Vài nét về kinh tế vùng đất An Khê từ sau thế kỷ XIX đến năm 1945

Tài liệu Vài nét về kinh tế vùng đất An Khê từ sau thế kỷ XIX đến năm 1945: KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 11 S Ố 0 2 N Ă M 2 0 19 An Khê là cửa ngõ lên Tây Nguyên tiếp giáp với đồng bằng thông qua quốc lộ chiến lược 19. Từ khi triều Nguyễn được thành lập (1802), nhằm xóa đi tiềm thức của nhân dân đối với nhà Tây Sơn, vua Gia Long đổi tên An Sơn thành An Tây (thế kỷ XVIII, gọi là Tây Sơn thượng đạo). Từ khi nhà Nguyễn lập Nha Kinh lí An Khê năm 1877, những dòng người Kinh di cư đến, nên các làng người Kinh ở đây lần lược được hình thành dọc Nam Sông Ba. Đầu thế kỷ XX, nhà Nguyễn lập ra đơn vị hành chính cấp Tổng, với hai Tổng An Khê và Tân Phong (thuộc cao nguyên An Khê, huyện Bình Khê - tỉnh Bình Định). Năm 1917, An Khê thuộc tỉnh Kon Tum, đến năm 1943 được sáp nhập vào tỉnh Pleiku và được nâng cấp thành Địa lý hành chính. Trong xã hội An Khê, sự phân hóa giai cấp, địa vị xã hội và thái độ chính trị khác nhau, các giai cấp: nông dân, công nhân, tiểu tư sản và một bộ phận tư sản dân tộc có tinh thần yêu nước chố...

pdf6 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 441 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vài nét về kinh tế vùng đất An Khê từ sau thế kỷ XIX đến năm 1945, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 11 S Ố 0 2 N Ă M 2 0 19 An Khê là cửa ngõ lên Tây Nguyên tiếp giáp với đồng bằng thông qua quốc lộ chiến lược 19. Từ khi triều Nguyễn được thành lập (1802), nhằm xóa đi tiềm thức của nhân dân đối với nhà Tây Sơn, vua Gia Long đổi tên An Sơn thành An Tây (thế kỷ XVIII, gọi là Tây Sơn thượng đạo). Từ khi nhà Nguyễn lập Nha Kinh lí An Khê năm 1877, những dòng người Kinh di cư đến, nên các làng người Kinh ở đây lần lược được hình thành dọc Nam Sông Ba. Đầu thế kỷ XX, nhà Nguyễn lập ra đơn vị hành chính cấp Tổng, với hai Tổng An Khê và Tân Phong (thuộc cao nguyên An Khê, huyện Bình Khê - tỉnh Bình Định). Năm 1917, An Khê thuộc tỉnh Kon Tum, đến năm 1943 được sáp nhập vào tỉnh Pleiku và được nâng cấp thành Địa lý hành chính. Trong xã hội An Khê, sự phân hóa giai cấp, địa vị xã hội và thái độ chính trị khác nhau, các giai cấp: nông dân, công nhân, tiểu tư sản và một bộ phận tư sản dân tộc có tinh thần yêu nước chống thực dân, phong kiến. Từ nửa sau thế kỷ XIX đến năm Vài nét về kinh tế vùng đất An Khê ThS. NGUYỄN VĂN NGUYÊN Trường THPT Nguyễn Trãi, thị xã An Khê, Gia Lai 1945, trên vùng đất An Khê người Kinh và các dân tộc ít người đã chung sức đóng góp trong công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội làm thay đổi bộ mặt quê hương. 1. Về kinh tế nông nghiệp Đối với trồng trọt, An Khê có điều kiện tự nhiên tương đối thuận lợi. Núi rừng trùng điệp, xen kẽ là đất đai bằng phẳng và sông suối. Nên phù hợp cho phát triển kinh tế nông nghiệp như: Trồng trọt và chăn nuôi, săn bắn thú rừng, khai thác các nguồn lâm thổ sản quí hiếm nên sớm thu hút cư dân từ đồng bằng lên lập nghiệp. Ở vùng An Khê, kinh tế nông nghiệp của người Kinh gắn liền với quá trình khai hoang, lập ấp. Năm Tự Đức thứ 30 (1877), Bố chánh tỉnh Bình Định là Phan Văn Điển dâng sớ xin khai hoang, lập ấp ở An Khê. Đến năm 