Tài liệu Vài quan điểm cơ bản về tư tưởng chính trị của chủ tịch Hồ Chí Minh: 74
Journal of Transportation Science and Technology, Vol 21, Nov 2016
VÀI QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
SOME BASIC VIEWS ABOUT THE POLITICAL IDEOLOGY OF HO CHI MINH
Vũ Ngọc Lanh
Khoa Lý luận chính trị, ĐH GTVT TPHCM
Tóm tắt: Nghiên cứu về khoa học chính trị, tư tưởng chính trị là lĩnh vực khó và thú vị. Hầu hết
các nhà nghiên cứu đều cho rằng chính trị xuất phát từ hiện tượng quyền lực xã hội, mang tính chất
quyền lực Nhà nước. Theo chúng tôi, có thể xem tư tưởng chính trị là những tư tưởng về các hiện tượng
xã hội khác biệt từ nhiều hình thái kinh tế - xã hội, là năng lực nhận thức được bản chất khách quan
của các hiện tượng chính trị thông qua hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật về giới tự nhiên, con
người và xã hội của một người hoặc một trường phái nào đó. Từ cuộc đời thực, Hồ Chí Minh xây dựng
tư tưởng chính trị vì dân trên nền tảng cách mạng giải phóng dân tộc, đánh đổ phong kiến, phát huy...
5 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 377 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vài quan điểm cơ bản về tư tưởng chính trị của chủ tịch Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
74
Journal of Transportation Science and Technology, Vol 21, Nov 2016
VÀI QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
SOME BASIC VIEWS ABOUT THE POLITICAL IDEOLOGY OF HO CHI MINH
Vũ Ngọc Lanh
Khoa Lý luận chính trị, ĐH GTVT TPHCM
Tóm tắt: Nghiên cứu về khoa học chính trị, tư tưởng chính trị là lĩnh vực khó và thú vị. Hầu hết
các nhà nghiên cứu đều cho rằng chính trị xuất phát từ hiện tượng quyền lực xã hội, mang tính chất
quyền lực Nhà nước. Theo chúng tôi, có thể xem tư tưởng chính trị là những tư tưởng về các hiện tượng
xã hội khác biệt từ nhiều hình thái kinh tế - xã hội, là năng lực nhận thức được bản chất khách quan
của các hiện tượng chính trị thông qua hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật về giới tự nhiên, con
người và xã hội của một người hoặc một trường phái nào đó. Từ cuộc đời thực, Hồ Chí Minh xây dựng
tư tưởng chính trị vì dân trên nền tảng cách mạng giải phóng dân tộc, đánh đổ phong kiến, phát huy
truyền thống yêu nước, tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong bài viết này chúng tôi chỉ đề cập
một số quan điểm cơ bản về tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh và giá trị của những quan điểm đó đối
với cách mạng Việt Nam.
Từ khóa: Chính trị; tư tưởng chính trị; Nhà nước; quyền lực Nhà nước.
Abstract: The study of political science and political ideology is a difficult but exciting field. Most
researchers agree that politics comes from the phenomena of social power and carry the nature of state
power. In our opinion, the political ideology can be considered as the ideology of social phenomenon
different from many economic - social forms, as the cognitive capability on the objective essence of
political phenomenons through a system of concepts, categories, rules of nature, human and social
aspects of a person or a certain party. From real life, Ho Chi Minh built political ideology for people
on the basis of national liberation revolution, overthrowing feudalism, promoting the patriotic tradition,
forwarding the socialist revolution. In this article we will only mention some basic views about the
political ideology of Ho Chi Minh and the value of those views on Vietnam's revolution.
Keywords: Politics; political ideology; State; State’s power.
1. Giới thiệu
Khoa học nghiên cứu chính trị ra đời rất
sớm và chính trị học cũng trải qua một quá
trình phát triển lâu dài nhưng chưa có được
định nghĩa chuẩn xác về bản chất chính trị. Tư
tưởng chính trị là gì? Chính trị là gì? Thật ra,
không dễ ràng để có một kết luận: hiện tượng
chính trị là hiện tượng tự nhiên, xã hội, hay
quyền lực, vì sự pha trộn của nó trong các lĩnh
vực tự nhiên, xã hội và thậm chí cả nghệ thuật.
