Tài liệu Vài nét về kinh tế vùng đất An Khê từ sau thế kỷ XIX đến năm 1945: KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 11
S
Ố
0
2
N
Ă
M
2
0
19
An Khê là cửa ngõ lên Tây Nguyên tiếp giáp với đồng bằng thông qua quốc lộ chiến lược 19. Từ khi triều Nguyễn được thành
lập (1802), nhằm xóa đi tiềm thức của nhân dân
đối với nhà Tây Sơn, vua Gia Long đổi tên An
Sơn thành An Tây (thế kỷ XVIII, gọi là Tây Sơn
thượng đạo). Từ khi nhà Nguyễn lập Nha Kinh
lí An Khê năm 1877, những dòng người Kinh di
cư đến, nên các làng người Kinh ở đây lần lược
được hình thành dọc Nam Sông Ba. Đầu thế kỷ
XX, nhà Nguyễn lập ra đơn vị hành chính cấp
Tổng, với hai Tổng An Khê và Tân Phong (thuộc
cao nguyên An Khê, huyện Bình Khê - tỉnh Bình
Định). Năm 1917, An Khê thuộc tỉnh Kon Tum,
đến năm 1943 được sáp nhập vào tỉnh Pleiku và
được nâng cấp thành Địa lý hành chính. Trong
xã hội An Khê, sự phân hóa giai cấp, địa vị xã hội
và thái độ chính trị khác nhau, các giai cấp: nông
dân, công nhân, tiểu tư sản và một bộ phận tư
sản dân tộc có tinh thần yêu nước chố...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 441 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vài nét về kinh tế vùng đất An Khê từ sau thế kỷ XIX đến năm 1945, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 11
S
Ố
0
2
N
Ă
M
2
0
19
An Khê là cửa ngõ lên Tây Nguyên tiếp giáp với đồng bằng thông qua quốc lộ chiến lược 19. Từ khi triều Nguyễn được thành
lập (1802), nhằm xóa đi tiềm thức của nhân dân
đối với nhà Tây Sơn, vua Gia Long đổi tên An
Sơn thành An Tây (thế kỷ XVIII, gọi là Tây Sơn
thượng đạo). Từ khi nhà Nguyễn lập Nha Kinh
lí An Khê năm 1877, những dòng người Kinh di
cư đến, nên các làng người Kinh ở đây lần lược
được hình thành dọc Nam Sông Ba. Đầu thế kỷ
XX, nhà Nguyễn lập ra đơn vị hành chính cấp
Tổng, với hai Tổng An Khê và Tân Phong (thuộc
cao nguyên An Khê, huyện Bình Khê - tỉnh Bình
Định). Năm 1917, An Khê thuộc tỉnh Kon Tum,
đến năm 1943 được sáp nhập vào tỉnh Pleiku và
được nâng cấp thành Địa lý hành chính. Trong
xã hội An Khê, sự phân hóa giai cấp, địa vị xã hội
và thái độ chính trị khác nhau, các giai cấp: nông
dân, công nhân, tiểu tư sản và một bộ phận tư
sản dân tộc có tinh thần yêu nước chống thực
dân, phong kiến. Từ nửa sau thế kỷ XIX đến năm
Vài nét về kinh tế vùng đất An Khê
ThS. NGUYỄN VĂN NGUYÊN
Trường THPT Nguyễn Trãi, thị xã An Khê, Gia Lai
1945, trên vùng đất An Khê người Kinh và các
dân tộc ít người đã chung sức đóng góp trong
công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội
làm thay đổi bộ mặt quê hương.
1. Về kinh tế nông nghiệp
Đối với trồng trọt, An Khê có điều kiện tự
nhiên tương đối thuận lợi. Núi rừng trùng điệp,
xen kẽ là đất đai bằng phẳng và sông suối. Nên
phù hợp cho phát triển kinh tế nông nghiệp như:
Trồng trọt và chăn nuôi, săn bắn thú rừng, khai
thác các nguồn lâm thổ sản quí hiếm nên sớm
thu hút cư dân từ đồng bằng lên lập nghiệp.
