Tài liệu Vài nét về giáo dục và khoa bảng ở Thái Nguyên thời phong kiến: Đỗ Hằng Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 47 - 52
47
VÀI NÉT VỀ GIÁO DỤC VÀ KHOA BẢNG Ở THÁI NGUYÊN
THỜI PHONG KIẾN
Đỗ Hằng Nga*
Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Ngày nay, Thái Nguyên được biết đến là một trung tâm lớn về đào tạo nguồn nhân lực cho khu
vực trung du và miền núi phía Bắc. Địa bàn Thái Nguyên có các trường đại học, cao đẳng và trung
học chuyên nghiệp thuộc nhiều ngành khác nhau. Thành tựu giáo dục của Thái Nguyên có nền
tảng từ trong lịch sử. Tính từ khi thành lập Văn Miếu - Quốc Tử Giám, nền giáo dục và khoa bảng
thời phong kiến ở Việt Nam kéo dài gần 10 thế kỷ. Suốt tiến trình lịch sử đó, giáo dục Thái
Nguyên đã có những đóng góp đáng kể cho nền giáo dục dân tộc. Nơi đây là vùng đất còn nhiều
khó khăn nhưng người dân có truyền thống hiếu học, nhiều người đỗ cao trong các khoa thi
Hương, thi Hội, giữ chức vụ quan trọng trong triều đình, cống hiến cho đất nước.
Từ khóa: Giáo dục, kì thi, Nho học, Thái Nguyên, phong k...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 708 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vài nét về giáo dục và khoa bảng ở Thái Nguyên thời phong kiến, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đỗ Hằng Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 47 - 52
47
VÀI NÉT VỀ GIÁO DỤC VÀ KHOA BẢNG Ở THÁI NGUYÊN
THỜI PHONG KIẾN
Đỗ Hằng Nga*
Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Ngày nay, Thái Nguyên được biết đến là một trung tâm lớn về đào tạo nguồn nhân lực cho khu
vực trung du và miền núi phía Bắc. Địa bàn Thái Nguyên có các trường đại học, cao đẳng và trung
học chuyên nghiệp thuộc nhiều ngành khác nhau. Thành tựu giáo dục của Thái Nguyên có nền
tảng từ trong lịch sử. Tính từ khi thành lập Văn Miếu - Quốc Tử Giám, nền giáo dục và khoa bảng
thời phong kiến ở Việt Nam kéo dài gần 10 thế kỷ. Suốt tiến trình lịch sử đó, giáo dục Thái
Nguyên đã có những đóng góp đáng kể cho nền giáo dục dân tộc. Nơi đây là vùng đất còn nhiều
khó khăn nhưng người dân có truyền thống hiếu học, nhiều người đỗ cao trong các khoa thi
Hương, thi Hội, giữ chức vụ quan trọng trong triều đình, cống hiến cho đất nước.
Từ khóa: Giáo dục, kì thi, Nho học, Thái Nguyên, phong kiến
MỞ ĐẦU1
Trong lịch sử, Thái Nguyên là vùng đất
không xa Kinh đô Thăng Long, tiếp giáp với
đất học Kinh Bắc. Điều kiện kinh tế - xã hội
của Thái Nguyên còn nhiều khó khăn nhưng
người dân sớm có truyền thống hiếu học, học
hành đỗ đạt, cống hiến cho đất nước. Thời
phong kiến, giáo dục Thái Nguyên đã có
những đóng góp đáng kể cho nền giáo dục
dân tộc.
Đối với địa phương được coi là phên dậu phía
Bắc kinh thành Thăng Long xưa, các triều đại
quân chủ đã có những chính sách khuyến
khích tích cực để phát triển văn hóa - xã hội
nói chung, giáo dục nói riêng. Thời nhà
Nguyễn, năm Tự Đức thứ 34 (1881), khi định
lệ thi cử trong nước, chia sĩ tử các địa phương
ra làm nhiều “thành” (10 người là một thành),
mỗi thành chọn lấy 4 người thì Nhà nước vẫn
cho phép Thái Nguyên 10 người được lấy 5
hoặc 6 vì “số sĩ tử ít ỏi” [5, tr.49-50].