Ý kiến của hầu hết các nhà nghiên cứu cho
rằng chính trị là một hiện tượng quyền lực xã
hội mang tính chất của quyền lực Nhà nước,
nên chỉ có định nghĩa riêng trong tư tưởng
chính trị của các trường phái. Vì vậy, khó có
thể thay đổi ý niệm chính trị, tư tưởng chính
trị của các trường phái, để có được định nghĩa
chung.
2. Nội dung:
2.1. Khái niệm tư tưởng chính trị
Trong Từ điển Bách khoa Việt Nam,
quyển I định nghĩa: “Chính trị, toàn bộ những
hoạt động có liên quan đến các mối quan hệ
giữa các giai cấp, giữa các dân tộc, các tầng
lớp xã hội, mà cốt lõi của nó là vấn đề duy trì,
sử dụng quyền lực Nhà nước. Sự xác định hình
thức tổ chức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động
của Nhà nước” [10, 478]. Ngoài ra chính trị
còn là sự biểu hiện tập trung của nền văn minh
và hoạt động sáng tạo, sự giải phóng. Theo
định nghĩa này, chính trị chưa có con người cụ
thể, chưa lấy con người làm trung tâm, chưa
có ý thức cá nhân, trong khi cá nhân mới là
thành phần tồn tại thực trong xã hội. Còn định
nghĩa: “Chính trị học với tư cách là một chỉnh
thể, chính trị học làm sáng tỏ những quy luật
chung nhất của sự vận động chính trị (cơ chế
tác động, cơ chế sử dụng cùng những phương
thức, những thủ thuật chính trị) trong xã hội
được tổ chức thành Nhà nước (sự hình thành
các lực lượng, các đảng phái; sự hình thành và
phát triển của các thể chế Nhà nước, các thể
chế liên quốc gia, khu vực,.)” [10, 479], ở
đây mới chỉ nói đến hiện tượng và cho rằng
chính trị là kinh tế, là Nhà nước, là quyền
lực,
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI, SỐ 21-11/2016
75
Cùng với sự phát triển của thực tiễn,
những kinh nghiệm chính trị được tích lũy
nhiều lên trong nhu cầu nâng cao tác động
thực tiễn và hiệu quả xã hội, đã có những tổng
kết, khái quát hóa thành lý luận chính trị
nhưng vẫn còn giới hạn ở hiện tượng chính trị,
xã hội, chưa khái quát được bản chất của chính
trị, của tư tưởng chính trị. Với sự xuất hiện của
chế độ tư bản chủ nghĩa, với lý tưởng giải
phóng áp bức, bất công, C. Mác và Ăng -
ghen, V.I. Lênin đã cống hiến vào hệ thống tư
tưởng chính trị ở phạm vi chính trị về giai cấp
và đấu tranh giai cấp, đóng góp vào việc
nghiên cứu tư tưởng chính trị trong đời sống
của xã hội tư bản, của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Hiện nay các giá trị xã hội được
xác lập rõ ràng và chuyên sâu hơn đang là cơ
hội cho chúng ta khái quát các hiện tượng
chính trị thành giá trị bản chất của nó, nhằm
giúp định hướng tư tưởng chính trị ở tầm phổ
biến từ góc độ triết học chính trị, nâng tầm các
khái niệm từ các trường phái chính trị khác
nhau thành khái niệm chính trị chung. Theo
chúng tôi, trước hết cần thống nhất rằng:
Chính trị là khách quan và tư tưởng chính trị
là năng lực nhận thức được bản chất khách
quan đó thông qua hệ thống các khái niệm,
phạm trù, quy luật về giới tự nhiên, con người
và xã hội của một người hoặc của một trường
phái nào đó. Các nhà khoa học chính trị
thường kết luận chính trị là hệ thống quyền
lực, các thể chế, chế độ xã hội, các vấn đề quốc
gia, dân tộc, các mối liên hệ của chính trị về
tôn giáo, tín ngưỡng, văn hóa, về chiến tranh
và hòa bình, vai trò, những phương diện nghệ
thuật chính trị, các quan hệ giữa các quốc gia,
quốc tế. Chúng ta có thể xem tư tưởng chính
trị là những tư tưởng về các hiện tượng xã hội
khác biệt từ nhiều hình thái kinh tế - xã hội,