Ở vùng An Khê, kinh tế nông nghiệp của
người Kinh gắn liền với quá trình khai hoang, lập
ấp. Năm Tự Đức thứ 30 (1877), Bố chánh tỉnh Bình
Định là Phan Văn Điển dâng sớ xin khai hoang,
lập ấp ở An Khê. Đến năm 1878, Trần Văn Thiều
đến vùng đất An Khê mộ dân khẩn điền. “Ông
Trần Văn Thiều về Nha Kinh lí An Khê, cùng Bố
chánh tỉnh Bình Định là Phan Văn Điển thực hiện
từ nửa sau thế kỷ XIX đến năm 1945
An Khê trong những năm 1877 đến 1945, kinh tế nông nghiệp luôn gắn
với quá trình trồng trọt và chăn nuôi, nhất là tư bản Pháp đầu tư lập đồn điền
trồng cây công nghiệp và xây dựng trang trại chăn nuôi gia súc. Bên cạnh, còn
có hoạt động hái lượm, săn bắn ở vùng đồng bào Bahnar. Là nơi sớm chịu ách
thống trị thực dân, phong kiến khá nặng nề, người dân phải đóng nhiều loại
thuế. Trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, có nhiều bước tiến đáng kể, trong đó
tập trung phát triển thủ công nghiệp truyền thống. Thương nghiệp thời kỳ này
có sự tiến bộ rõ rệt, đó là sự giao lưu buôn bán giữa người Kinh và dân tộc thiểu
số thông qua các phiên chợ đầu mối. Là thời điểm thiết lập trao đổi, buôn bán
giữa đồng bằng và vùng cao An Khê. Do chính sách của chính quyền cai trị ở
đây và việc lưu thông hàng hóa còn gặp khó khăn, đã hạn chế thúc đẩy thương
nghiệp phát triển.
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN12
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G công tác khẩn hoang” [4, tr.18]. Trong 3 năm khai
khẩn, biến rừng hoang thành ruộng vườn trồng
lúa nước và lúa rẫy, phá đồi núi làm làng mạc và
lập 28 thôn hai bên bờ sông Ba. Cùng với đồng
bào thiểu số và người Kinh đã dốc toàn lực, bất
kể rừng thiên nước độc, chiêu dân từ đồng bằng
khai phá, nên vùng An Khê trở thành mảnh đất
trù phú, dân cư đông đúc, nông lâm sản dồi dào.
Từ đó, nhiều khu vườn mọc lên như: Trồng cam,
quít, thơm, chuối, dừa, mít, thuốc lá, rau cải.
Từ giữa thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, vùng đất
An Khê đã tiếp nhận những dòng người Kinh từ
Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Huế lên
lập nghiệp, làm nông nhất là trồng lúa nước và
lúa rẫy. Các vạn, trại, làng như vạn An Lợi, làng
An Hội, làng An Dân gắn với tên tuổi của những
người có công khai phá, được dân làng sùng kính
(như Chín Vác ở làng An Dân).
Khoảng năm 1910, người dân Cửu An đã
tiến về phía tây khai khẩn đất hoang (nay là
An Xuân 2) để làm ruộng, vài năm sau cư dân
từ đồng bằng lên (chủ yếu từ Bình Định, Huế)
và lập làng An Xuân. Họ đến đây đem theo cây,
con giống và các công cụ sản xuất, với thói quen
canh tác và kinh nghiệm sản xuất được áp dụng
vào vùng đất mới, nên năng suất lao động có
bước phát triển hơn. Tuy nhiên, sự tiến bộ này
chỉ ảnh hưởng nhiều nhất đến vùng người Kinh.
Đặc trưng của kinh tế nông nghiệp truyền
thống là làm rẫy - một hình thức trồng trọt chủ
yếu và thu nhập chính của cư dân An Khê (sản
xuất theo phương thức du canh). Nó không chỉ
có ý nghĩa về kinh tế mà cả trong đời sống văn
hóa tâm linh, mặt dù có sự hiện diện ở mức độ
nhất định của ruộng nước và vườn. Nhìn chung,
trước khi thực dân Pháp xâm lược, kinh tế truyền
thống của họ còn mang tính tự cấp, tự túc.
Ngày 20/7/1898, Toàn quyền Đông Dương
ra Nghị định và treo giải thưởng cho các chủ đồn
điền trồng cà phê, chè, thuốc lá nhằm khuyến
khích tư bản Pháp đẩy mạnh việc khai thác đồn
điền trồng cây công nghiệp và An Khê nằm
trong chủ trương đó, nên quyền sở hữu tập thể
và đất đai của cộng đồng không còn được tôn
trọng như trước.
Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ
nhất (1897 - 1914), thực dân Pháp đề ra kế
hoạch trồng cây công nghiệp, nhằm thu nhiều
lãi mà ít chi phí. Họ cướp nương rẫy, ruộng lúa
của nhân dân để lập các đồn điền, biến một bộ
phận nhân dân địa phương cùng với phu mộ từ
đồng bằng trở thành công nhân. Số công nhân
này vừa trồng cây công nghiệp (chè, cà phê, cao
su), cấy lúa, trồng cây lương thực..., nhân lực lao
động chủ yếu là cư dân bản địa làm thuê cho
các đồn điền.