Cùng với Nhà nước, các làng xã - đặc biệt là
các làng xã vùng trung du ở Thái Nguyên
cũng có truyền thống trọng kẻ sĩ - trọng người
có học. Về danh, các nho sĩ được trọng vọng;
về lợi, các nho sĩ được hưởng những ưu đãi.
Hội Tư văn (hội của các nho sĩ trong làng xã)
được chia các khoản tiền cheo cưới, tiền ký
*
Tel: 0967 968273, Email: ngadh@tnu.edu.vn
táng, tiền nhập tịch; được chia phần biếu
trong các dịp khao lão, khao vọng, tế lễ của
làng. Nhiều làng xã quy định miễn các tạp
dịch cho học trò như xã Sơn Cốt (tổng Hoàng
Đàm, huyện Phổ Yên) quy định học trò đang
đi học và những người thi đỗ, mở lớp dạy học
thì được “dân tha phu” [3]. Xã Lợi Xá (tổng
Hoàng Đàm, huyện Phổ Yên) quy định ai thi
đỗ mà “khao vọng đồng dân, về sau tứ quý tại
đình, nếu có sát sinh đồng dân kính biếu sinh
thủ một cái để trọng đạo văn” [2].
Chính sách của nhà nước quân chủ và sự đối
đãi của các làng xã với nho sĩ có giá trị
khuyến khích tinh thần học tập của con em
Thái Nguyên thời phong kiến.
NỘI DUNG
Giáo dục Nho học ở Thái Nguyên thời
phong kiến
Khảo sát hệ thống di tích lịch sử văn hoá và
các ghi chép của thư tịch cho thấy sự tồn tại
của Văn Miếu, trường học, văn chỉ, đền thờ
danh nhân khoa bảng, văn bia - những công
trình và dấu tích phản ánh nền giáo dục thời
phong kiến ở Thái Nguyên.
Trong nền giáo dục thời phong kiến, trường
công là trường của Nhà nước. Tiêu biểu cho
trường công thời phong kiến ở Kinh đô là
Quốc tử giám - cơ sở đầu tiên của nền giáo
dục đại học nước ta. Từ thời Trần, Nhà nước
Đỗ Hằng Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 47 - 52
48
bắt đầu ban chiếu về việc mở mang trường
học; ở cấp tỉnh có trường đốc, cấp huyện có
trường huấn. Việc học hành ở cấp huyện do
các quan giáo thụ và giám thư khố phụ trách,
còn ở cấp tỉnh do quan đốc học trông nom.
Trước thế kỷ XIX, không tài liệu nào còn lưu
giữ có ghi chép về trường công trên địa bàn
Thái Nguyên.
Thế kỷ XIX, dưới triều Nguyễn, Thái Nguyên
gồm hai phủ: Phú Bình và Thông Hóa. Cả
phủ Phú Bình có chung một trường học.
Trường phủ đặt ở địa phận xã Phù Liễn,
huyện Động Hỉ, ngoài cửa tây tỉnh thành, có
đốc học trông coi. Từ “năm Minh Mệnh 16,
bỏ chức đốc học, bổ chức giáo thụ” [6,
tr.165]. Cũng trong thời Minh Mệnh, toàn
tỉnh Thái Nguyên được lập một cơ quan Học
chính. Nhà nước đặt quan chức coi việc học ở
Thái Nguyên cũng như những nơi khác, “hai
huyện Bình Xuyên, Phổ Yên về phủ Phú
Bình, tỉnh Thái Nguyên, mỗi huyện đều đặt
một huấn đạo” [2, tr.142] coi chung về việc
học. Việc trường học được mở ít ỏi là đặc
điểm chung của khu vực miền núi dưới thời
phong kiến. Khu vực biên giới phía Bắc thời
nhà Nguyễn chỉ có một vài trường của Nhà
nước mở như trường học phủ Sơn Định
(Quảng Yên), trường học phủ Gia Hưng
(Hưng Hóa), trường học phủ Yên Bình
(Tuyên Quang), trường học phủ Trùng Khánh
(Cao Bằng).