1878, Trần Văn Thiều đến vùng đất An Khê mộ dân khẩn điền. “Ông Trần Văn Thiều về Nha Kinh lí An Khê, cùng Bố chánh tỉnh Bình Định là Phan Văn Điển thực hiện từ nửa sau thế kỷ XIX đến năm 1945 An Khê trong những năm 1877 đến 1945, kinh tế nông nghiệp luôn gắn với quá trình trồng trọt và chăn nuôi, nhất là tư bản Pháp đầu tư lập đồn điền trồng cây công nghiệp và xây dựng trang trại chăn nuôi gia súc. Bên cạnh, còn có hoạt động hái lượm, săn bắn ở vùng đồng bào Bahnar. Là nơi sớm chịu ách thống trị thực dân, phong kiến khá nặng nề, người dân phải đóng nhiều loại thuế. Trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, có nhiều bước tiến đáng kể, trong đó tập trung phát triển thủ công nghiệp truyền thống. Thương nghiệp thời kỳ này có sự tiến bộ rõ rệt, đó là sự giao lưu buôn bán giữa người Kinh và dân tộc thiểu số thông qua các phiên chợ đầu mối. Là thời điểm thiết lập trao đổi, buôn bán giữa đồng bằng và vùng cao An Khê. Do chính sách của chính quyền cai trị ở đây và việc lưu thông hàng hóa còn gặp khó khăn, đã hạn chế thúc đẩy thương nghiệp phát triển. KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN12 T Ạ P C H Í K H O A H Ọ C C Ô N G N G H Ệ V À M Ô I T R Ư Ờ N G công tác khẩn hoang” [4, tr.18]. Trong 3 năm khai khẩn, biến rừng hoang thành ruộng vườn trồng lúa nước và lúa rẫy, phá đồi núi làm làng mạc và lập 28 thôn hai bên bờ sông Ba. Cùng với đồng bào thiểu số và người Kinh đã dốc toàn lực, bất kể rừng thiên nước độc, chiêu dân từ đồng bằng khai phá, nên vùng An Khê trở thành mảnh đất trù phú, dân cư đông đúc, nông lâm sản dồi dào. Từ đó, nhiều khu vườn mọc lên như: Trồng cam, quít, thơm, chuối, dừa, mít, thuốc lá, rau cải. Từ giữa thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, vùng đất An Khê đã tiếp nhận những dòng người Kinh từ Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Huế lên lập nghiệp, làm nông nhất là trồng lúa nước và lúa rẫy. Các vạn, trại, làng như vạn An Lợi, làng An Hội, làng An Dân gắn với tên tuổi của những người có công khai phá, được dân làng sùng kính (như Chín Vác ở làng An Dân). Khoảng năm 1910, người dân Cửu An đã tiến về phía tây khai khẩn đất hoang (nay là An Xuân 2) để làm ruộng, vài năm sau cư dân từ đồng bằng lên (chủ yếu từ Bình Định, Huế) và lập làng An Xuân. Họ đến đây đem theo cây, con giống và các công cụ sản xuất, với thói quen canh tác và kinh nghiệm sản xuất được áp dụng vào vùng đất mới, nên năng suất lao động có bước phát triển hơn. Tuy nhiên, sự tiến bộ này chỉ ảnh hưởng nhiều nhất đến vùng người Kinh. Đặc trưng của kinh tế nông nghiệp truyền thống là làm rẫy - một hình thức trồng trọt chủ yếu và thu nhập chính của cư dân An Khê (sản xuất theo phương thức du canh). Nó không chỉ có ý nghĩa về kinh tế mà cả trong đời sống văn hóa tâm linh, mặt dù có sự hiện diện ở mức độ nhất định của ruộng nước và vườn. Nhìn chung, trước khi thực dân Pháp xâm lược, kinh tế truyền thống của họ còn mang tính tự cấp, tự túc. Ngày 20/7/1898, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định và treo giải thưởng cho các chủ đồn điền trồng cà phê, chè, thuốc lá nhằm khuyến khích tư bản Pháp đẩy mạnh việc khai thác đồn điền trồng cây công nghiệp và An Khê nằm trong chủ trương đó, nên quyền sở hữu tập thể và đất đai của cộng đồng không còn được tôn trọng như trước. Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 - 1914), thực dân Pháp đề ra kế hoạch trồng cây công nghiệp, nhằm thu nhiều lãi mà ít chi phí. Họ cướp nương rẫy, ruộng lúa của nhân dân để lập các đồn điền, biến một bộ phận nhân dân địa phương cùng với phu mộ từ đồng bằng trở thành công nhân. Số công nhân này vừa trồng cây công nghiệp (chè, cà phê, cao su), cấy lúa, trồng cây lương thực..., nhân lực lao động chủ yếu là cư dân bản địa làm thuê cho các đồn điền. Từ năm 1898 đến trước năm 1945, ở tỉnh Gia Lai - Kon Tum theo thống kê có 14 đồn điền lớn nhỏ. Ở An Khê là nơi thực dân Pháp sớm tiến hành khai thác, tiêu biểu là công ty Delignon và Paris “chiếm 531,6 ha đất ở Đak Jappau (Đăk Chầu Bầu) - An Khê để trồng chè, cao su, cam” [6, tr.31]. Ngoài ra, còn trồng nhiều loại cà phê (Libéria, Arabica, Môka), tre, cau, hạt tiêu. Từ năm 1905 còn trồng dâu và diện tích trồng dâu tăng lên nhằm phục vụ cho Sở Tơ tằm ở Bình Định. Qua những lần kiểm nghiệm, các loại cây trồng mới đòi hỏi nhiều vốn, nhiều công chăm sóc và sự kén đất của giống mới, nên chưa đưa lại kết quả cao. Việc khai phá đất đai canh tác được đẩy mạnh, “huyện Tân An có 1.079 mẫu 9 ruộng và đất trồng 2.956 mẫu 8” [10, tr.7]. Ngoài trồng lạc, mía, mít, bưởi, ngô, măng, cầu xiêm ..., nhất là trồng chè ở Tân Phong. Các loại rau, cây trồng làm thức ăn và làm thuốc trị bệnh được trồng như: rau cần, thơm tàu, cải, rau răm, dền gai, rau má, lá lốt, me đất, rau muốn, lá é, khóm, ngải cứu, sắn, cau. Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918), dưới hình thức “đoạn trưng” và “tạm trưng” thực dân Pháp đã cướp 25.540 ha đất để lập các đồn điền rộng lớn trồng cây công nghiệp. Từ năm 1925 - 1926, ở An Khê các nhà tư bản Pháp tiếp tục đua nhau chiếm đất và lập đồn điền, tiêu biểu là đồn điền M. Ymatz trồng cà phê, thuốc lá, cau, đậu phộng. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933, thực dân Pháp đẩy mạnh chiếm đất lập đồn điền. Nhiều công trình trồng thử nghiệm cà phê và cao su được tiến hành ở Chợ Đồn. Tại KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 13 S Ố 0 2 N Ă M 2 0 19đồn Bà Bạc (thuộc Đak Jappau) chuyên trồng cây lương thực và cây công nghiệp. Đối với đồn điền trồng cây công nghiệp ở An Khê, tư bản Pháp thuê mướn công nhân tập trung có sử dụng máy móc, kỹ thuật mới và mang dáng dấp của nền kinh tế công nghiệp. Tuy nhiên, về cơ bản vẫn là một ngành trồng trọt chủ yếu dựa vào sức lao động của công nhân. Do tác động của chính sách trên, người dân An khê mất đất canh tác, nhất là đất trồng lúa và các loại cây hoa màu khác. Trong thời kỳ Chiến tranh Thế giới thứ nhất (1914 - 1918), để khắc phục phần nào tình trạng thiếu đói ở An Khê và trước yêu cầu đóng góp lương thực của chính quyền thực dân, công ty L.Delignon gửi thư cho Công sứ Quy Nhơn ngày 12/12/1918, để được hỗ trợ gạo cho nhân dân An Khê trong năm 1919 là “3.900 kg gạo và sẵn sàng cung cấp lúa” [7, tr.127]. Trong thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp. Các Tổng người Kinh ở Tân Phong và An Khê dựa vào vùng trũng đất đai màu mỡ, người dân trồng lúa trên nương rẫy (có