Tài liệu Vài nét về các phương thức thể hiện tình vợ chồng trong văn học trung đại Việt Nam - Ngô Thị Thanh Nga: Tập 183, số 07, 2018
Tập 183, Số 07, 2018
Tạp chí Khoa học và Công nghệ
CHUYấN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ
Mục lục Trang
Hoàng Thị Phương Nga - Mụ hỡnh du lịch văn học “Làng Vũ Đại ngày ấy” 3
Phạm Thị Thu Hoài, Trần Thị Thanh - Tiếng lúng trong truyện về đề tài giỏo dục của Văn Thành Lờ 9
Ngụ Thị Thanh Nga, Phạm Thị Hồng Võn - Vài nột về cỏc phương thức thể hiện tỡnh vợ chồng trong văn
học trung đại Việt Nam 15
Nguyễn Thị Thắm, Nguyễn Minh Sơn - í thức đối thoại của Nguyễn Ngọc Tư với văn học truyền thống thụng
qua những nhõn vật nữ trong tập truyện Khụng ai qua sụng 21
Đặng Thị Thựy, Nguyễn Diệu Thương - Lụ gớch của cỏc hiện tượng “phi lụ gớch” trong ca dao, tục ngữ
người Việt 27
Đinh Thị Giang - Những nhõn tố ảnh hưởng đến lối sống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay 33
Nguyễn Diệu Thương, Nguyễn Thị Lan Hương - Phương thức tạo hàm ý trong tiểu phẩm trào phỳng 39
Nguyễn Thu Quỳnh, Vỡ Thị Hiền - Từ ngữ chỉ đồ gia dụng trong tiếng Thỏi ở ...
11 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 667 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vài nét về các phương thức thể hiện tình vợ chồng trong văn học trung đại Việt Nam - Ngô Thị Thanh Nga, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tập 183, số 07, 2018
Tập 183, Số 07, 2018
T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ
CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ
Môc lôc Trang
Hoàng Thị Phương Nga - Mô hình du lịch văn học “Làng Vũ Đại ngày ấy” 3
Phạm Thị Thu Hoài, Trần Thị Thanh - Tiếng lóng trong truyện về đề tài giáo dục của Văn Thành Lê 9
Ngô Thị Thanh Nga, Phạm Thị Hồng Vân - Vài nét về các phương thức thể hiện tình vợ chồng trong văn
học trung đại Việt Nam 15
Nguyễn Thị Thắm, Nguyễn Minh Sơn - Ý thức đối thoại của Nguyễn Ngọc Tư với văn học truyền thống thông
qua những nhân vật nữ trong tập truyện Không ai qua sông 21
Đặng Thị Thùy, Nguyễn Diệu Thương - Lô gích của các hiện tượng “phi lô gích” trong ca dao, tục ngữ
người Việt 27
Đinh Thị Giang - Những nhân tố ảnh hưởng đến lối sống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay 33
Nguyễn Diệu Thương, Nguyễn Thị Lan Hương - Phương thức tạo hàm ý trong tiểu phẩm trào phúng 39
Nguyễn Thu Quỳnh, Vì Thị Hiền - Từ ngữ chỉ đồ gia dụng trong tiếng Thái ở tỉnh Điện Biên 45
Nguyễn Thị Thu Oanh, Hoàng Thị Mỹ Hạnh - Vị thế, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng Sản Việt Nam giai
đoạn 1945 - 1975 và một số bài học kinh nghiệm 51
Đỗ Hằng Nga, Phạm Quốc Tuấn - Việc thu thuế trong làng xã qua tư liệu hương ước cải lương tỉnh Thái Nguyên 57
Lê Văn Hiếu - Hiệu quả hoạt động của mô hình “ban tuyên vận” xã, phường, thị trấn và “tổ tuyên vận” thôn, bản, tổ
dân phố ở tỉnh Lào Cai trong giai đoạn hiện nay 63
Thái Hữu Linh, Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Thanh Hà - Vai trò của hậu phương Bắc Thái trong cuộc
tổng tiến công Mậu Thân năm 1968 69
Phạm Anh Nguyên - Sức hấp dẫn trong Hài đàm của Phan Khôi 73
Nguyễn Thị Hường, Nguyễn Thị Mão, Nguyễn Tuấn Anh - Nâng cao hiệu quả tổ chức các hoạt động ngoại
khoá trong dạy học môn giáo dục công dân ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Thái
Nguyên hiện nay 79
Nguyễn Văn Dũng, Đào Ngọc Anh - Thực trạng thể chất của sinh viên không chuyên thể dục thể thao Trường
