: bsvietdang@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 134
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chảy máu tiêu hóa (không liên quan tăng áp
lực tĩnh mạch cửa) luôn là một cấp cứu Nội -
Ngoại khoa nguy hiểm, đe dọa tính mạng bệnh
nhân. Với sự phát triển của nội soi tiêu hóa,
phần lớn các thương tổn chảy máu có thể được
điều trị tốt. Dù vậy, vẫn có một tỉ lệ nhỏ chảy
máu lại hoặc thương tổn chảy máu ở vị trí khó
tiếp cận qua nội soi (chảy máu từ ruột non), có
thể cần phải can thiệp phẫu thuật cấp cứu. Tuy
nhiên, tỉ lệ tử vong sau phẫu thuật cấp cứu khá
cao, từ 10 - 30%(2,4).
Mặc dù kỹ thuật can thiệp nội mạch để cầm
máu được lần đầu tiên mô tả năm 1972(14), nhưng
gần đây, kỹ thuật này mới được phát triển rộng
rãi, có thể áp dụng cho những bệnh nhân nặng,
không có khả năng trải qua phẫu thuật.
Bên cạnh đó, có nhiều nghiên cứu chứng
minh vai trò của can thiệp nội mạch so với phẫu
thuật trong điều trị chảy máu tiêu hóa thất bại
với nội soi cầm máu, cho thấy can thiệp nội
mạch có những điểm vượt trội hơn và mặt xâm
lấn tối thiểu, nhất là trên bệnh nhân có tổng
trạng nặng(1,3,5).
Kỹ thuật cầm máu qua can thiệp nội mạch
đã được ứng dụng rất nhiều trong các tình
huống chảy máu của đường tiêu hóa
trên(8,9,10,16) và tiêu hóa dưới(11,15,17), kể cả trong
chảy máu tiêu hóa dưới từ túi thừa(6). Tuy
nhiên, biến chứng thiếu máu nuôi ruột vẫn còn
là một vấn đề tranh cãi(12).
Với sự phát triển của chụp cắt lớp vi tính,
chúng ta có thể xác định được tương đối rõ ràng
vị trí chảy máu trước thủ thuật, nhất là ở những
vị trí không thế phát hiện qua nội soi tiêu hóa
thông thường, đặc biệt là ruột non cũng như dạ
dày và đại tràng đang chứa nhiều máu, hạn chế
quan sát. Điều này giúp cho việc tiếp cận tổn
thương chảy máu qua can thiệp nội mạch dễ
dàng hơn rất nhiều.
Vì vậy, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu
Vai trò của can thiệp nội mạch trong điều trị
chảy máu tiêu hóa để khảo sát hiệu quả, độ an
toàn của phương pháp này, với ba mục tiêu sau:
Mô tả các tình huống chảy máu tiêu hóa cần
can thiệp nội mạch trong nghiên cứu.
Xác định tỉ lệ thành công (kỹ thuật thành
công và chảy máu thành công) của phương
pháp tắc mạch cầm máu trong điều trị chảy máu
tiêu hóa.
Xác định tỉ lệ tai biến, biến chứng của
phương pháp tắc mạch cầm máu trong điều trị
chảy máu tiêu hóa.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Từ tháng 01/2017 đến hết tháng 12/2018, tại
Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM, chúng tôi đã
thực hiện 26 lượt chụp mạch máu trên 23 bệnh
nhân chảy máu tiêu hóa được chỉ định can thiệp
nội mạch.
Các định nghĩa
Kỹ thuật thành công
Khi thuật hiện thủ thuật thành công và
không còn hình ảnh thoát mạch (chảy máu)
hoặc dị dạng mạch máu trên chụp mạch máu
kiểm tra.
Cầm máu thành công
Sau khi thực hiện thủ thuật thành công, bệnh
nhân không còn dấu hiệu mất máu trên lâm
sàng và cận lâm sàng.