cả giống lúa đỏ) và làm ruộng nhưng khá bấp bên. Những năm 30 của thế kỷ XX, ở An Khê nhất là vùng An Điền, An Thạch (Cửu An) đất đai rộng nhiều chỗ bỏ hoang, những người có năng lực mộ dân khai phá lập thêm nhiều làng mới trong vùng An Xuân, Cửu Đạo, Tú Thủy (xã Tú An) và chịu mức thuế khá nhẹ. Lệ nhà nước định: “Thuế đinh phải nộp liền mỗi người 4đ 0,5, thuế thân là 3đ 0,5 và thuế tư ích là 1đ 00, thuế đất thì đợi 3 năm sau mới nộp” [2, tr.143]. Những người nghèo lên làm ăn muốn nhập tịch thì xin Lý trưởng và thông qua đó trình lên quan Quản đạo. Người dân có cuộc sống tương đối no ấm với những món ăn đậm chất vùng miền: thịt heo, gà, bò, khoai, đậu, bắp, rau cải; trồng các loại cây ăn trái trong vườn, nhà ở làm bằng ngói, sạch sẽ. Đối với chăn nuôi, cuối thế kỷ XIX, ở hai tổng Tân Phong và An Khê, người dân chú trọng chăn nuôi trâu, ngựa: “Khoảng 1.000 con trâu và gần 2.000 con ngựa” [3, tr.34]. Riêng đồn điền Đak Jappau (An Khê) được lập vào tháng 6/1898 đã tiến hành nuôi 200 con bò và 90 con ngựa. Đồn điền M. Ymatz còn nuôi trâu, bò, gà các loại. Ngoài ra, tại An Khê các sản phẩm từ chăn nuôi gia súc, gia cầm được chở xuống Quy Nhơn để xuất khẩu hoặc tiêu thụ. Trong quý 2 năm 1933, chở xuống Quy Nhơn để gửi qua Hồng Kông 227 con gà, 15 con trâu và 10,437 tấn da trâu, bò. Tư bản Pháp còn chiếm ruộng đất của nông dân lập các trang trại chăn nuôi cừu, ngựa, làm vườn ươm và các trại thực nghiệm. Theo Công văn ngày 16/11/1907 của Công sứ Quy Nhơn gửi Khâm sứ Trung Kỳ báo cáo về các giống ngựa đực tại Bình Định, trong đó có 3 giống thuộc trại ngựa An Khê là: Cao Bang, Mauvezin, Yunnam. Đây là những giống ngựa khá quý hiếm có nhiều khả năng phát triển ở vùng khí hậu An Khê. Để đẩy mạnh quy mô phát triển chăn nuôi, từ đầu thế kỷ XX thực dân Pháp chiếm hơn 1.000 ha đất ở An Khê lập cơ sở chăn nuôi bò, ngựa và lai giống ngựa. Theo Nghị định 997 ngày 5/8/1916 của Khâm sứ Trung Kỳ đã trưng dụng cho Sở thú y Trung Kỳ mảnh đất thuộc công sản Trung Kỳ nằm trong khu vực trại ngựa An Khê, Quy Nhơn. Ngoài ra, Sở thú y nuôi bò, cừu và đặt dưới sự theo dõi, giám sát việc chăn nuôi của Thanh tra thú y Le Louet. Từ năm 1932, chăn nuôi đem lại lợi nhuận khá cao. Theo Công báo Trung Kỳ, tại Sở chăn nuôi An Khê tiến hành bán bò, trâu, ngựa, cừu gồm: “10 con bò cái giống Anamit, 3 con bò mộng, 1 con trâu, 1 con ngựa cái, 1 con ngựa non, 5 con cừu cái Kelantan” [5, tr.1094]. Tại cao nguyên An Khê Pháp lập một số khu chăn nuôi ngựa, trâu, bò, cừu dưới sự trông coi của Quan thú y người Pháp và người Việt. Năm 1933, tại đây nuôi được 20 con ngựa, 441 con bò, 20 con trâu và 116 con cừu. Từ năm 1939 đến năm 1945, tại An Khê bên cạnh chăn nuôi trâu, ngựa, dê, cừu và gà, chính quyền thực dân chú trọng bảo quản và duy trì các loại con giống. Chăn nuôi bò ở đây đạt hiệu quả cao là nhờ áp dụng kỹ thuật lai tạo giống từ châu Âu. Vùng rừng núi có nhiều động vật và thực vật, nên các hoạt động săn bắn và hái lượm giữ vai trò chủ đạo trong đời sống kinh tế của hầu hết các tộc người An Khê. Đối với thuế khóa, từ nửa cuối thế kỷ XVIII, bộ máy chính quyền chúa Nguyễn mục nát, xã KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN14 T Ạ P C H Í K H O A H Ọ C C Ô N G N G H Ệ V À M Ô I T R Ư Ờ N G hội chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Ở An Khê tầng lớp quan lại địa phương bóc lột nông dân đến tột cùng với hàng trăm thứ thuế như: Thuế thổ sản, ruộng đất, chăn nuôi, buôn bán, thuế chợ, thuế thân và thuế đinh; đánh thuế đến cả những vật phẩm vụn vặt. Từ cuối thế kỷ XIX - nửa đầu thế kỷ XX, nơi đây thực dân Pháp bắt người dân địa phương phải đi xâu 1 năm là 20 ngày (10 ngày công ích, 10 ngày tư ích). Ngoài ra, phải nộp thuế đốt rẫy, thuế đầu thú; việc nộp thuế là nghĩa vụ của người dân dưới chế độ thực dân phong kiến. Theo đó, mỗi người Bahnar phải nộp thuế cho Chánh tổng An Khê một gùi lúa, một số làng phải nộp bằng trầu và mây. Nhưng việc đánh thuế thường xuyên của chính quyền bảo hộ rất khó, vì những vật phẩm đó thường rơi vào tay các quan lại nhà Nguyễn. Chúng thiết lập bộ máy cai trị khá chặt chẽ, khu thứ nhất có Nha huyện Tân An, Nha đại lý, đồn khố xanh, lập đồn phòng giữ nghiêm ngặt, việc xét xử tội phạm ở hạt An Khê được giao về tòa án Kon Tum xét xử. Từ năm 1929 - 1933, thực dân Pháp tăng cường bóc lột, trong đó chủ yếu là tăng thuế. Ngày 8/11/1928, Toàn quyền Đông Dương ra Chỉ thị sửa đổi thuế ở Trung Kỳ, theo đó từ ngày 1/1/1929, tất cả dân Trung Kỳ từ 16 tuổi đến 60 tuổi đều phải chịu mức thuế thân là 2,5đ. Ngoài ra họ còn phải đóng thêm một khoảng phụ thu theo tỉ lệ từng vùng. Ở An Khê người dân phải nộp phụ thu là 20%, tức thêm 0,5đ thành 3đ/ người, đến năm 1940 tăng thêm 3,2đ. Riêng năm 1933, huyện Tân An có 3 tổng, 29 làng và số tiền thu từ thuế như sau: “tổng An Khê: 3.739đ 30 thuế đinh và 1.461đ 08 thuế điền thổ, tổng Tân Phong: 1.387đ 35 thuế đinh và 748đ 72 thuế điền thổ” [10, tr. 5]. Ngoài ra, thuế ruộng đất cũng rất nặng, An Khê là vùng đất mới khai phá nhưng vẫn áp dụng biểu thức như đồng bằng, năm 1929 thực dân Pháp thu được 1221,33đ, đến năm 1933 tăng lên 2844,89đ. Nhất là thuế đinh và thuế điền thổ ở huyện Tân An (1929 - 1933). Bảng 1. Thống kê việc đánh thuế đối với người Kinh huyện Tân An (An Khê) từ năm 1929 - 1933 Đơn vị Năm Thuế đinh Thuế điền thổ Huyện Tân An 1929 5322,00đ 211,33đ 1930 5168,00đ 204,31đ 1931 5370,00đ 2206,33đ 1932 5337,00đ 215,87đ 1933 5465,00đ 2849,89đ Năm 1933, chính quyền thực dân thu thuế đinh tại các làng thuộc Tổng An Khê như sau: “Cửu An (1.134,60 đồng), Thượng An (256,20 đồng), An Thượng (344,25 đồng), Cửu Định (250,10 đồng), An Mỹ (64,05 đồng), Gia Hội (79,30 đồng), Cửu Đạo (231,80 đồng), An Bình (122,00 đồng), Tú Thủy (183,00 đồng), An Quý (70,15 đồng)” [1, tr.31]. Thực dân Pháp còn quy định lại số mẫu ruộng phải bán lúa, nộp lúa. Với mức thu đó làm cho nhiều gia đình không có khả năng đóng các loại thuế theo quy định, nông dân bỏ sản xuất, thiếu lượng thực, đời sống các tầng lớp nhân dân trở nên cơ cực. Trong những năm Chiến tranh Thế giới thứ hai (1939 - 1945), nhất là từ khi Nhật vào Đông Dương thì sưu thuế tăng lên một cách vô lý. Ở An Khê chúng bắt các chủ doanh nghiệp, công ty, các điền chủ kê khai tài sản nhất là lương thực. Lập hệ thống tổ chức “Liên nông thương đoàn” để kiểm soát và độc quyền vơ vét nông sản phẩm của nông dân, cưỡng bức nhân dân quyên góp mua công trái, trưng thu, trưng mua thóc gạo. Đối với vùng đồng bào Kinh thì căn cứ vào diện tích đất đai trồng trọt để nộp thuế. Vùng dân tộc thiểu số mỗi người nộp 50 kg, thực chất là trắng trợn cướp bóc tài lực, vật lực của nhân dân, là nguyên nhân gây ra nạn đói khủng khiếp. 