Bên cạnh trường công, Văn Miếu, văn chỉ và
đền Khải Thánh được nhiều làng xã ở Thái
Nguyên xây dựng thờ Khổng Tử và các bậc
tiên hiền để tỏ lòng tri ân với những người
khai sinh, phát triển Nho học, đồng thời giáo
dục truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo
cho con em địa phương. Thời nhà Nguyễn,
nhà nước đề cao Nho học và giáo dục. Tỉnh
Thái Nguyên có một Văn Miếu và một đền
khải thánh. Mục Đền Miếu của Đại Nam nhất
thống chí có ghi: “Văn Miếu, đền Khải Thánh
Thái Nguyên: đều ở địa phận xã Đồng Lẫm
(Bẩm) về phía bắc tỉnh thành, trước ở địa
phận xã Cốt Ngạnh, huyện Phổ Yên, dựng
năm Minh Mệnh thứ 13 (1832), năm Thiệu
Trị thứ 4 (1850) dời đến chỗ hiện nay” [6,
tr.167]. Tại xóm Văn Thánh, xã Đồng Bẩm,
nay thuộc địa bàn thành phố Thái Nguyên,
vẫn còn lưu giữ một tấm bia đá “Hạ Mã” chỉ
còn lại một nửa, cao gần 1m, bằng đá thanh,
đẽo gọt trau chuốt, hình dáng giống như cột
cây số, được xác định là tấm bia “Hạ Mã” của
di tích đền Khải Thánh từ thế kỷ XIX. Bên
cạnh đền Khải Thánh, Văn Miếu của tỉnh
được đặt ở xã Cốt Ngạnh của huyện Phổ Yên.
Đến năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), công trình
này dời đến xã Đồng Lẫm về phía bắc tỉnh
thành [6, tr.177]. Đây là Văn Miếu thuộc
hàng tỉnh. Thời Minh Mệnh, khi triều đình đặt
cơ quan Học chính để cai quản việc học ở
Thái Nguyên thì Văn Miếu này thuộc về Học
chính. Như thế, cả Văn Miếu và đền Khải
Thánh đều được hình thành đầu thời nhà
Nguyễn, năm 1832, là giai đoạn vua Minh
Mệnh đã lên ngôi được 13 năm. Nhà nước
quân chủ đang trên bước đường tiếp tục củng
cố, mở mang, phát triển giáo dục. Nhiều chiếu
lệnh được ban hành, trong đó có chính sách
giáo dục, chú trọng lựa chọn người tài qua các
khoa thi. Thái Nguyên tuy thuộc khu vực khó
khăn nhưng cũng được áp dụng các chính
sách tôn vinh giáo dục. Việc Nhà nước cho
phép dựng lại Văn Miếu và đền Khải Thánh
là một minh chứng.
Cùng với Văn Miếu, rải rác trong các làng xã
còn xuất hiện Văn chỉ. Tư liệu địa phương
cho biết Thái Nguyên có 3 huyện dựng văn
chỉ là huyện Phổ Yên, huyện Tư Nông (nay là
huyện Phú Bình) và huyện Động Hỉ (di tích
Văn chỉ thuộc địa bàn nay là thành phố Thái
Nguyên). Trong số đó, hai văn chỉ ở Nga My
và An Châu (huyện Tư Nông) là lớn hơn cả.
Một số nơi như xã Thù Lâm (tổng Tiên Thù,
huyện Phổ Yên), xã Sơn Cốt (tổng Hoàng
Đàm, huyện Phổ Yên),... tuy sự học không
mấy phát triển, làng chưa có khoa bảng,
nhưng vẫn dựng Văn chỉ để tỏ lòng tôn thờ
đạo học và khuyến khích con cháu học hành.
Xã Sơn Cốt (tổng Hoàng Đàm, huyện Phổ
Đỗ Hằng Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 47 - 52
49
Yên) có Văn chỉ được nhận ruộng chia từ
người mua Hậu Thần. Tháng 2 và tháng 5
hàng năm, dân làng đều tế lễ ở Văn chỉ [3].
Các thành viên hội Tư văn sau khi chết cũng
được thờ ở Văn chỉ. Văn chỉ có kết cấu đơn
giản, thường được xây dựng cùng với quần
thể đình, chùa, đền, miếu, nghè của làng. Quy
mô nhỏ, kiến trúc bình đồ hình vuông, không
có mái che, có khi chỉ là một vài cái bệ như
bàn thờ đắp bằng vôi vữa, trên đặt bát hương,
không có tượng.