lợi ích và tồn tại.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và truyền
thống văn hóa của dân tộc, tinh hoa văn hóa
của nhân loại, Hồ Chí Minh đã xác lập một hệ
thống tư tưởng chính trị mang tính cách mạng
triệt để, tính khoa học sâu sắc và tính nhân văn
cao cả. Tổ chức UNESCO đã đánh giá, tư
tưởng chính trị Hồ Chí Minh là tư tưởng chính
trị rất văn hóa, bởi vì “những tư tưởng của
Người là hiện thân cho những khát vọng của
dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc
của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự
hiểu biết lẫn nhau” [1, 5]. Tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn đặt con người ở vị trí
trung tâm, luôn trân trọng con người, trước hết
là những người lao động và những người bị áp
bức, mang tính văn hóa rất sâu đậm. Trong bài
viết này chúng tôi mới chỉ nêu ra, tập hợp một
số quan điểm, tư tưởng chính trị của Hồ Chí
Minh.
2.2. Tư tưởng chính trị của Hồ Chí
Minh
Hồ Chí Minh sinh ra vào thời kỳ Việt
Nam có nhiều biến động, giữa hội nhập của
hai nền thống trị Đông - Tây. Trong bối cảnh
đó, Hồ Chí Minh nhận thấy: Chỉ có một con
đường cứu nước, giải phóng dân tộc và muốn
cứu nước giải phóng dân tộc phải có sự am
hiểu chính trị trong nước và quốc tế, từ đó
Người ra đi tìm đường cứu nước. Khi gặp chủ
nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh với tư tưởng
vĩ đại: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt
Nam là một” và theo đuổi suốt cuộc đời
Người. Từ câu nói này, Hồ Chí Minh mới đi
đến tư tưởng: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
và khẳng định: Phải đại đoàn kết thì mới có
“Dân tộc Việt Nam là một”. Đó là tư tưởng
thống nhất đất nước, kế thừa từ lịch sử chân
chính của dân tộc Việt Nam. Từ cuộc đời thực,
Hồ Chí Minh xây dựng tư tưởng chính trị vì
dân trên nền tảng cách mạng giải phóng dân
tộc, phát huy truyền thống yêu nước, làm cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và tiến lên
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh lấy
đại đoàn kết làm nền tảng.
Đây là một quan điểm xuyên suốt, nhất
quán trong quá trình hoạt động cách mạng của
Người: “Trừ bọn đại Việt gian ra thì người
Việt Nam ai cũng có lòng yêu nước, ghét giặc”
[6, 234], “miễn là không phản lại quyền lợi
dân chúng, không là Việt gian, thân Pháp, thân
Nhật, có lòng trung thành với Tổ quốc, là có
thể dùng được” [4, 39].
Thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, Hồ
Chí Minh đã thể hiện những quan điểm chính
trị rất văn hóa của mình. Người lấy vấn đề dân
tộc, thống nhất đất nước, xây dựng đất nước
giàu mạnh làm mục tiêu, lấy tinh thần yêu
nước của con người Việt Nam làm cơ sở để
thực hiện đại đoàn kết dân tộc. Hồ Chí Minh
76
Journal of Transportation Science and Technology, Vol 21, Nov 2016
chủ trương xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc, đoàn kết mọi giai tầng trong xã hội, các
đồng bào dân tộc thiểu số, các tôn giáo, vùng
miền, trong và ngoài nước cùng vì sự nghiệp
cách mạng chung của cả dân tộc. Hồ Chí Minh
xem tôn giáo là một phần của văn hóa, coi tín
ngưỡng là đời sống tâm linh của đồng bào có
đạo, cần phải tôn trọng; cần xây dựng xã hội
mới, con người mới với đầy đủ tính nhân bản,
nhân đạo, nhân văn trên con đường đi lên của
dân tộc; không ngừng mở rộng sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân, đưa cách mạng Việt Nam
đạt được những chiến công vẻ vang trong lịch
sử dân tộc.