Từ năm 1898 đến trước năm 1945, ở tỉnh
Gia Lai - Kon Tum theo thống kê có 14 đồn điền
lớn nhỏ. Ở An Khê là nơi thực dân Pháp sớm tiến
hành khai thác, tiêu biểu là công ty Delignon
và Paris “chiếm 531,6 ha đất ở Đak Jappau (Đăk
Chầu Bầu) - An Khê để trồng chè, cao su, cam”
[6, tr.31]. Ngoài ra, còn trồng nhiều loại cà phê
(Libéria, Arabica, Môka), tre, cau, hạt tiêu. Từ
năm 1905 còn trồng dâu và diện tích trồng dâu
tăng lên nhằm phục vụ cho Sở Tơ tằm ở Bình
Định. Qua những lần kiểm nghiệm, các loại cây
trồng mới đòi hỏi nhiều vốn, nhiều công chăm
sóc và sự kén đất của giống mới, nên chưa đưa
lại kết quả cao.
Việc khai phá đất đai canh tác được đẩy
mạnh, “huyện Tân An có 1.079 mẫu 9 ruộng và
đất trồng 2.956 mẫu 8” [10, tr.7]. Ngoài trồng
lạc, mía, mít, bưởi, ngô, măng, cầu xiêm ..., nhất
là trồng chè ở Tân Phong. Các loại rau, cây trồng
làm thức ăn và làm thuốc trị bệnh được trồng
như: rau cần, thơm tàu, cải, rau răm, dền gai, rau
má, lá lốt, me đất, rau muốn, lá é, khóm, ngải
cứu, sắn, cau.
Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất (1914 -
1918), dưới hình thức “đoạn trưng” và “tạm trưng”
thực dân Pháp đã cướp 25.540 ha đất để lập các
đồn điền rộng lớn trồng cây công nghiệp. Từ
năm 1925 - 1926, ở An Khê các nhà tư bản Pháp
tiếp tục đua nhau chiếm đất và lập đồn điền, tiêu
biểu là đồn điền M. Ymatz trồng cà phê, thuốc
lá, cau, đậu phộng.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 -
1933, thực dân Pháp đẩy mạnh chiếm đất lập
đồn điền. Nhiều công trình trồng thử nghiệm
cà phê và cao su được tiến hành ở Chợ Đồn. Tại
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 13
S
Ố
0
2
N
Ă
M
2
0
19đồn Bà Bạc (thuộc Đak Jappau) chuyên trồng cây
lương thực và cây công nghiệp. Đối với đồn điền
trồng cây công nghiệp ở An Khê, tư bản Pháp
thuê mướn công nhân tập trung có sử dụng máy
móc, kỹ thuật mới và mang dáng dấp của nền
kinh tế công nghiệp. Tuy nhiên, về cơ bản vẫn
là một ngành trồng trọt chủ yếu dựa vào sức lao
động của công nhân.
Do tác động của chính sách trên, người
dân An khê mất đất canh tác, nhất là đất trồng
lúa và các loại cây hoa màu khác. Trong thời kỳ
Chiến tranh Thế giới thứ nhất (1914 - 1918), để
khắc phục phần nào tình trạng thiếu đói ở An
Khê và trước yêu cầu đóng góp lương thực của
chính quyền thực dân, công ty L.Delignon gửi
thư cho Công sứ Quy Nhơn ngày 12/12/1918,
để được hỗ trợ gạo cho nhân dân An Khê trong
năm 1919 là “3.900 kg gạo và sẵn sàng cung cấp
lúa” [7, tr.127].
Trong thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ
hai của thực dân Pháp. Các Tổng người Kinh ở
Tân Phong và An Khê dựa vào vùng trũng đất
đai màu mỡ, người dân trồng lúa trên nương
rẫy (có cả giống lúa đỏ) và làm ruộng nhưng
khá bấp bên. Những năm 30 của thế kỷ XX, ở An
Khê nhất là vùng An Điền, An Thạch (Cửu An) đất
đai rộng nhiều chỗ bỏ hoang, những người có
năng lực mộ dân khai phá lập thêm nhiều làng
mới trong vùng An Xuân, Cửu Đạo, Tú Thủy (xã
Tú An) và chịu mức thuế khá nhẹ. Lệ nhà nước
định: “Thuế đinh phải nộp liền mỗi người 4đ 0,5,
thuế thân là 3đ 0,5 và thuế tư ích là 1đ 00, thuế
đất thì đợi 3 năm sau mới nộp” [2, tr.143]. Những
người nghèo lên làm ăn muốn nhập tịch thì xin
Lý trưởng và thông qua đó trình lên quan Quản
đạo. Người dân có cuộc sống tương đối no ấm
với những món ăn đậm chất vùng miền: thịt heo,
gà, bò, khoai, đậu, bắp, rau cải; trồng các loại cây
ăn trái trong vườn, nhà ở làm bằng ngói, sạch sẽ.