Đại hoc Sư phạm – Đại học Thái Nguyên 85
Trần Bảo Ngọc, Lê Ngọc Uyển, Bùi Thanh Thủy và cs - Thực trạng xếp loại tốt nghiệp sinh viên diện cử
tuyển ở trường Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên giai đoạn 2013-2017 91
Nguyễn Thúc Cảnh - Nghiên cứu xây dựng hệ thống bài tập có nội dung thực tế trong giảng dạy cơ học cho
học sinh trung học phổ thông 97
Hà Thị Kim Linh, Chu Thị Bích Huệ - Giáo dục kiến thức pháp luật cho phụ nữ vùng dân tộc thiểu số ở huyện
Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên 105
Nguyễn Thị Thanh Hồng, Nguyễn Thị Khánh Ly, Vũ Kiều Hạnh - Tăng cường sự tham gia của sinh viên
vào các hoạt động học tiếng Anh trong lớp học đông nhiều trình độ của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học
Y Dược – Đại học Thái Nguyên 111
Phạm Thị Huyền, Vũ Thị Thủy - Vận dụng phong cách nêu gương theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng
phong cách làm việc đối với cán bộ chủ chốt ở nước ta hiện nay 117
Đàm Quang Hưng - Thiết kế bài học khoa học lớp 4, lớp 5 theo hướng tìm tòi thực nghiệm 123
Hoàng Thị Thu Hoài - Những khó khăn trong việc dạy và học từ vựng tiếng Anh chuyên cho sinh viên chuyên
ngành điều dưỡng, trường Cao đẳng Y tế Thái Nguyên và một số giải pháp đề xuất 129
Journal of Science and Technology
183(07)
N¨m 2018
Nguyễn Lan Hương, Văn Thị Quỳnh Hoa - Những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng nói tiếng Anh của sinh
viên năm thứ nhất trường Đại học Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên 135
Vũ Kiều Hạnh - Những yếu tố quyết định đến mức độ đọc hiểu của sinh viên năm thứ hai tại trường Đại học
Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên 141
Nguyễn Thị Quế, Hoàng Thị Nhung - Hỏi đúng để tự học và học tập cộng tác thành công – hướng tới xây
dựng người học ngoại ngữ độc lập trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế 147
Ngô Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Hoài Thu - Ứng dụng các phương pháp giảng dạy tích cực nhằm nâng cao chất
lượng dạy – học tiếng Việt cho học viên quốc tế tại Học viện Kỹ thuật Quân sự 153
Dương Văn Tân - Đánh giá hiệu quả áp dụng trò chơi vận động trong phát triển thể lực chung cho sinh viên
trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp – Đại học Thái Nguyên 159
Bùi Thị Hương Giang - Nâng cao năng lực giao tiếp giao văn hóa trong dạy và học ngoại ngữ 165
Trần Hoàng Tinh, Nông La Duy, Phạm Văn Tuân - Xây dựng trung đội tự quản trong quản lý giáo dục tính
kỷ luật cho sinh viên tại trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh trong giai đoạn hiện nay 171
Trần Thị Yến, Khổng Thị Thanh Huyền - Sử dụng hình thức đọc chuyên sâu để nâng cao khả năng viết học
thuật cho sinh viên chuyên ngành tiếng Anh 177
Đỗ Thị Hồng Hạnh, Hoàng Mai Phương - Đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện Chợ Mới,
tỉnh Bắc Kạn 183
Trần Thùy Linh, Trần Lương Đức, Nguyễn Thị Thùy Trang - Cách tiếp cận của pháp luật cạnh tranh liên
minh châu Âu về hành vi lạm dụng mang tính trục lợi 189
Nguyễn Thị Thanh Hà, Phạm Việt Hương - Xây dựng bộ tiêu chí và chỉ số kinh tế phù hợp để đánh giá quản
lý rừng bền vững ở huyện Định Hóa 195
Đinh Thị Hoài - Truyền thông marketing sản phẩm và dịch vụ thông tin - thư viện tại Trung tâm Học liệu Đại
học Thái Nguyên 201
Nguyễn Thị Thanh Xuân - Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng sử dụng dịch vụ