Giáo dục Nho học thời phong kiến còn thông
qua việc giáo dục trong gia đình và dạy học
trong dân gian của các thầy đồ. Ở Thái
Nguyên, tuy không có nhiều trường của triều
đình đặt, nhưng việc giáo dục trong gia đình
và dạy học trong dân gian của các thầy đồ thì
khá phổ biến.
Trong mỗi gia đình, ông bà, cha mẹ chỉ bảo
cho con cháu các lễ nghĩa, quy tắc đạo đức,
ứng xử theo chuẩn mực. Con trai được dạy dỗ
trở thành trụ cột gia đình, ý chí lập thân, gánh
vác việc lớn, tham gia các công việc của cộng
đồng, làng xã. Con gái được dạy công, dung,
ngôn, hạnh của nền giáo dục truyền thống,
đức tính biết chịu đựng, biết hy sinh.
Trong các làng xã, lớp học của thầy đồ được
mở nhiều, đáp ứng nhu cầu học tập của con
em nhân dân địa phương. Đối tượng đến học
thường là con nhà khá giả. Lớp học đặt tại
nhà thầy hoặc nhà dân, học trò góp tiền gạo
nuôi thầy. Dân gian còn lưu truyền về những
lớp học của thầy đồ chủ yếu vào cuối triều
Nguyễn như thôn Vân Trai (tổng Tiểu Lễ,
huyện Phổ Yên) có thầy đồ Phong, đồ Quán
thuộc dòng họ Trần trong thôn. Tảo Địch
(tổng Tiểu Lễ, huyện Phổ Yên) có thầy đồ
Chung, đồ Hiên là người từ Nam Định lên.
Phù Lôi (tổng Thượng Giã, huyện Phổ Yên)
có nhiều thầy đồ là người làng như đồ Cả, đồ
Ba, đồ Bàng, đồ Huệ, . Người dân địa
phương còn mời thêm các thầy giỏi ở tỉnh xa
như đồ Thanh (người Thanh Hóa), đồ Nghệ
(người Nghệ An), đồ Tổng (người Hưng Yên)
về làng dạy học, Trò đông hay ít tùy vào
danh tiếng của thầy. Các lớp học của thầy đồ
thường bao gồm: Lớp vỡ lòng - dạy đọc viết,
Lớp tiểu tập - dạy viết câu đối, Lớp trung tập
- hằng ngày trò nghe giảng sách, hằng tuần có
buổi tập làm văn và Lớp đại tập - trò học để
tham gia vào các kỳ thi.
Trong tỉnh, việc học hành ở địa bàn phía nam
- nơi tiếp giáp đồng bằng - có phần phát triển
hơn. Khi viết về huyện trung du Phổ Yên
(thuộc phủ Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên),
Đồng Khánh địa dư chí khẳng định rằng
“người Kinh tổng Hoàng Đàm ở hạ du là
có học hành đỗ đạt” [8, tr.797]. Ghi chép này
của Đồng Khánh địa dư chí tương đồng với
nội dung bia đá “Phối hưởng bi” viết ngày 29
tháng 11 năm Thành Thái thứ 3 (1891) - là
tấm bia văn chỉ được tìm thấy ở Hoàng Đàm -
đã phản ánh việc tập thể môn sinh góp công
vào xây dựng nhà trường, thờ phụng thầy đồ
ở địa phương. Nội dung bia cho biết ở Hoàng
Đàm (huyện Phổ Yên, phủ Phú Bình), nhà
trường cùng các học sinh “nghĩ điều sâu xa
công đức của người thầy đã khuất nên góp
tiền, góp của, lập ngôi nhà thờ phụng người
thầy. Người thầy có tấm lòng lương thiện
không lời nào có thể nói hết, tiếng thơm bất
hủ. Lại thêm nữa bản xã, văn hội tu sửa Văn
chỉ của làng, nhà trường và các học sinh vẫn
nhất nhất thuận tình tôn thầy giáo đã khuất là
Tiên sinh, lập bia ghi công đức. Người thầy
giáo họ Hoàng tên tự Phúc Long” [9].