Đối với chăn nuôi, cuối thế kỷ XIX, ở hai tổng
Tân Phong và An Khê, người dân chú trọng chăn
nuôi trâu, ngựa: “Khoảng 1.000 con trâu và gần
2.000 con ngựa” [3, tr.34]. Riêng đồn điền Đak
Jappau (An Khê) được lập vào tháng 6/1898 đã
tiến hành nuôi 200 con bò và 90 con ngựa. Đồn
điền M. Ymatz còn nuôi trâu, bò, gà các loại.
Ngoài ra, tại An Khê các sản phẩm từ chăn nuôi
gia súc, gia cầm được chở xuống Quy Nhơn để
xuất khẩu hoặc tiêu thụ. Trong quý 2 năm 1933,
chở xuống Quy Nhơn để gửi qua Hồng Kông
227 con gà, 15 con trâu và 10,437 tấn da trâu, bò.
Tư bản Pháp còn chiếm ruộng đất của nông
dân lập các trang trại chăn nuôi cừu, ngựa, làm
vườn ươm và các trại thực nghiệm. Theo Công
văn ngày 16/11/1907 của Công sứ Quy Nhơn gửi
Khâm sứ Trung Kỳ báo cáo về các giống ngựa
đực tại Bình Định, trong đó có 3 giống thuộc trại
ngựa An Khê là: Cao Bang, Mauvezin, Yunnam.
Đây là những giống ngựa khá quý hiếm có nhiều
khả năng phát triển ở vùng khí hậu An Khê.
Để đẩy mạnh quy mô phát triển chăn nuôi,
từ đầu thế kỷ XX thực dân Pháp chiếm hơn 1.000
ha đất ở An Khê lập cơ sở chăn nuôi bò, ngựa
và lai giống ngựa. Theo Nghị định 997 ngày
5/8/1916 của Khâm sứ Trung Kỳ đã trưng dụng
cho Sở thú y Trung Kỳ mảnh đất thuộc công sản
Trung Kỳ nằm trong khu vực trại ngựa An Khê,
Quy Nhơn. Ngoài ra, Sở thú y nuôi bò, cừu và đặt
dưới sự theo dõi, giám sát việc chăn nuôi của
Thanh tra thú y Le Louet.
Từ năm 1932, chăn nuôi đem lại lợi nhuận
khá cao. Theo Công báo Trung Kỳ, tại Sở chăn
nuôi An Khê tiến hành bán bò, trâu, ngựa, cừu
gồm: “10 con bò cái giống Anamit, 3 con bò
mộng, 1 con trâu, 1 con ngựa cái, 1 con ngựa
non, 5 con cừu cái Kelantan” [5, tr.1094]. Tại cao
nguyên An Khê Pháp lập một số khu chăn nuôi
ngựa, trâu, bò, cừu dưới sự trông coi của Quan
thú y người Pháp và người Việt. Năm 1933, tại
đây nuôi được 20 con ngựa, 441 con bò, 20 con
trâu và 116 con cừu.
Từ năm 1939 đến năm 1945, tại An Khê bên
cạnh chăn nuôi trâu, ngựa, dê, cừu và gà, chính
quyền thực dân chú trọng bảo quản và duy trì
các loại con giống. Chăn nuôi bò ở đây đạt hiệu
quả cao là nhờ áp dụng kỹ thuật lai tạo giống
từ châu Âu. Vùng rừng núi có nhiều động vật và
thực vật, nên các hoạt động săn bắn và hái lượm
giữ vai trò chủ đạo trong đời sống kinh tế của
hầu hết các tộc người An Khê.
Đối với thuế khóa, từ nửa cuối thế kỷ XVIII,
bộ máy chính quyền chúa Nguyễn mục nát, xã
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN14
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G hội chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Ở An Khê tầng
lớp quan lại địa phương bóc lột nông dân đến
tột cùng với hàng trăm thứ thuế như: Thuế thổ
sản, ruộng đất, chăn nuôi, buôn bán, thuế chợ,
thuế thân và thuế đinh; đánh thuế đến cả những
vật phẩm vụn vặt.