khách sạn tại Thanh Hóa, Việt Nam 207
Dương Thị Tình - Đóng góp của xuất khẩu hàng hóa tới tăng trưởng kinh tế của tỉnh Yên Bái 213
Lê Minh Hải, Trần Viết Khanh - Phân tích tổ chức không gian lãnh thổ du lịch tỉnh Thái Nguyên 219
Hà Văn Vương - Vận dụng lý thuyết Ecgônômi trong tổ chức môi trường làm việc tại văn phòng chi nhánh may
Sông Công II - Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG 227
Mai Anh Linh, Nguyễn Thị Minh Anh - Đánh giá chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng: nghiên
cứu thực nghiệm tại siêu thị Lan Chi, Thái Nguyên 233
Đinh Hồng Linh, Nguyễn Thu Nga, Nguyễn Thu Hằng - Sử dụng hàm Loga siêu việt để đánh giá hiệu quả
kinh doanh của các ngân hàng Việt Nam 239
Ngô Thị Thanh Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 15 - 20
15
VÀI NÉT VỀ CÁC PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN TÌNH VỢ CHỒNG
TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
Ngô Thị Thanh Nga*, Phạm Thị Hồng Vân
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên
TÓM TẮT
Tình yêu nói chung, tình vợ chồng nói riêng là tình cảm thiêng liêng cao quý của con người. Chính
vì thế mà những ngáng trở của giáo lý phong kiến khắc nghiệt cũng không thể khuất lấp được tình
cảm cao đẹp đó. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến một số phương thức thể hiện tình cảm vợ
chồng trong văn học trung đại Việt Nam cụ thể là hai phương thức cơ bản: tự bạch (các tác giả tự
giãi bày câu chuyện tình vợ chồng của chính mình) và nhập vai (mượn câu chuyện của người khác
để thể hiện tình cảm vợ chồng). Qua hai phương thức phản ánh này, người đọc phần nào thấy được
những tình cảm trân quý thiết tha sâu nặng trong tình vợ chồng đồng thời cũng thấy được sự phong
phú của tâm hồn con người Việt Nam dù ở bất kỳ hoàn cảnh sống nào.
Từ khóa: Tình vợ chồng, văn học, Việt Nam trung đại, phương thức, tự bạch.
ĐẶT VẤN ĐỀ *
Văn học viết Việt Nam từ thế kỷ X đến hết
thế kỷ XIX là nền văn học tồn tại và phát
triển trong xã hội phong kiến. Mười thế kỷ
văn học này còn được gọi là văn học trung đại
(hay văn học cổ). Lực lượng sáng tác chủ yếu
là tầng lớp trí thức chịu ảnh hưởng sâu sắc
của Hán học. Quan niệm về văn học của họ là
coi trọng mục đích giáo huấn “thi dĩ ngôn
chí”, “văn dĩ tải đạo”. Đạo đức Nho gia
khuôn nén con người mà chủ yếu là tầng lớp
Nho sĩ. Họ phải “khắc kỷ phục lễ”, phải “tu
thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, hay “an
bần lạc đạo”...
Để chứng tỏ quyền lực tối cao và phục vụ cho
lợi ích của mình, giai cấp phong kiến thống trị
áp đặt con người cả thể xác và tâm hồn. Con
người bị trói buộc bởi các mối quan hệ, đặc
biệt là mối quan hệ nam nữ, quan hệ yêu
đương. Việc kết hôn phải do cha mẹ sắp đặt,
phải được xã hội thừa nhận.
Có thể nói, lễ giáo phong kiến đã kiềm tỏa
tình cảm của con người, không để cho tình
cảm riêng tư xuất hiện, đặc biệt là tình yêu
đôi lứa. Nhưng lịch sử loài người luôn vận
động phát triển. Cùng với quá trình thức tỉnh,
trỗi dậy lớn mạnh của con người cá nhân, thì
* Tel: 0982548560; Email: thanngamy@yahoo.com.vn
cái “tôi” trong văn học được biểu hiện rõ hơn,
tình cảm cá nhân, tình yêu (vốn có nguồn gốc
sâu xa từ văn học dân gian) dần đậm nét và
định hình trong văn học trung đại. Các nhà
nho đã dành những trang thơ văn viết về đời
sống riêng tư, về tình cảm vợ chồng thiết tha
và cảm động.