Thành tựu khoa bảng ở Thái Nguyên thời
phong kiến
Trong tỉnh Thái Nguyên, phủ Phú Bình có ưu
thế hơn các phủ, huyện khác về giáo dục. Tác
giả Phan Huy Chú trong phần Khoa mục chí
của Lịch triều hiến chương loại chí cho biết
dưới triều Hậu Lê, phủ Phú Bình thuộc xứ
Thái Nguyên có 10 người đỗ Tiến sĩ. Trong
đó, “Huyện Phổ Yên có 1 người; huyện Động
Hỉ 3 người; huyện Phú Lương 1 người; huyện
Bình Tuyền 2 người; huyện Văn Lãng 1
người; huyện Đại Từ 1 người; huyện Tư
Nông 1 người” [1, tr.254]. Chẳng thế mà, thế
kỷ XIX ban đầu “Quảng Yên, Thái
Đỗ Hằng Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 47 - 52
50
Nguyên, Ninh Bình đều cho đặt chức Đốc học
để dạy bảo học trò” [7, tr.42]. Nhưng khi
nhận thấy sự hạn chế của giáo dục ở đây, nhà
Nguyễn đã cho “Bỏ bớt chức Đốc học tỉnh
Thái Nguyên, vì số học trò có ít”, nhưng bù
lại vẫn “sai đặt chức Giáo thụ ở phủ Phú
Bình. Những học trò phủ Thông Hóa thuộc
tỉnh Thái Nguyên đều theo học tập ở đó” [7,
tr.556]. Lịch triều hiến chương loại chí cho
rằng “Về văn học, phủ Phú Bình tuy kém 4
thừa tuyên và trấn Thanh Hóa, Nghệ An,
nhưng 7 huyện đều có người đỗ đạt” [1, tr.254].
“Bốn huyện Tư Nông, Phổ Yên, Bình Xuyên,
Động Hỉ phần nào có học” [8, tr.792]. Việc
khảo sát di sản Hán Nôm ở Thái Nguyên cũng
cho thấy đây là vùng đất có người đỗ đạt.
Các nghiên cứu đã thống kê được 9 nho sĩ
đỗ đại khoa trong thời Lê sơ, thời Mạc và
thời Lê mạt. 9 người đỗ đại khoa ở Thái
Nguyên bao gồm:
1. Trình Hiển là người mở đầu cho truyền
thống khoa bảng ở Thái Nguyên. Ông người
làng Cổ Hoằng, đỗ khoa thi Hội năm Thuận
Thiên thứ 2 (1429). Sau khi đỗ đạt, Trình
Hiển được bổ làm Chuyển vận sứ, rồi Thị ngự
sử. Đại Việt sử ký toàn thư chép về sự kiện
Trình Hiển được triều đình cử làm Phó sứ
trong đoàn sứ thần Đại Việt sang tiến cống
nhà Minh năm 1438. Trình Hiển có tài văn
chương. Toàn Việt thi lục còn lưu lại 2 tác
phẩm của ông là bài thơ Dạ bạc Hoa Lư hữu
cảm và Ngự cư tự thuật hoài.
2. Nguyễn Cấu (Nguyễn Đình Cấu) người
làng Thanh Vân, xã Thanh Thù, tổng Tiểu Lễ
(nay là làng Thanh Thù, xã Đồng Tiến, huyện
Phổ Yên). Nhân dân địa phương thường gọi
là “cụ Nghè Vân”. Ông đỗ Đệ tam giáp đồng
tiến sĩ xuất thân năm 1463. Là người có khả
năng võ bị, nên ông được chuyển sang hàng
quan võ. Ông làm quan triều Lê, làm đến
chức Thị vệ sứ, cầm đầu đội quân bảo vệ nhà
vua và triều đình.
3. Đỗ Cận tên thật là Đỗ Viễn, người làng
Thống Thượng, tổng Thống Thượng, huyện
Phổ Yên. Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ
xuất thân năm 1478 khi đã 45 tuổi. Ông tên
thật là Đỗ Viễn, nhưng khi vào dự thi Đình,
vua Lê Thánh Tông yêu mến đã chính tay ngự
phê cho ông là Đỗ Cận để thể hiện sự gần gũi
tin yêu. Sau khi thi đỗ, Đỗ Cận được bổ dụng
qua nhiều chức quan: Tham nghị xứ Thanh
Hoa, rồi Thừa chính xứ Quảng Nam, năm
1483 làm Phó sứ trong đoàn sứ bộ Đại Việt
sang giao hảo với nhà Minh. Đỗ Cận vẻ vang
trong văn nghiệp. Nhiều tác phẩm thơ văn của
ông như Kim Lăng ký viết về chuyến đi sứ ở
Trung Hoa, truyện Nôm Phan Trần, hai bài
thơ Thái thạch vãn bạc và Xuân yến thuộc
hàng trứ tác trong kho tàng văn học trung đại
Việt Nam.