Từ cuối thế kỷ XIX - nửa đầu thế kỷ XX, nơi
đây thực dân Pháp bắt người dân địa phương
phải đi xâu 1 năm là 20 ngày (10 ngày công ích,
10 ngày tư ích). Ngoài ra, phải nộp thuế đốt rẫy,
thuế đầu thú; việc nộp thuế là nghĩa vụ của
người dân dưới chế độ thực dân phong kiến.
Theo đó, mỗi người Bahnar phải nộp thuế cho
Chánh tổng An Khê một gùi lúa, một số làng
phải nộp bằng trầu và mây.
Nhưng việc đánh thuế thường xuyên của
chính quyền bảo hộ rất khó, vì những vật phẩm
đó thường rơi vào tay các quan lại nhà Nguyễn.
Chúng thiết lập bộ máy cai trị khá chặt chẽ, khu
thứ nhất có Nha huyện Tân An, Nha đại lý, đồn
khố xanh, lập đồn phòng giữ nghiêm ngặt, việc
xét xử tội phạm ở hạt An Khê được giao về tòa
án Kon Tum xét xử.
Từ năm 1929 - 1933, thực dân Pháp tăng
cường bóc lột, trong đó chủ yếu là tăng thuế.
Ngày 8/11/1928, Toàn quyền Đông Dương ra
Chỉ thị sửa đổi thuế ở Trung Kỳ, theo đó từ ngày
1/1/1929, tất cả dân Trung Kỳ từ 16 tuổi đến 60
tuổi đều phải chịu mức thuế thân là 2,5đ. Ngoài
ra họ còn phải đóng thêm một khoảng phụ thu
theo tỉ lệ từng vùng. Ở An Khê người dân phải
nộp phụ thu là 20%, tức thêm 0,5đ thành 3đ/
người, đến năm 1940 tăng thêm 3,2đ. Riêng
năm 1933, huyện Tân An có 3 tổng, 29 làng và số
tiền thu từ thuế như sau: “tổng An Khê: 3.739đ
30 thuế đinh và 1.461đ 08 thuế điền thổ, tổng
Tân Phong: 1.387đ 35 thuế đinh và 748đ 72 thuế
điền thổ” [10, tr. 5].
Ngoài ra, thuế ruộng đất cũng rất nặng, An
Khê là vùng đất mới khai phá nhưng vẫn áp dụng
biểu thức như đồng bằng, năm 1929 thực dân
Pháp thu được 1221,33đ, đến năm 1933 tăng lên
2844,89đ. Nhất là thuế đinh và thuế điền thổ ở
huyện Tân An (1929 - 1933).
Bảng 1. Thống kê việc đánh thuế đối với
người Kinh huyện Tân An (An Khê) từ năm
1929 - 1933
Đơn vị Năm Thuế đinh Thuế điền thổ
Huyện
Tân An
1929 5322,00đ 211,33đ
1930 5168,00đ 204,31đ
1931 5370,00đ 2206,33đ
1932 5337,00đ 215,87đ
1933 5465,00đ 2849,89đ
Năm 1933, chính quyền thực dân thu thuế
đinh tại các làng thuộc Tổng An Khê như sau:
“Cửu An (1.134,60 đồng), Thượng An (256,20
đồng), An Thượng (344,25 đồng), Cửu Định
(250,10 đồng), An Mỹ (64,05 đồng), Gia Hội
(79,30 đồng), Cửu Đạo (231,80 đồng), An Bình
(122,00 đồng), Tú Thủy (183,00 đồng), An Quý
(70,15 đồng)” [1, tr.31]. Thực dân Pháp còn quy
định lại số mẫu ruộng phải bán lúa, nộp lúa. Với
mức thu đó làm cho nhiều gia đình không có khả
năng đóng các loại thuế theo quy định, nông
dân bỏ sản xuất, thiếu lượng thực, đời sống các
tầng lớp nhân dân trở nên cơ cực.
Trong những năm Chiến tranh Thế giới thứ
hai (1939 - 1945), nhất là từ khi Nhật vào Đông
Dương thì sưu thuế tăng lên một cách vô lý. Ở An
Khê chúng bắt các chủ doanh nghiệp, công ty,
các điền chủ kê khai tài sản nhất là lương thực.
Lập hệ thống tổ chức “Liên nông thương đoàn”
để kiểm soát và độc quyền vơ vét nông sản phẩm
của nông dân, cưỡng bức nhân dân quyên góp
mua công trái, trưng thu, trưng mua thóc gạo.