NHỮNG PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN CỤ THỂ
Các tác giả tự giãi bày câu chuyện của
chính mình
Tình yêu nói chung, tình vợ chồng nói riêng
là tình cảm thiêng liêng cao đẹp, chính vì vậy
dù có bị ngáng trở và kìm nén bởi lễ giáo thì
tình cảm ấy vẫn luôn bền bỉ sống. Lần đầu
tiên trong lịch sử văn học nước nhà, có một
bậc đại Nho dám nói lên tình yêu của mình
đối với vợ mà không phải mượn câu chuyện
tình của người khác. Đó chính là Nguyễn Trãi
- một nhân vật lớn ở thế kỷ XV, một nhà
chính trị quân sự lỗi lạc, một danh nhân văn
hóa thế giới. Qua bài thơ Tiếc cảnh số 10, ông
đã gửi nỗi nhớ nhung xen lẫn giận hờn tới
người thiếp yêu của mình:
Loàn đan ướm hỏi khách lầu hồng,
Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng.
Ngoài ấy dầu còn áo lẻ,
Cả lòng mượn đắp lấy hơi cùng.
(Quốc âm thi tập, Tiếc cảnh số 10) [1, tr. 457]
Ngô Thị Thanh Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 15 - 20
16
Nguyễn Thị Lộ là người thiếp yêu mà Nguyễn
Trãi dành tình cảm sâu sắc nhất bởi bà không
phải là một phụ nữ tầm thường. Nguyễn Thị
Lộ là một cô gái quê sắc nước hương trời của
làng Hải Triều (Thái Bình). Ở bà hội đủ những
phẩm chất tuyệt vời như: vẻ đẹp nghiêng nước
nghiêng thành, sự duyên dáng, thông minh, có
học vấn, tài đối đáp sắc sảo, đức hạnh, tính
năng động trong mọi công việc... Bà được vua
Lê Thái Tông cho vời vào cung, phong
chức Lễ nghi học sĩ (dạy lễ nghi cho các cung
phi và công chúa). Kể từ đó, Nguyễn Trãi đành
phải xa người vợ yêu của mình.
Qua bài Tiếc cảnh số 10, ông muốn gửi nỗi
nhớ thương cùng với chút hờn ghen trách móc
nhẹ nhàng tới người vợ yêu của mình. Trước
người vợ tài sắc, Nguyễn Trãi đã bộc bạch
lòng mình một cách chân tình. Ở đây, người
đọc không thấy dấu vết gì của một vĩ nhân mà
chỉ thấy tình vợ chồng đích thực, trọn vẹn.
Từ thế kỷ XVIII trở đi, những chuyển biến
mạnh mẽ của lịch sử, xã hội đã tác động sâu
sắc đến đời sống văn học. Tư tưởng dân chủ
phát triển tạo điều kiện cho con người cá nhân
xuất hiện, nhu cầu giải phóng tình cảm đã trở
nên cấp thiết, một trong những tình cảm cần
được giải phóng là tình vợ chồng. Tình yêu và
hạnh phúc gia đình trở thành một trong những
vấn đề chủ yếu của con người thời đại. Lớp
nhà nho đương thời không còn coi tình yêu là
một điều đáng sợ như các bậc nho sĩ xưa, mà
họ luôn coi trọng tình cảm này. Tình yêu trở
nên cao đẹp và là cội nguồn của hạnh phúc.
Đề tài tình yêu như có ma lực thu hút hầu hết
các tầng lớp xã hội: những sĩ phu đạo mạo,
những quan lại trang nghiêm, những tiểu thư
khuê các ... đều nói về chuyện tình yêu, tình
vợ chồng. Một số thi sĩ không chỉ mượn nỗi
lòng của kẻ khác, câu chuyện của người khác
để biểu đạt tình yêu mà còn trình bày trực tiếp
trước công chúng độc giả chuyện tình yêu của
chính mình. Đó là Nguyễn Kiều đau quặn
lòng trước linh cữu Đoàn Thị Điểm - người
vợ yêu của ông, đồng thời cũng là một trong
những nữ sĩ tài ba nhất trong lịch sử văn học
nước Nam:
Đào chưa quả đã vội khô,
Quế đang thơm mà đã rủ!