Tư tưởng thi hành nền chính trị liêm
khiết, kết hợp chặt chẽ đức trị với pháp trị.
Muốn được lòng dân, giữ vững mối liên
hệ chặt chẽ với nhân dân, xây dựng đại đoàn
kết dân tộc, theo Hồ Chí Minh, cần phải nêu
cao việc rèn luyện đạo đức, nhân cách của
người cán bộ. Từ năm 1946, Người đã viết:
“Chính phủ phải thi hành một nền chính trị
liêm khiết... có như thế, dân chúng mới đoàn
kết chung quanh chính phủ, mới vì quyền lợi
thiết thân của mình mà hy sinh sống chết giết
giặc. Có như thế thì dù tình thế nguy khốn đến
mức nào, dân chúng không sợ hãi gì hết, mà
cố sức quyết chiến, quyết thắng” [4, 227].
Hồ Chí Minh đề cao việc rèn luyện và giữ
gìn chữ “liêm”, xem như một chuẩn mực đạo
đức hàng đầu mà mỗi cán bộ, đảng viên cần
phải hướng đến. Chỉ có như vậy, mới giúp cán
bộ, đảng viên tránh xa những “căn bệnh nghề
nghiệp” của những người cầm quyền như:
Quan liêu, tham nhũng, độc đoán, chuyên
quyền... Người nhắc nhở: “Xem thường danh
vị, ngôi thứ và tiền bạc vì chúng là cội nguồn
sinh ra đố kỵ, hận thù và là nguyên nhân của
những hành động chỉ điểm, phản bội, làm tổn
hại nghiêm trọng đến sự nghiệp cách mạng”
[3, 450].
Song song với việc giáo dục đạo đức cho
cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh đề cao vai trò
của pháp luật, thực hiện kết hợp chặt chẽ đức
trị và pháp trị. Người hiểu rõ, muốn giải quyết
triệt để những vấn nạn tham nhũng trong bộ
máy tổ chức thì không thể chỉ đơn thuần ở việc
kêu gọi rèn luyện và giữ gìn đạo đức. Vì vậy,
Hồ Chí Minh chủ trương thưởng phạt phân
minh, ban hành những sắc lệnh và hình phạt
nghiêm khắc để trừng trị người vi phạm một
cách công minh, Hồ Chí Minh luôn nhắc đến
câu nói của Lênin: “Không xử bắn bọn ăn hối
lộ mà xử nhẹ là một việc xấu hổ cho những
người cộng sản, người cách mạng” [5, 386].
Trong hệ thống tư tưởng chính trị
của mình, Hồ Chí Minh luôn tôn trọng hiền
tài, tin dùng trí thức.
Với một tầm nhìn sáng suốt, Hồ Chí Minh
nhận thấy vai trò quan trọng, không thể thiếu
được của trí thức trong sự nghiệp cách mạng,
“Cách mạng rất cần trí thức và chính ra chỉ có
cách mạng mới biết trọng trí thức” [6, 33], “trí
thức không bao giờ thừa, chỉ có thiếu trí thức
mà thôi” [6, 36].
Hồ Chí Minh đánh giá cao trí thức, tôn
trọng và tin dùng trí thức, có chính sách đãi
ngộ cao, đối xử ân cần... nhờ đó đã quy tụ
được hầu hết các trí thức có tài năng, danh
vọng đi theo cách mạng, theo kháng chiến,
đem trí tuệ, tài năng cống hiến cho dân, cho
nước.
Tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh
về nhà lãnh đạo, quản lý đất nước.
Hồ Chí Minh là nhà cách mạng thực tiễn,
bằng cả cuộc đời cống hiến cho dân tộc Người
đã tìm ra chân lý phụng sự nhân dân, Người
nói rằng: “Lãnh đạo là làm đầy tớ nhân dân”
và như vậy, phải làm cho tốt. Có lẽ xuất phát
từ việc Hồ Chí Minh am hiểu sâu sắc chữ
“tâm” của Khổng Tử, thấu hiểu điều kiện,
hoàn cảnh của đất nước, gia đình, bản thân
mình, mà Người khẳng định: “Có chính tâm,
có tu thân mới trị quốc, bình thiên hạ được”
[2, 21-22]. Người nói “chính tâm” bằng cuộc
đời thực của mình, chứ không phải nói về chữ
“tâm” của Khổng Tử. “Tâm” của Khổng Tử là
“tu thân”; còn “tâm” của Hồ Chí Minh là
“chính tâm”, là viết về cuộc đời của chính
mình. Tâm trong sáng là tâm “gần bùn mà
chẳng hôi tanh mùi bùn”, là tâm của những
con người sống trung thực, làm điều thiện
không nhiễm thói đời. Còn chính tâm theo
nghĩa rộng hơn nhiều, không chỉ là tâm trong
sáng mà còn góp phần cải tà quy chính, tác
động làm thay đổi hiện thực, phục vụ con
người, cái tâm của nhà duy vật biện chứng. Hồ
Chí Minh dùng khái niệm “chính tâm” để chỉ
“cái tâm cần phải chân chính”, con người sống
cho ai, sống làm gì và sống như thế nào, sống
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI, SỐ 21-11/2016
77
sao cho ra sống? Những nhà lãnh đạo, quản lý
Nhà nước, đối với dân, với nước, đối với
người lao động, người đau khổ, nghèo đói, bị
bóc lột, thì phải yêu thương; trái lại, đối với
kẻ thù thì phải “kiên quyết, khôn khéo”, vận
dụng cái thiện để chống cái ác.
Người có tâm trong sáng, tự biết mình
đúng, mình phải thì gắng sức làm; người
“chính tâm” không chỉ tự mình biết phải làm
gì mà còn “quyết tâm” soi sáng, dẫn dắt mọi
người cùng làm và làm cho thật tốt theo quy
luật khách quan. Khi đã chính tâm, tình cảm
bền vững thì làm gì cũng gắng sức thành công,
vì đã có “động cơ trong sáng sẽ có hành vi
đúng đắn”. Chính tâm của Hồ Chí Minh đã soi
rọi, giúp Người vượt qua gian nan, tìm ra con
đường giải phóng dân tộc; chính tâm nhận ra
cái bất biến và biến hoá chính trị để điều chỉnh
phù hợp với con người Việt Nam, vận dụng
vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
“Có chính tâm, có tu thân, mới trị quốc, bình
thiên hạ được”, là câu nói chính trị được đúc
kết và rút ra từ chính cuộc đời Hồ Chí Minh,
chúng ta khái quát thành ý thức, thành tư
tưởng chính trị để phổ cập cho mọi người dân
nước Việt. Như vậy, chính trị trước hết phải
từ bản thân mỗi người, mỗi người phải làm
chính trị tư tưởng đối với bản thân trước mọi
sự cám dỗ, phải giữ “chính tâm”. Bản thân
không trong sáng, không “chính tâm”, thậm
chí có kẻ còn “tà tâm” thì làm sao có chính trị
được. Nếu theo quan niệm: Nhà nước chỉ là
quyền lực chính trị và sử dụng quyền lực
chính trị để chính trị hóa các mối quan hệ giữa
các giai cấp thì Nhà nước đó có khác gì Nhà
nước chuyên chế tư bản hay phong kiến, thống
trị.
Hồ Chí Minh qua cuộc đời thực đã chỉ
cho thấy “chính tâm” tức là có tư tưởng tiến
bộ. Song “chính tâm” không giải quyết được
nếu không vượt qua nổi sự ham muốn tầm
thường và “chính tâm” chỉ có thể vượt lên trên
bản thân khi biết “tu thân”. Nói về chính trị
chỉ mới là ý thức chính trị, chỉ khi nào con
người biến được ý thức đó thành hành động có
hiệu quả mới thành công và là nhà chính trị.
Người đã dạy chúng ta rằng: Phải bắt đầu từ
sự chân chính, có mục tiêu rõ ràng, phải là
người có động cơ đúng đắn, có lý tưởng trong
sáng, luôn phải tu thân, hoàn thiện bản thân,
mới trở thành nhà chính trị chân chính, nhà
lãnh đạo, quản lý đất nước. Theo Người:
“chính tâm” tức là có tư tưởng đứng vững
trong thế gian, lấy sự điều chỉnh hiểu biết làm
trọng.