Đối với vùng đồng bào Kinh thì căn cứ vào diện
tích đất đai trồng trọt để nộp thuế. Vùng dân tộc
thiểu số mỗi người nộp 50 kg, thực chất là trắng
trợn cướp bóc tài lực, vật lực của nhân dân, là
nguyên nhân gây ra nạn đói khủng khiếp.
2. Về tiểu thủ công nghiệp và thương
nghiệp.
Đối với tiểu thủ công nghiệp, từ cuối thế
kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX, người Bahnar ở
vùng An Khê tiếp tục duy trì việc làm lưới đánh
cá, làm các bẫy thú, đặc biệt là nghề làm chiêng
đồng, dệt vải truyền thống. Người Kinh phát
huy nghề làm rựa, cuốc, rèn sắt để làm các vật
dụng phục vụ sản xuất, làm nồi đồng, biết làm
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 15
S
Ố
0
2
N
Ă
M
2
0
19áo bằng da trâu, đan lát (rổ, rá, rổ sấy bằng tre).
Nghề làm đồ gốm có trang trí hoa văn, nghề dệt,
nghề mộc khá phát triển. Ở An Khê, do tính chất
lao động còn mang tính tự nhiên, sản phẩm thủ
công làm ra chủ yếu dựa vào cơ bắp chứ không
bằng máy móc. Dù lao động tự giác, nhưng ở
trình độ kỹ thuật rất thấp như: Nghề rèn kém
phát triển, gốm không làm bằng bàn xoay, đan
lát theo mẫu đơn giản, nghề dệt đúng hơn là
đan sợi, chưa có khung cửi. Khu vực Cửu An (An
Khê), đến đầu thế kỷ XX có các lò gốm của ông
Nguyễn Ảnh, Phan Gia chuyên làm các sản phẩm
như: gạch thẻ, ngói, nồi, trã, bọng giếng, muỗng
đường. Đã cung cấp một khối lượng tương đối
lớn cho địa phương và vùng lân cận.
Từ năm 1941, ở An Khê xây dựng lò gạch để
sản xuất vật liệu xây dựng, làm xe kéo để chuyên
chở. Năm 1943 tư bản Anh, Pháp, Nhật cấu kết
với nhau chiếm 200 ha đất ở ngã ba Đồng Găng
mở cơ sở sản xuất và chế biến thuốc lá MIC.
Đối với thương nghiệp, từ cuối thế kỷ XVIII
- nửa đầu thế kỷ XIX, vùng An Khê với nguồn
Cầu Bông (nay là khu vực Chợ Đồn, phường
An Bình) trở thành nơi giao dịch, trao đổi, buôn
bán. Sau đó chuyển xuống nguồn Phương Kiệu
(tức là An Lũy, hiện nay thuộc phường Tây Sơn).
Đây cũng là nơi trao đổi các sản phẩm thủ công
nghiệp, mua bán hàng nông lâm thổ sản. An
Sơn là chợ trung gian tiếp nhận và phân phối
hàng hóa chủ yếu của người Kinh, nhưng trong
hoạt động buôn bán với người Bahnar bị nhà
Nguyễn cấm đoán.
Ngoài ra, chè ở Tân Phong là mặt hàng nổi
tiếng của người Kinh dùng để xuất khẩu đi các
nước nhất là các nước thuộc địa của Pháp. Cau
và sắn ở đây thông qua mua bán, trao đổi giữa
các vùng ít nhiều tạo ra thu nhập kinh tế cho
người dân địa phương. Ở An Khê, sáp ong là đặc
sản vùng miền được đem bán ở các chợ và chịu
thuế, “sáp ong có thuế mỗi năm phải nộp đối
với Nguồn Phương Kiệu là 340 cân lĩnh” [9, tr.59].
Những giống cây trồng dài ngày và ngắn ngày
như: cam, quít, thơm, chuối, dừa, mít, thuốc, rau
cải..., được các nhà buôn thu mua xuống bán ở
chợ Quy Nhơn.
Những năm đầu thế kỷ XX, cao nguyên An
Khê được người Pháp kinh doanh nuôi gia súc
mang lại nguồn lợi lớn và trở thành nguồn cung
cấp ra thị trường như: Trâu, bò, ngựa cho các địa
phương khác và thường xuất vào Nam Kỳ bằng
đường bộ. Việc buôn bán với người Bahnar được
nhiều lái buôn ở đồng bằng lên trao đổi, trước
tiên là chợ Trạm Gò (nay là xã Cửu An). Đó là chợ
người Kinh được người Bahnar lui tới trao đổi,
mua bán hàng hóa, đã tạo điều kiện cho thương
mại phát triển. Nhiều đoàn người Bahnar theo
ngựa hoặc voi xuống huyện Bình Khê mua muối
hoặc các hàng hóa khác.