2. Về tiểu thủ công nghiệp và thương nghiệp. Đối với tiểu thủ công nghiệp, từ cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX, người Bahnar ở vùng An Khê tiếp tục duy trì việc làm lưới đánh cá, làm các bẫy thú, đặc biệt là nghề làm chiêng đồng, dệt vải truyền thống. Người Kinh phát huy nghề làm rựa, cuốc, rèn sắt để làm các vật dụng phục vụ sản xuất, làm nồi đồng, biết làm KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 15 S Ố 0 2 N Ă M 2 0 19áo bằng da trâu, đan lát (rổ, rá, rổ sấy bằng tre). Nghề làm đồ gốm có trang trí hoa văn, nghề dệt, nghề mộc khá phát triển. Ở An Khê, do tính chất lao động còn mang tính tự nhiên, sản phẩm thủ công làm ra chủ yếu dựa vào cơ bắp chứ không bằng máy móc. Dù lao động tự giác, nhưng ở trình độ kỹ thuật rất thấp như: Nghề rèn kém phát triển, gốm không làm bằng bàn xoay, đan lát theo mẫu đơn giản, nghề dệt đúng hơn là đan sợi, chưa có khung cửi. Khu vực Cửu An (An Khê), đến đầu thế kỷ XX có các lò gốm của ông Nguyễn Ảnh, Phan Gia chuyên làm các sản phẩm như: gạch thẻ, ngói, nồi, trã, bọng giếng, muỗng đường. Đã cung cấp một khối lượng tương đối lớn cho địa phương và vùng lân cận. Từ năm 1941, ở An Khê xây dựng lò gạch để sản xuất vật liệu xây dựng, làm xe kéo để chuyên chở. Năm 1943 tư bản Anh, Pháp, Nhật cấu kết với nhau chiếm 200 ha đất ở ngã ba Đồng Găng mở cơ sở sản xuất và chế biến thuốc lá MIC. Đối với thương nghiệp, từ cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX, vùng An Khê với nguồn Cầu Bông (nay là khu vực Chợ Đồn, phường An Bình) trở thành nơi giao dịch, trao đổi, buôn bán. Sau đó chuyển xuống nguồn Phương Kiệu (tức là An Lũy, hiện nay thuộc phường Tây Sơn). Đây cũng là nơi trao đổi các sản phẩm thủ công nghiệp, mua bán hàng nông lâm thổ sản. An Sơn là chợ trung gian tiếp nhận và phân phối hàng hóa chủ yếu của người Kinh, nhưng trong hoạt động buôn bán với người Bahnar bị nhà Nguyễn cấm đoán. Ngoài ra, chè ở Tân Phong là mặt hàng nổi tiếng của người Kinh dùng để xuất khẩu đi các nước nhất là các nước thuộc địa của Pháp. Cau và sắn ở đây thông qua mua bán, trao đổi giữa các vùng ít nhiều tạo ra thu nhập kinh tế cho người dân địa phương. Ở An Khê, sáp ong là đặc sản vùng miền được đem bán ở các chợ và chịu thuế, “sáp ong có thuế mỗi năm phải nộp đối với Nguồn Phương Kiệu là 340 cân lĩnh” [9, tr.59]. Những giống cây trồng dài ngày và ngắn ngày như: cam, quít, thơm, chuối, dừa, mít, thuốc, rau cải..., được các nhà buôn thu mua xuống bán ở chợ Quy Nhơn. Những năm đầu thế kỷ XX, cao nguyên An Khê được người Pháp kinh doanh nuôi gia súc mang lại nguồn lợi lớn và trở thành nguồn cung cấp ra thị trường như: Trâu, bò, ngựa cho các địa phương khác và thường xuất vào Nam Kỳ bằng đường bộ. Việc buôn bán với người Bahnar được nhiều lái buôn ở đồng bằng lên trao đổi, trước tiên là chợ Trạm Gò (nay là xã Cửu An). Đó là chợ người Kinh được người Bahnar lui tới trao đổi, mua bán hàng hóa, đã tạo điều kiện cho thương mại phát