Thiết kế nghiên cứu
Báo cáo hàng loạt ca.
Tình toán số liệu bằng phần mềm SPSS 20.0.
Kỹ thuật thực hiện
Các dụng cụ chính
Kim chọc động mạch, guidewire, sheath 5F,
Rosch-Hepatic catheter (RH catheter) 4F hoặc 5F,
micro-catheter 2.0-2.7F, các vật liệu tắc mạch
(coil, keo, lipiodol ).
Thao tác thực hiện
Chọc động mạch đùi phải (đôi khi đùi trái),
đặt sheath 5F.
Dùng RH catheter, chọn lọc động mạch mạc
treo tràng trên (Superior Mesenteric Artery:
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 135
SMA) và/hoặc động mạch thân tạng (Celiac
Trunk: CT), tùy theo vị trí thương tổn chảy máu
dự đoán từ trước qua nội soi hoặc CT scan, chụp
angiogram để xác định vị trí thoát mạch.
Dùng micro-guidewire và micro-catheter
chọn lọc nhánh lớn cấp máu cho vùng thoát
mạch, có thể chụp lại angiogram để xác định lại.
Chọn lọc càng sâu càng tốt nhánh cấp máu
cho vùng thoát mạch, dùng coil hoặc keo để tắc
mạch máu này.
Chụp angiogram lại kiểm tra.
Hình 1. Chảy máu tiêu hóa từ tá tràng (từ động mạch vị tá tràng)trước và sau tắc mạch
Hình 2. Chảy máu tiêu hóa từ ruột non (từ nhánh của động mạch hồi đại tràng) trước và sau tắc mạch
Hình 3. Chảy máu tiêu hóa từ đại tràng góc gan (từ nhánh của động mạch đại tràng phải) trước và sau tắc mạch
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 136
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ tháng 01/2017 đến hết tháng 12/2018,
chúng tôi đã thực hiện 26 lượt chụp mạch máu
trên 23 bệnh nhân chảy máu tiêu hóa được chỉ
định can thiệp nội mạch. Trong đó, có 6 lượt
chụp mạch máu trên 5 bệnh nhân, không phát
hiện vị trí thoát mạch (vị trí chảy máu) và 20 lượt
chụp và làm tắc mạch cầm máu.
Đặc điểm dân số mẫu
Tỉ lệ nam: nữ là1,6:1 (14:9).
Tuổi trung vị là 69 tuổi (27 - 90 tuổi).
Các tình huống chảy máu tiêu hóa được chỉ
định can thiệp nội mạch
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 26 lượt
chỉ định chụp mạch máu chẩn đoán và điều trị
trên 23 bệnh nhân. Ngoại trừ 7 trường hợp
được chẩn đoán là chảy máu từ ruột non, các
trường hợp chảy máu tiêu hóa trên và từ đại
tràng đề đã được nội soi cầm máu 1 hoặc 2 lần
nhưng thất bại.
Chảy máu tiêu hóa trên: 12 trường hợp
(46,2%), do các nguyên nhâu sau
Loét dạ dày - tá tràng: 8 trường hợp (2 loét
dạ dày và 6 loét tá tràng), trong đó có 1 trường
hợp loét dạ dày sau phẫu thuật nối mật-ruột, nối
vị-tràng (không phải chảy máu miệng nối).
U tá tràng xâm lấn túi mật: 1 trường hợp.
U đầu tụy xâm lấn tá tràng: 1 trường hợp.
Dị dạng mạch máu dạ dày: 1 trường hợp.
Phình động mạch vị tá tràng sau phẫu thuật
nối nang tụy-hỗng tràng: 1 trường hợp.
Chảy máu tiêu hóa dưới từ ruột non: 7
trường hợp (26,9%), trong đó
6 trường hợp không phát hiện thoát mạch (5
bệnh nhân).
1 trường hợp phát hiện thoát mạch, có thực
hiện cầm máu.