Tư tưởng chính trị về Nhà nước
pháp quyền, xây dựng xã hội mới, xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
Trước kia, những nước thuộc địa, những
dân tộc bị áp bức dưới các hình thức của thực
dân, phong kiến bằng bạo lực và quyền lực
nhà nước, khi đó chính trị phải là việc giành
lấy quyền lực Nhà nước. Hiện nay, thời đại đã
thay đổi, các dân tộc đa phần được độc lập,
Nhà nước đã có được dân chủ nhất định thì
vấn đề phải hiểu khác, tuy nhiên nếu chỉ xem
chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, các
dân tộc, các quốc gia trong vấn đề giành, giữ,
sử dụng quyền lực chính trị làm quyền lực
trung tâm, quyền lực độc quyền nhà nước thì
chưa thể hiện được vai trò “đầy tớ của nhân
dân”.
Quyền lực Nhà nước chỉ có thể là phương
tiện để điều chỉnh và phát triển xã hội, đi đến
giải phóng mọi sự bất công. Tuy nhiên, có
những thế lực chính trị lại giành chính quyền
để thực hiện mưu lợi riêng, và như vậy chúng
sẽ khác với tư tưởng chính trị của Hồ Chí
Minh: “Nhà nước của dân”. Chính trị phải là
nguyện vọng tối thượng của con người và
trong quá trình thực hiện nguyện vọng đó, loài
người đã trải qua nhiều nấc thang chính trị từ
thấp đến cao với các tư tưởng chính trị khác
nhau, trong đó tư tưởng chính trị xem cán bộ
Nhà nước phải là “đầy tớ của Nhân dân” ở Hồ
Chí Minh là tư tưởng chính trị đặc sắc, thoát
ra khỏi sự tranh giành quyền lợi để phụng sự
xã hội. Tư tưởng chính trị như vậy mà thi hành
được xã hội sẽ không còn người bóc lột người,
không còn thế lực thống trị xã hội dưới hình
thức này hoặc hình thức khác. Để làm được
điều đó phải giành độc lập cho dân tộc, tự do
cho đất nước và làm cho mình, cho loài người
hạnh phúc.
Chính trị chỉ có ý nghĩa khi các hoạt động
vì con người, song khác nhau ở chỗ vì giai cấp
nào. Và như vậy, tư tưởng chính trị không chỉ
là lý luận về tổ chức và hoạt động của bộ máy
Nhà nước mà còn là sự am hiểu, xây dựng và
tuân thủ những quan điểm sống và phát triển
78
Journal of Transportation Science and Technology, Vol 21, Nov 2016
ở mỗi cá nhân, tổ chức và nhóm xã hội. Khi
xác lập tư tưởng chính trị, ý thức chính trị nếu
ở phạm trù quyền lực Nhà nước thì chính trị
đó chỉ là chính trị Nhà nước. Tư tưởng chính
trị của Hồ Chí Minh: “Dân là gốc, dân là
chủ”, chính trị được lòng dân là chính trị sáng
suốt, được xem là sự kế thừa và phát triển các
tư tưởng chính trị ở phương Đông và các triết
gia lớn tại phương Tây trên cơ sở vận dụng
sáng tạo lý luận và phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác - Lênin để hình thành nên tư tưởng
chính trị của mình. Hồ Chí Minh nói: “Trong
bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong
thế giới, không gì mạnh bằng lực lượng đoàn
kết của nhân dân ... Trong xã hội, không có gì
tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của
nhân dân” [7, 276].
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định, cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng Nhân dân,
có Nhân dân là có tất cả. Do đó, khi đất nước
độc lập, dân phải là chủ và phải được làm chủ,
tất cả mọi quyền hành đều nằm trong tay nhân
dân. Người cũng chỉ rõ, đã là chủ thì phải xác
định được nghĩa vụ của người làm chủ, cần
phải nâng cao năng lực, phẩm chất của người
làm chủ, xây dựng nền chính trị đảm bảo đầy
đủ các quyền công dân.