triển. Nhiều đoàn người Bahnar theo ngựa hoặc voi xuống huyện Bình Khê mua muối hoặc các hàng hóa khác. Người Kinh thường mang hàng hóa đi trao đổi hoặc dẫn các đoàn ngựa thồ chở nhiều muối. Những trung tâm mua bán nhỏ tiếp tục hình thành trong vùng thu hút sự buôn bán từ đồng bằng nhất là từ Bình Khê lên. Ở hai Tổng Tân Phong và An Khê chủ yếu sống bằng nghề buôn bán và họ vào tận các làng để trao đổi sản phẩm. Khu vực từ cầu Sông Ba trở xuống diễn ra cảnh buôn bán nhộn nhịp, giàu sức sống: Khu thứ nhì (khu thứ nhất là Tân An) có phố xá, chợ búa buôn bán phồn thịnh, người Kinh và người Bahnar thường đến trao đổi sản vật. Những năm 20 của thế kỷ XX, hình thành nhiều chợ khá nổi tiếng ở An Khê như: Chợ An Khê, chợ Đồn, chợ Tú Thủy. Với những hoạt động giao thương này, nghề buôn bán trở nên phổ biến đối với người Kinh, họ trao đổi với đồng bào các dân tộc thiểu số mà hồi đầu thế kỷ trước thường được gọi là nghề buôn thượng. Từ năm 1932 - 1939, theo Công báo Trung Kỳ ngày 27/8/1932, chính quyền thực dân đã xuất đi các giống bò, ngựa, cừu thuộc Sở chăn nuôi An Khê: 12 con bò cái giống Anamit, 2 con ngựa non và 9 con cừu cái Kelantan. Ngày 13/10/1932, tại An Khê chính quyền thực dân đã thành lập một Ủy ban điều tra để kiểm soát khâu buôn bán trâu và bò. Tại chợ An Khê và chợ Đồn việc buôn bán thường xuyên thay phiên bán các mặt hàng: Muối, vòng đồng, hạt cườm, vải, dây nịt, dù trắng, chiêng. Còn “những chợ kia thì mỗi tháng 6 phiên, người dân tộc ít người về đây buôn bán. KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN16 T Ạ P C H Í K H O A H Ọ C C Ô N G N G H Ệ V À M Ô I T R Ư Ờ N G Tú Thủy vào các ngày 2, 7, 12, 17, 22, 27 Âm lịch; Cửu An là ngày 3, 8, 13, 18, 23, 28 Âm lịch” [11, tr.541]. Chính quyền nơi đây cho các nhà buôn các nơi được phép tới lui buôn bán ở An Khê, việc lập phố xá bán các sản phẩm thủ công nghiệp như: Hàng xén, quần áo, nông cụ. Thuốc lá là mặt hàng thường xuất khẩu đi nơi khác: Năm 1934, thuốc hạng nhất được bán với giá từ 17 xu - 18 xu/kg, các tiểu thương từ Quy Nhơn lên mua thuốc lá bán cho xưởng thuốc điếu Sài Gòn. Từ 1941, cơ sở chế biến thuốc lá MIC với mục đích xuất khẩu, nhưng với giá cả không cao. Khi chế độ thực dân được xác lập từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1930, người dân phải chịu nhiều thứ thuế đã ảnh hưởng đến sự phát triển của thủ công nghiệp và thương nghiệp: Thuế chợ, thuế muối, thuế môn bài..., riêng thuế môn bài được áp dụng đối với người kinh ở huyện Tân An (An Khê) từ năm 1930 - 1933 như sau: “Năm 1930: 658,17 đồng, năm 1931: 658,17 đồng, năm 1932: 634,57 đồng, năm 1933: 593,28 đồng” [8, tr.49]. Với mức thuế đó làm cho người dân địa phương rơi vào cảnh kiệt quệ. Ở An Khê, do hậu quả chiến tranh đã làm rối loạn kinh tế (thủ công nghiệp và thương nghiệp trong thời kỳ thực dân, phong kiến còn mang tính chất nhỏ bé, lạc hậu). Do nạn đầu cơ tích trữ, thị trường khan hiếm, giá cả tăng vọt và sinh hoạt đắt đỏ nên nhân dân phải gánh chịu mọi nỗi khổ. Từ đó, họ đấu tranh bằng hình thức giấu diện tích sản xuất, vốn kinh doanh; chống bắt lính, nộp thuế thân, thuế môn bài. Kinh tế An Khê bị thực dân Pháp kiểm soát trong các ngành, mang bản chất chèn ép bóc lột và