Rừng sâu bể rộng. Nàng hỡi đi đâu?
Ngọc nát châu chìm, lòng tôi quặn nhớ.
Những muốn:
Chèo thuyền nan, mà sớm phát. Đưa giá liễu
để chóng về.
Hẹn lại quê nhà an táng. Dốc đem ý hậu theo đi.
(Văn tế Đoàn Thị Điểm) [2]
Hay là Ngô Thì Sĩ đau khổ, đã phải thốt ra lời
cái ý nghĩ day dứt “Nếu sớm biết vì làm quan
xa mà phải ly biệt đau khổ đến thế, thì chức
vạn hộ hầu có đáng kể gì” trong Khuê ai lục
[3.184]; là Phạm Nguyễn Du khóc nức nở:
“Ôi ta với nàng chỉ một, cớ sao đang sum họp
phải chia lìa” trong Đoạn trường lục [4.52]; là
Hoàng hậu Lê Ngọc Hân bàng hoàng, hụt
hẫng “nỗi con côi cút, nỗi mình bơ vơ!” trong
Ai tư vãn [5.20]. Ngay cả Tự Đức - vị vua nổi
tiếng trong lịch sử triều Nguyễn cũng từng
than tiếc, nhớ nhung một người phi yêu dấu
chẳng may thác sớm:
Ới Thị Bằng ơi ! đã mất rồi!
Ới tình, ới nghĩa, ới duyên ôi!
Và còn muốn:
Đập cổ kính ra, tìm lấy bóng,
Xếp tàn y lại, để dành hơi.
(Khóc Bằng phi) [6]
Có lẽ, đây là hai câu hay nhất, lãng mạn nhất
và cảm động nhất trong bài thơ Khóc Bằng
phi của vua Tự Đức. Nhân vật trữ tình vì quá
nhớ thương người bạn đời nên đập vỡ tấm
gương cũ mà nàng đã từng soi để mong tìm
thấy bóng nàng trong đó, và xếp chiếc áo cũ
mà nàng đã từng mặc, đem cất kỹ để giữ lại
dư hương của nàng.
Còn viết về cuộc chia tay “không bao giờ gặp
lại” với người vợ cả, Nguyễn Khuyến lại sử
dụng ngôn ngữ mộc mạc hơn nhưng vẫn chan
chứa nghĩa tình. Câu đối Khóc vợ của Nguyễn
Khuyến không chỉ giúp người đọc hình dung
ra bức chân dung của người vợ cả lam lũ, suốt
Ngô Thị Thanh Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 15 - 20
17
đời chịu thương chịu khó mà còn cho thấy nỗi
lòng của nhà thơ khi vợ mất:
Lão cũng đã mừng thay! Nhờ được bà hay
lam, hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai
cồng, tất tả chân đăm đá chân chiêu, vì lão
đỡ đần trong mọi việc;
Bà đi đâu vội bấy! Để cho lão vất vơ vất
vưởng, búi tóc củ hành, buông quần lá toạ,
gật gù tay đũa chạm tay chén, cùng ai kể lể
chuyện trăm năm.
(Khóc vợ) [7, tr. 269-270]
Bà cả là người vợ mà Nguyễn Khuyến vô
cùng yêu quý, bởi bà là người kề vai sát cánh
cùng chồng vượt qua bao khó khăn thử thách.
Bà lo lắng, gánh vác, đỡ đần mọi việc để
chồng an tâm thi cử và chăm lo việc nước. Vì
vậy, khi bà mất đi thì ông cũng mất luôn một
chỗ dựa tinh thần, khiến ông sống “vất
vưởng” một mình nơi trần thế, biết cùng ai
“kể lể chuyện trăm năm”.