4. Phạm Nhĩ sinh năm Thái Hòa thứ 8 (1450),
quê ở Đồng Bẩm, Đồng Hỷ, Thái Nguyên.
Ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân tại khoa
thi năm Hồng Đức thứ 24 (1493) triều vua Lê
Thánh Tông. Chức vụ lớn nhất mà nhà Lê
giao cho Phạm Nhĩ là Phủ doãn Phủ Phụng
Thiên - chức quan đứng đầu kinh thành
Thăng Long về mặt hành chính.
5. Đàm Sâm, người xã Sa Kệ, huyện Văn
Lãng, nay là thôn Sa Kệ, xã Văn Lăng, huyện
Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên. Đàm Sâm đỗ Đệ
Tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân khoa thi năm
Hồng Thuận thứ 3 (1511) đời vua Lê Tương
Dực. Ông làm quan đến chức Thượng thư,
chức quan đứng đầu một trong sáu bộ của
triều đình phong kiến.
6. Trịnh Bá, người xã Cù Đàm, đỗ Đệ nhị
giáp tiến sĩ xuất thân khoa thi năm Hồng Đức
thứ 6 (1514). Trên con đường quan lộ, Trịnh
Bá được triều Lê phong đến chức Binh Bộ
hữu Thị Lang, là chức quan đứng hàng thứ 3
trong việc cai quản Bộ Binh, chỉ sau Binh Bộ
Thượng thư và Binh Bộ tả Thị Lang.
7. Đàm Chí quê ở huyện Đồng Hỷ, Thái
Nguyên, đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân
khoa thi năm Đại Chính thứ 6 (1535) đời vua
Mạc Đăng Doanh. Đàm Chí làm quan tới
chức Thừa chính sứ, tước Vân Trai bá.
8. Dương Ức, quê ở Hóa Trung, Đồng Hỷ, đỗ
Tiến sĩ xuất thân khoa thi năm Hồng Thuận
Đỗ Hằng Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 47 - 52
51
thứ 6 (1514). Ông làm quan với nhà Mạc, chức
vụ lớn nhất được thụ phong là Thừa chính sứ -
chức trưởng quan đứng đầu một đạo.
9. Đồng Doãn Giai, sinh năm 1701 tại xã
Hùng Sơn, Đại Từ, Thái Nguyên. Sau khi thi
đỗ 4 kỳ thi Hương, ông làm Giám sinh, học
Quốc Tử Giám. Năm Vĩnh Hựu thứ 2 (1736),
triều vua Lê Ý Tông, ông đỗ khoa thi Hội.
Một thời gian sau, triều đình tổ chức Đình thí,
Đồng Doãn Giai đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất
thân. Sau khi đỗ, ông được bổ nhiệm chức
Hàn lâm hiệu thảo, giữ việc tu sửa Quốc sử,
về sau ông làm Đốc đồng trấn Lạng Sơn.
Ngoài các vị đỗ đại khoa, tư liệu dân gian còn
cho biết Thái Nguyên có một số nho sĩ thi đỗ
và làm quan các cấp thấp hơn như Trần
Huyền Long đỗ sinh đồ nhà Lê, làm giáo
quan giảng dạy ở trường phủ Bắc Hà. Trần
Ngọc Khuê, giám sinh Quốc tử giám, được
phong chức Trưởng vệ Tứ thành, hàm Tòng
nhị phẩm triều vua Lê Hiến Tông. Trần Thái
Vận đỗ sinh đồ thời Lê được phong hàm Thập
lý hầu chức xa giá trưởng vệ quan tại Thăng
Long. Phạm Quang Vinh đỗ Hương cống
được bổ dụng làm Tri huyện. Trần Mộng
Khải đỗ Hương cống làm quan Tham biện
trong triều, năm Minh Mệnh thứ 16 (1835)
được bổ giữ chức Tri phủ phủ Tòng Hóa.