Sau Cách mạng tháng Tám, quyền lãnh
đạo của Đảng, được Nhân dân thừa nhận và
tin cậy; quyền quản lý của Nhà nước, được
Nhân dân ủy thác. Vì vậy, phải làm sao Đảng
luôn giữ được mối quan hệ khăng khít với dân,
không xa dân, không rơi vào thoái hóa, biến
chất, là một nhiệm vụ quan trọng, đòi hỏi mỗi
cán bộ, đảng viên phải luôn nỗ lực hết mình,
vì lợi ích của Nhân dân, của dân tộc. Nhà nước
luôn luôn phải vì dân thực sự, nếu những lời
hứa vì dân mà giả dối, không đem lại lợi ích
cho dân, khi đó dân mất lòng tin vào Đảng và
Nhà nước và dễ xuất hiện tự do tự phát vượt
ra ngoài trật tự của thiết chế nhà nước, đất
nước có thể loạn lạc khó khăn. Một xã hội
muốn tồn tại luôn phải tuân theo quy luật: Tự
do - trật tự - kỷ cương, trật tự kỷ cương phải
đáp ứng được tự do và phù hợp với dân trí,
kinh tế, văn hóa, xã hội. Còn tự do phải đảm
bảo trong sự hài hòa, không thể áp đặt tự do
hoặc tự do vô trật tự. Trật tự tốt nhất cho xã
hội là trật tự của sự bình đẳng bảo vệ tự do cho
mọi công dân, khi đó sẽ không xảy ra một tự
do cục bộ, không sinh ra bất công - mầm móng
của bạo loạn xã hội.
Đối với mỗi chúng ta luôn luôn biết tự
điều chỉnh bản thân để thực hiện mơ ước và lý
tưởng của mình. Hồ Chí Minh dạy: “Có chính
tâm” tức là có ý thức sống chính đáng, có tư
tưởng chính trị, “tu thân” ngày nay, với chúng
ta, là giữ gìn nhân cách, làm việc có hiệu quả,
có chất lượng, tạo niềm tin với người dân.
Trong cơ chế thị trường và hội nhập,
muốn tồn tại và phát triển, con người phải biết
tự điều chỉnh trong thế giới của sự vận động
quá nhanh. Nhà nước, người lãnh đạo nếu mất
khả năng điều chỉnh sẽ mất chính quyền, mất
năng lực chính trị.
3. Kết luận
Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh có ý
nghĩa to lớn trong suốt tiến trình cách mạng
Việt Nam, nó giữ vai trò định hướng cho việc
xây dựng một nền chính trị có văn hóa trong
tình hình mới. Hiện nay, đất nước đã giành
được độc lập, tự do, phát triển trong cơ chế thị
trường và hội nhập, nó đòi hỏi Đảng ta phải có
tầm văn hóa chính trị cao, thể hiện cụ thể trong
đường lối, chủ trương, chính sách, trong tri
thức, năng lực hoạt động chính trị và trong
hoạt động thực tiễn, trau dồi phẩm chất đạo
đức của cán bộ, đảng viên
Tài liệu tham khảo
[1] Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân
văn hóa Thế giới, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,1990
[2] Hồ Chí Minh – Huấn thị trong lớp chỉnh huấn Đảng
Trung ương khóa 2 – Phát huy tinh thần cần học, cầu tiến
bộ. NXB Sự thật, Hà Nội 1960.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2009.
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2009
[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2009
[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2009
[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2009
[8] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2009
[9] Hồ Chí Minh, Văn hóa, văn nghệ cũng là một mặt trận,
Nxb Văn học Hà Nội, 1981
[10] Từ điển Bách khoa VN, Quyển 1, NXB Từ điển Bách
khoa, năm 2000.
Ngày nhận bài: 14/9/2016
Ngày chuyển phản biện: 19/9/2016
Ngày hoàn thành sửa bài: 10/10/2016
Ngày chấp nhận đăng: 17/10/2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 121_1_346_1_10_20170818_0648_2202552.pdf