Người Kinh thường mang hàng hóa đi trao
đổi hoặc dẫn các đoàn ngựa thồ chở nhiều
muối. Những trung tâm mua bán nhỏ tiếp tục
hình thành trong vùng thu hút sự buôn bán từ
đồng bằng nhất là từ Bình Khê lên. Ở hai Tổng
Tân Phong và An Khê chủ yếu sống bằng nghề
buôn bán và họ vào tận các làng để trao đổi sản
phẩm. Khu vực từ cầu Sông Ba trở xuống diễn ra
cảnh buôn bán nhộn nhịp, giàu sức sống: Khu
thứ nhì (khu thứ nhất là Tân An) có phố xá, chợ
búa buôn bán phồn thịnh, người Kinh và người
Bahnar thường đến trao đổi sản vật.
Những năm 20 của thế kỷ XX, hình thành
nhiều chợ khá nổi tiếng ở An Khê như: Chợ An
Khê, chợ Đồn, chợ Tú Thủy. Với những hoạt động
giao thương này, nghề buôn bán trở nên phổ
biến đối với người Kinh, họ trao đổi với đồng
bào các dân tộc thiểu số mà hồi đầu thế kỷ trước
thường được gọi là nghề buôn thượng.
Từ năm 1932 - 1939, theo Công báo Trung
Kỳ ngày 27/8/1932, chính quyền thực dân đã
xuất đi các giống bò, ngựa, cừu thuộc Sở chăn
nuôi An Khê: 12 con bò cái giống Anamit, 2
con ngựa non và 9 con cừu cái Kelantan. Ngày
13/10/1932, tại An Khê chính quyền thực dân
đã thành lập một Ủy ban điều tra để kiểm soát
khâu buôn bán trâu và bò.
Tại chợ An Khê và chợ Đồn việc buôn bán
thường xuyên thay phiên bán các mặt hàng:
Muối, vòng đồng, hạt cườm, vải, dây nịt, dù
trắng, chiêng. Còn “những chợ kia thì mỗi tháng
6 phiên, người dân tộc ít người về đây buôn bán.
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN16
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G Tú Thủy vào các ngày 2, 7, 12, 17, 22, 27 Âm lịch;
Cửu An là ngày 3, 8, 13, 18, 23, 28 Âm lịch” [11,
tr.541]. Chính quyền nơi đây cho các nhà buôn
các nơi được phép tới lui buôn bán ở An Khê, việc
lập phố xá bán các sản phẩm thủ công nghiệp
như: Hàng xén, quần áo, nông cụ. Thuốc lá là mặt
hàng thường xuất khẩu đi nơi khác: Năm 1934,
thuốc hạng nhất được bán với giá từ 17 xu - 18
xu/kg, các tiểu thương từ Quy Nhơn lên mua
thuốc lá bán cho xưởng thuốc điếu Sài Gòn. Từ
1941, cơ sở chế biến thuốc lá MIC với mục đích
xuất khẩu, nhưng với giá cả không cao.
Khi chế độ thực dân được xác lập từ cuối thế
kỷ XIX đến năm 1930, người dân phải chịu nhiều
thứ thuế đã ảnh hưởng đến sự phát triển của thủ
công nghiệp và thương nghiệp: Thuế chợ, thuế
muối, thuế môn bài..., riêng thuế môn bài được
áp dụng đối với người kinh ở huyện Tân An (An
Khê) từ năm 1930 - 1933 như sau: “Năm 1930:
658,17 đồng, năm 1931: 658,17 đồng, năm 1932:
634,57 đồng, năm 1933: 593,28 đồng” [8, tr.49].
Với mức thuế đó làm cho người dân địa phương
rơi vào cảnh kiệt quệ.
Ở An Khê, do hậu quả chiến tranh đã làm
rối loạn kinh tế (thủ công nghiệp và thương
nghiệp trong thời kỳ thực dân, phong kiến còn
mang tính chất nhỏ bé, lạc hậu). Do nạn đầu cơ
tích trữ, thị trường khan hiếm, giá cả tăng vọt và
sinh hoạt đắt đỏ nên nhân dân phải gánh chịu
mọi nỗi khổ. Từ đó, họ đấu tranh bằng hình thức
giấu diện tích sản xuất, vốn kinh doanh; chống
bắt lính, nộp thuế thân, thuế môn bài. Kinh tế
An Khê bị thực dân Pháp kiểm soát trong các
ngành, mang bản chất chèn ép bóc lột và phục
vụ lợi ích cho tư bản Pháp.