Chảy máu tiêu hóa dưới từ đại-trực tràng: 7
trường hợp (26,9%), do các nguyên nhân sau:
Túi thừa đại tràng hoặc hemangioma: 3
trường hợp trong đó có 1 trường hợp phát hiện
thoát mạch nhưng can thiệp thất bại.
Sau cắt polyp đại tràng: 1 trường hợp.
U tử cung xâm lấn trực tràng: 2 lần chụp
mạch máu và làm tắc mạch trên 1 bệnh nhân.
Loét trực tràng nghĩ do dị dạng mạch máu
trực tràng: 1 trường hợp.
Hiệu quả của can thiệp nội mạch trong điều
trị chảy máu tiêu hóa
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 20
trường hợp chụp mạch máu phát hiện có thoát
mạch hoặc có vị trí nghi ngờ chảy máu (dị dạng
mạch máu). Trong đó, có 1 trường hợp có hình
ảnh thoát mạch trên angiogram (từ nhánh phải
của động mạch đại tràng giữa) nhưng can thiệp
cầm máu thất bại. Như vậy, tỉ lệ thành công của
kỹ thuật là 95% (19/20).
Trong 19 trường hợp có can thiệp tắc mạch
để cầm máu, tỷ lệ cầm máu thành công chung
sau 1 lần tắc mạch là 84,2% (16/19 trường hợp).
Ba trường hợp thất bại là:
U tử cung xâm lấn trực tràng: bệnh nhân
này được can thiệp tắc mạch lần 2 và cầm máu
thành công.
U đầu tụy xâm lấn tá tràng: bệnh nhân này
có dấu hiệu chảy máu lại sau khi đã cầm máu
(tiêu phân vàng, thông dạ dày không ra máu),
đáp ứng điều trị nội khoa.
Loét trực tràng nghĩ do dị dạng mạch máu
trực tràng: bệnh nhân này đi tiêu ra máu tái phát
sau khi đã cầm máu được 1 tuần sau can thiệp.
Như vậy, tỉ lệ thành công sau 2 lần can thiệp
nội mạch là 89,5% (17/19 trường hợp).
Tỉ lệ thành công theo vị trí chảy máu tiêu hóa:
Chảy máu tiêu hóa trên: 91,7% (11/12), trong
đó: 100% (10/10) cho loét dạ dày tá tràng và dị
dạng mạch máu.
Chảy máu tiêu hóa từ ruột non: 1 trường
hợp phát hiện thoát mạch trên angiogram và
được can thiệp tắc mạch thành công.
Chảy máu tiêu hóa dưới từ đại tràng: sau 1
lần can thiệp là 66,7% (4/6) và sau 2 lần can thiệp
là 83,3% (5/6).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 137
Độ an toàn của can thiệp nội mạch trong điều
trị chảy máu tiêu hóa
Tỉ lệ tai biến, biến chứng của thủ thuật: 0%.
Tỉ lệ biến chứng hoại tử ruột trong can thiệp
mạch máu ruột non và đại tràng: 0%.
BÀN LUẬN
Đặc điểm dân số mẫu
Trong vòng gần 2 năm, chúng tôi đã thực
hiện được 26 trường hợp chụp mạch máu cho 23
bệnh nhân chảy máu tiêu hóa, trong đó nam
nhiều hơn 1,6 lần nữ, độ tuổi dao động với tuổi
trung vị khá cao là 69 tuổi. Điều này phù hợp
lâm sàng là những trường hợp chảy máu tiêu
hóa trên bệnh nhân lớn tuổi, can thiệp phẫu
thuật khá hạn chế vì tổng trạng của bệnh nhân
không cho phép.