phục vụ lợi ích cho tư bản Pháp. Trên vùng đất An Khê từ nửa sau thế kỷ XIX đến năm 1945, nền kinh tế nông nghiệp gắn liền với trồng lúa nước gần sông suối và lúa rẫy. Những người Kinh từ đồng bằng đến đây đã áp dụng phương thức canh tác và kỹ thuật mới tiến bộ rõ rệt, nên năng suất lao động tăng lên. Nhưng trình trạng bị chiếm đoạt ruộng đất của thực dân phong kiến, nên nông dân mất đất canh tác. Ngoài kinh tế trồng trọt, chăn nuôi, săn bắn và hái lượm truyền thống của nhân dân, chính quyền thực dân lập các đồn điền trồng cây công nghiệp mang yếu tố kinh tế tư bản chủ nghĩa. Tại An Khê, tư bản Pháp tiến hành xây dựng các trại chăn nuôi trâu, bò, ngựa, cừu với nhiều giống quý hiếm. Là đặc trưng mang tính qui mô hơn so với chăn nuôi truyền thống và khác với các vùng ở Gia Lai. Sản phẩm từ chăn nuôi được tiêu thụ trong nước và xuất đi thị trường các nước. Thủ công nghiệp truyền thống có sự phát triển đáng kể, bên cạnh còn có công ty tư bản đầu tư vào lĩnh vực này. Thương mại có sự chuyển mình, thực dân Pháp cho các nhà buôn đến đây, nguồn hàng hóa từ các nơi được đưa đến các chợ (trong đó chủ yếu hàng hóa từ Bình Định đưa lên) nhất là vùng thị trấn An Khê để buôn bán. Nhìn chung, nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp trong thời kỳ này còn nhiều hạn chế, mang tính nhỏ lẻ. Đó là do kỹ thuật canh tác còn lạc hậu ở một số vùng, chính sách thuế hà khắc của chính quyền thực dân, phong kiến đã đẩy các tầng lớp nhân dân An Khê chủ yếu là nông dân rơi vào cảnh khó khăn thiếu thốn, nhất là trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945)./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã An Khê (2015), Lịch sử truyền thống cách mạng xã Cửu An (1945 - 2015), (NXB Chính trị quốc gia). 2. Nguyễn Kinh Chi - Nguyễn Đổng Chi (2011), Người Ba-Na ở Kon Tum, (NXB Tri thức). 3. Ch. Trinquet (1905), Le Plateau đ’ An Khê Province đe Bình Định (người dịch: Nguyễn Mại), lưu Thư viện tỉnh Bình Định. 4. Lộc Xuyên Đặng Quý Địch, Ai đã khai lập đất An Khê, Tạp chí xưa và nay, tháng 11/2009, số (343), trang 17 - 18. 5. Etablissements d’Elevage d’An Khe (Kon Tum), Huế, ngày 10/8/1932, 13/10/1932, 25/10/1932, phông Công báo/hồ sơ J.1309, Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV. (Người dịch: TS.Nguyễn Thị Ái Quỳnh, khoa Ngoại ngữ, Trường ĐH Quy Nhơn). 6. Kon Tum tỉnh chí, Tạp chí Nam Phong, năm 1934, số (193), trang 31. 7. Lettre de l’ Établissements L.Delignon Mensieur le Résident de France à Qui Nhơn, 12/12/1918, phông Tòa khâm sứ Trung Kỳ SRA/hồ sơ 4200, Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV. 8. Mặt trận tổ quốc Việt Nam tỉnh Gia Lai (2006), Lịch sử mặt trận tổ quốc Việt Nam tỉnh Gia Lai, (NXB Chính trị quốc gia). 9. Quốc sử quán triều Nguyễn (1971), Đại Nam nhất thống chí, tập 3, quyển IX, tỉnh Bình Định, (NXB Khoa học xã hội). 10. Tỉnh ủy Gia Lai - Kon Tum, Chính sách nô dịch của Pháp ở Gia Lai - Kon Tum trước cách mạng tháng Tám năm 1945, TL Ban tuyên giáo tỉnh Gia Lai, ký hiệu: số 2 - tập 1. 11. Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai (1999), Địa chí Gia Lai, (NXB Văn hóa dân tộc).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf48_1926_2207554.pdf
Tài liệu liên quan