Trên vùng đất An Khê từ nửa sau thế kỷ XIX
đến năm 1945, nền kinh tế nông nghiệp gắn
liền với trồng lúa nước gần sông suối và lúa rẫy.
Những người Kinh từ đồng bằng đến đây đã
áp dụng phương thức canh tác và kỹ thuật mới
tiến bộ rõ rệt, nên năng suất lao động tăng lên.
Nhưng trình trạng bị chiếm đoạt ruộng đất của
thực dân phong kiến, nên nông dân mất đất
canh tác. Ngoài kinh tế trồng trọt, chăn nuôi,
săn bắn và hái lượm truyền thống của nhân
dân, chính quyền thực dân lập các đồn điền
trồng cây công nghiệp mang yếu tố kinh tế tư
bản chủ nghĩa.
Tại An Khê, tư bản Pháp tiến hành xây dựng
các trại chăn nuôi trâu, bò, ngựa, cừu với nhiều
giống quý hiếm. Là đặc trưng mang tính qui
mô hơn so với chăn nuôi truyền thống và khác
với các vùng ở Gia Lai. Sản phẩm từ chăn nuôi
được tiêu thụ trong nước và xuất đi thị trường
các nước. Thủ công nghiệp truyền thống có sự
phát triển đáng kể, bên cạnh còn có công ty tư
bản đầu tư vào lĩnh vực này. Thương mại có sự
chuyển mình, thực dân Pháp cho các nhà buôn
đến đây, nguồn hàng hóa từ các nơi được đưa
đến các chợ (trong đó chủ yếu hàng hóa từ Bình
Định đưa lên) nhất là vùng thị trấn An Khê để
buôn bán.
Nhìn chung, nông nghiệp, thủ công nghiệp
và thương nghiệp trong thời kỳ này còn nhiều
hạn chế, mang tính nhỏ lẻ. Đó là do kỹ thuật canh
tác còn lạc hậu ở một số vùng, chính sách thuế
hà khắc của chính quyền thực dân, phong kiến
đã đẩy các tầng lớp nhân dân An Khê chủ yếu
là nông dân rơi vào cảnh khó khăn thiếu thốn,
nhất là trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai
(1939 - 1945)./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã An Khê (2015), Lịch sử
truyền thống cách mạng xã Cửu An (1945 - 2015), (NXB Chính
trị quốc gia).
2. Nguyễn Kinh Chi - Nguyễn Đổng Chi (2011), Người
Ba-Na ở Kon Tum, (NXB Tri thức).
3. Ch. Trinquet (1905), Le Plateau đ’ An Khê Province đe
Bình Định (người dịch: Nguyễn Mại), lưu Thư viện tỉnh Bình Định.
4. Lộc Xuyên Đặng Quý Địch, Ai đã khai lập đất An Khê,
Tạp chí xưa và nay, tháng 11/2009, số (343), trang 17 - 18.
5. Etablissements d’Elevage d’An Khe (Kon Tum), Huế, ngày
10/8/1932, 13/10/1932, 25/10/1932, phông Công báo/hồ sơ
J.1309, Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV. (Người dịch: TS.Nguyễn
Thị Ái Quỳnh, khoa Ngoại ngữ, Trường ĐH Quy Nhơn).
6. Kon Tum tỉnh chí, Tạp chí Nam Phong, năm 1934, số
(193), trang 31.
7. Lettre de l’ Établissements L.Delignon Mensieur le
Résident de France à Qui Nhơn, 12/12/1918, phông Tòa khâm
sứ Trung Kỳ SRA/hồ sơ 4200, Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV.
8. Mặt trận tổ quốc Việt Nam tỉnh Gia Lai (2006), Lịch sử
mặt trận tổ quốc Việt Nam tỉnh Gia Lai, (NXB Chính trị quốc gia).
9. Quốc sử quán triều Nguyễn (1971), Đại Nam nhất
thống chí, tập 3, quyển IX, tỉnh Bình Định, (NXB Khoa học xã hội).
10. Tỉnh ủy Gia Lai - Kon Tum, Chính sách nô dịch của Pháp
ở Gia Lai - Kon Tum trước cách mạng tháng Tám năm 1945, TL
Ban tuyên giáo tỉnh Gia Lai, ký hiệu: số 2 - tập 1.
11. Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai (1999), Địa chí Gia Lai,
(NXB Văn hóa dân tộc).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 48_1926_2207554.pdf