Các tình huống can thiệp nội mạch điều trị
chảy máu tiêu hóa
Trong tất cả các tình huống chảy máu tiêu
hóa được chỉ định can thiệp nội mạch, có 6
trường hợp chảy máu từ ruột non - một trong
những vị trí chảy máu tiêu hóa khó xác định vị
trí và can thiệp, khi chụp mạch máu không xác
định rõ vị trí chảy máu. Đây cũng là một trong
những hạn chế của can thiệp nội mạch vì ruột
non là một trong những vị trí khó can thiệp nhất
trong bệnh cảnh chảy máu tiêu hóa. Có một
trường hợp, sau hai lần can thiệp nội mạch
không tìm vị trí chảy máu, chúng tôi đã can
thiệp phẫu thuật và tìm thấy nhiều sang thương
ruột non không rõ chảy máu đang hoạt động.
Trong trường hợp chảy máu từ đại tràng,
chúng tôi có thất bại trong một trường hợp chảy
máu từ động mạch đại tràng giữa do mạch máu
gập góc rất nhiều. Đây là những điểm khó mà
khi chụp mạch máu mới có thể tiên lượng được
khả năng thành công của kỹ thuật.
Tỉ lệ thành công của can thiệp nội mạch trong
chảy máu tiêu hóa
Tỉ lệ cầm máu thành công khá cao 84,2% sau
một lần can thiệp và 89,5% sau hai lần can thiệp
cho chúng ta một kết quả khả quan về kỹ thuật
này. Tỉ lệ thành công trên tương đồng với các tác
giả khác trên thế giới(6,7,8,9,11,13,15,16,17).
Một trong những điểm lợi của can thiệp
nội mạch là cho phép chúng ta can thiệp nhiều
lần trên một bệnh nhân mà không cần phải
gây sang chấn quá lớn. Chúng tôi kỳ vọng
khái niệm này có thể được chấp nhận rộng rãi
để mang lại lợi ích cho những bệnh nhân chảy
máu tiêu hóa khó cầm.
Độ an toàn của can thiệp nội mạch trong chảy
máu tiêu hóa
Điều lo ngại nhất cho thủ thuật viên can
thiệp nội mạch khi can thiệp tạng rỗng là tình
trạng thiếu máu sau khi tắc mạch, nhất là ở
những vùng không được tưới máu phong phú
như đoạn cuối hồi tràng, đại tràng. Tỉ lệ này tai
biến hoại tử ruột trong nghiên cứu của chúng tôi
là 0%, thấp hơn tỉ lệ tai biến, biến chứng của các
tác giả khác(6,11,12,15), có thể do số liệu chúng tôi
chưa đủ lớn.
Tuy nhiên, phương pháp tắc mạch cầm máu
vẫn được khuyến cáo là phương pháp đầu tay
để điều trị chảy máu tiêu hóa(6,11,12,16).
KẾT LUẬN
Qua kinh nghiệm bước đầu trên 23 bệnh
nhân và 26 trường hợp can thiệp nội mạch để
chẩn đoán và điều trị chảy máu tiêu hóa,
chúng tôi nhận thấy đây là một phương pháp
an toàn (tỉ lệ tai biến, biến chứng là 0%) và tỉ lệ
thành công cao (kỹ thuật thành công là 95% và
cầm máu thành công là 89,5%). Chúng tôi đề
xuất ứng dụng rộng rãi kỹ thuật này để mang
lại lợi ích can thiệp tối thiểu và điều trị tối đa
cho bệnh nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ang D, Teo EK, Tan A, Ibrahim S, Tan PS, Ang TL, Fock KM
(2012).A comparison of surgery versus transcatheter
angiographic embolization in the treatment of nonvariceal
upper gastrointestinal bleeding uncontrolled by
endoscopy.Eur J Gastroenterol Hepatol, 24(8): 929-938.
2. Clarke MG, Bunting D, Smart NJ, Lowes J, Mitchell SJ (2010).
The surgical management of acute upper gastrointestinal
bleeding: a 12-year experience. Int J Surg, 8(5): 377-80.