Phạm Xuân Sắc đỗ Tam trường ở làng dạy
học cho dân,.v.v..
KẾT LUẬN
Nếu lấy mốc Nho học bắt đầu từ cuối thế kỷ
XV (với ghi chép của Thiên hạ quận quốc lợi
bệnh toàn thư) đến khi nền khoa cử phong
kiến chính thức cáo chung dưới thời Pháp
thuộc thì giáo dục Nho học ở Thái Nguyên có
lịch sử trên 400 năm, lưu lại nhiều dấu ấn
trong văn hóa địa phương. So với châu thổ
Bắc Bộ, giáo dục khoa bảng ở Thái Nguyên
không thực sự nổi bật. Nhưng với một vùng
phên dậu còn nghèo khó, thành tựu giáo dục
và khoa bảng của Thái Nguyên thời phong
kiến như thế đã là đáng kể. Thái Nguyên có
những người chiếm vị trí cao trong các khoa
thi Hương, thi Hội. Nhiều người giữ những
chức vụ quan trọng trong triều đình. Trải qua
thời gian, việc lưu trữ sách cổ bị thất lạc nên
chưa thể phản ánh hết việc học hành, khoa
bảng của tiền nhân.
Từ nền tảng sẵn có trong lịch sử, ngày nay
giáo dục Thái Nguyên càng khẳng định vị thế
của mình trong nền giáo dục dân tộc, trở
thành trung tâm giáo dục đào tạo lớn của cả
nước cùng với Hà Nội và Thành phố Hồ Chí
Minh. Đại học Thái Nguyên, với hơn 20 đơn
vị thành viên, là đại học đa ngành, đa lĩnh
vực, góp phần không nhỏ cho sự phát triển
kinh tế - văn hoá - xã hội của Thái Nguyên
nói riêng và khu vực trung du, miền núi phía
Bắc nói chung.
Bài báo là sản phẩm của Đề tài Khoa học và
công nghệ cấp Bộ mã số B2017-TNA-53 do
tác giả là chủ nhiệm đề tài
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Huy Chú (2014), Lịch triều hiến chương
loại chí, tập 1 (Dư địa chí), Nxb Trẻ, Thành phố
Hồ Chí Minh.
2. Hương ước xã Lợi Xá, tổng Hoàng Đàm, huyện
Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên năm 1942.
3. Hương ước xã Sơn Cốt, tổng Hoàng Đàm,
huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên năm 1942.
4. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê (1993), Đại
Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
bản dịch của Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
5. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại
Nam hội điển sự lệ, Nxb Thuận Hóa, Huế.
6. Quốc Sử quán triều Nguyễn (1997), Đại Nam
nhất thống chí - tập 4, Nxb Thuận Hóa, Huế.
7. Quốc Sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam
thực lục, tập 2 (bộ 10 tập), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
8. Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe
Papin (2003), Đồng Khánh địa dư chí, Nxb Thế
giới, Hà Nội.
9. Văn bia “Phối hưởng bi” ở xã Nam Tiến,
huyện Phổ Yên viết ngày 29 tháng 11 năm Thành
Thái 3 Tân Mão (1891).
Đỗ Hằng Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 47 - 52
52
SUMMARY
EDUCATION AND EXAM IN FEUDAL THAINGUYEN
Do Hang Nga
*
University of Sciences - TNU
Nowadays, Thai Nguyen is known nationwide as the big center for human resources training in
the Northern Midlands and Mountains region. Thai Nguyen has universities, colleges and
vocational training schools in many different sectors. The education achievement is a continuation
of history. Since the establishment of Van Mieu - Quoc Tu Giam, the feudal education had
prolonged about 10 centuries. During that time the education of Thai Nguyen has made a
significant contribution to the education of our ethnic. This is the land of many difficulties, but
studious, many people achieve high achievement in the feudal examinations. Some people hold the
important positions in the in the dynasty those that had contributed for our country.
Key words: education, exam, confusianism, Thainguyen, feudal
Ngày nhận bài: 22/8/2018; Ngày phản biện: 07/9/2018; Ngày duyệt đăng: 12/10/2018
*
Tel: 0967 968273, Email: ngadh@tnu.edu.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 310_492_1_pb_0582_2127085.pdf