3. Eriksson LG, Ljungdahl M, Sundbom M, Nyman R (2008).
Transcatheter arterial embolizationversus surgery in the
treatment of upper gastrointestinal bleeding after therapeutic
endoscopy failure. J Vasc Interv Radiol, 19(10): 1413-8.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 138
4. Hearnshaw SA, Logan RF, Lowe D, Travis SP, Murphy MF,
Palmer KR. (2011). Acute upper gastrointestinal bleeding in
the UK: patient characteristics, diagnoses and outcomes in the
2007 UK audit. Gut, 60(10): 1327-35.
5. Jairath V, Kahan BC, Logan RF, Hearnshaw SA, Dore CJ,
Travis SP, Murphy MF, Palmer KR (2012). National audit of
the use of surgery and radiological embolization after failed
endoscopic haemostasis for non-variceal upper
gastrointestinal bleeding. Br J Surg, 99(12): 1672-80.
6. Khanna A, Ognibene SJ, Koniaris LG (2005). Embolization as
first-line therapy for diverticulosis-related massive lower
gastrointestinal bleeding: evidence from a meta-analysis. J
Gastrointest Surg, 9(3): 343-52.
7. Loffroy R, Cercueil JP, Guiu B, Krause D (2009). Detection and
localization of acute lower gastrointestinal bleeding prior to
therapeutic endovascular embolization: a challenge. Am J
Gastroenterol, 104(12): 3108-9.
8. Loffroy R, Estivalet L, Cherblanc V, Sottier D, Guiu B, Cercueil
JP, Krause D (2012). Transcatheter embolization as the new
reference standard for endoscopically unmanageable upper
gastrointestinal bleeding. World J Gastrointest Surg, 4(10):223-7.
9. Loffroy R, Rao P, Ota S, De Lin M, Kwak BK, Geschwind JF
(2010). Embolization of acute nonvariceal upper
gastrointestinal hemorrhage resistant to endoscopic
treatment: results and predictors of recurrent bleeding.
Cardiovasc Intervent Radiol, 33(6): 1088-100.
10. Lundgren JA, MatsushimaK, Lynch FC, Frankel H, Cooney
RN (2011). Angiographic embolization of nonvariceal upper
gastrointestinal bleeding: predictors of clinical failure. J
Trauma, 70(5): 1208-12.
11. Neuman HB, Zarzaur BL, Meyer AA, Cairns BA, Rich PB
(2005). Superselective catheterization and embolization as
first-line therapy for lower gastrointestinal bleeding. Am Surg,
71(7): 539-44.
12. Nykanen T, Peltola E, Kylanpaa L, Udd M (2018).
Transcatheter Arterial Embolization in Lower Gastrointestinal
Bleeding: Ischemia Remains a Concern Even with a
Superselective Approach.J Gastrointest Surg, 22(8): 1394-1403.
13. Park S, Shin JH, Gwon DI, Kim HJ, Sung KB, Yoon HK, Ko
GY, Ko HK (2017). Transcatheter Arterial Embolization for
Gastrointestinal Bleeding Associated with Gastric Carcinoma:
Prognostic Factors Predicting Successful Hemostasis and
Survival.J Vasc Interv Radiol, 28(7): 1012-1021.
14. Rosch J, Dotter CT, Brown MJ (1972). Selective arterial
embolization. A new method for control of acute
gastrointestinal bleeding. Radiology, 102(2): 303-6.
15. Senadeera SC, Vun SV, Butterfield N, Eglinton TW, Frizelle
FA (2018). Role of super-selective embolization in lower
gastrointestinal bleeding.ANZ J Surg, 88(9): E644-E648.
16. Shin JH (2012). Recent update of embolization of upper
gastrointestinal tract bleeding. Korean J Radiol, 13(1):S31-9.
17. Yi WS, Garg G, Sava JA (2013). Localization and definitive
control of lower gastrointestinal bleeding with angiography
and embolization. Am Surg, 79(4): 375-80.
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vai_tro_cua_can_thiep_noi_mach_trong_dieu_tri_chay_mau_tieu.pdf