Nguyễn Khuyến là một nhà nho sống dưới
chế độ phong kiến nên chịu ảnh hưởng của
Đạo nho khá nhiều và cũng giống như bao
người đàn ông khác trong xã hội cũ, Nguyễn
Khuyến có tới bốn bà vợ. Tuy nhiên, ông
không thể hiện uy quyền và khuôn họ vào
những luật lệ khắt khe mà Nho giáo đề ra đối
với người phụ nữ. Vì thấu hiểu nỗi gian truân,
vất vả của người phụ nữ nên ông luôn quan
tâm, yêu thương, bảo ban vợ cũng như trân
trọng, đề cao người bạn đời tri âm tri kỉ của
mình. Mặc dù Nguyễn Khuyến dành nhiều
tình cảm cho bà cả nhất, song không quá thiên
vị ai, ông san sẻ tình cảm của mình cho bốn
bà. Ông khóc thương, day dứt ân hận khi
người vợ hai mất ở nơi đất khách quê người
mà không kịp gặp mặt bà lần cuối (Lữ thấn
khốc nội)[8], ông bày tỏ nỗi đau xót khi người
vợ tư bất hạnh chết trẻ lại không con (Vãn
thiếp Phạm thị)[8], ông đau đớn đến tột độ
thương người vợ cả mất đi mà chưa một lần
được sống trong cảnh vinh hoa phú quý (Điệu
nội)[8]. Nguyễn Khuyến chỉ có 6 tác phẩm
viết về người vợ, tuy số lượng không nhiều
nhưng cũng đủ cho thấy ông là một người
chồng thương yêu tin tưởng vợ hết mực, luôn
đề cao và coi trọng tình nghĩa vợ chồng.
Cũng giống như Nguyễn Khuyến, Tú Xương
có những sáng tác rất cảm động về vợ của
mình với sự trân trọng nể vì. Vợ ông là bà
Phạm Thị Mẫn, xuất thân dòng dõi nho gia
“con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ”. Bà là
người vợ đảm đang chịu khó, quanh năm
buôn bán nơi đầu sông cuối bến để nuôi
chồng ăn học cùng với đàn con thơ dại. Mọi
việc lớn nhỏ trong nhà đều do một tay bà Tú
gánh vác. Vì vậy, Tú Xương viết về vợ như
một sự tri ân, thể hiện thái độ trân trọng của
nhà thơ đối với vợ. Qua các bài Thương vợ,
Văn tế sống vợ... Tú Xương đã khắc họa rõ
nét và sống động hình ảnh người vợ tảo tần
với những nét phẩm chất điển hình của người
phụ nữ Việt Nam với những câu thơ cảm
động như: “Quanh năm buôn bán ở mom
sông/ Nuôi đủ năm con với một chồng/ Lặn
lội thân cò khi quãng vắng/ Eo sèo mặt nước
buổi đò đông,” [9, tr. 36].
Như vậy có thể nói, tình cảm vợ chồng là một
trong những tình cảm thiêng liêng cao quý vì
thế các giáo điều phong kiến cũng không thể
khuất lấp được. Các nho sĩ phong kiến, các
nhà Nho vốn được đào luyện trong môi
trường nho giáo lại chính là những người đã
dám bộc bạch trực tiếp tình cảm ấy ở trong
thơ. Điều này thật đáng trân trọng.
Mượn câu chuyện của người khác để giãi bày
Viết về tình vợ chồng, các nhà nho trung đại
không chỉ kể về chuyện tình của chính mình
mà họ còn mượn nỗi lòng của kẻ khác, câu
chuyện của người khác để biểu đạt tình yêu,
khát vọng hạnh phúc của con người. Ở
Chuyện người con gái Nam Xương (Truyền kì
mạn lục), Nguyễn Dữ ca ngợi sự gắn bó son
sắt trong tình cảm vợ chồng giữa Vũ Nương
và Trương Sinh. Vợ chồng họ đã từng có thời
gian sống hạnh phúc, không để xảy ra chuyện
thất hòa. Hạnh phúc đó không chỉ do sự cố
gắng của một mình Vũ Nương, mà còn do
Ngô Thị Thanh Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 15 - 20
18
Trương Sinh hết lòng chăm chút và nâng niu
tổ ấm của mình. Tình cảm của Trương Sinh
dành cho Vũ Nương hoàn toàn hồn nhiên,
trong sáng và đáng quý. Thế nhưng hạnh
phúc của vợ chồng họ quá ngắn ngủi. Nguyên
nhân chính và sâu xa dẫn đến vợ chồng âm
dương cách biệt là do “tính đa nghi”, “hay
ghen” của chồng. Trong tình yêu, ghen tuông
là điều khó tránh khỏi. Cơn ghen khiến người
chồng mất khả năng kiểm soát hành vi của
bản thân, chàng đã “mắng mỏ, nhiếc móc,
đánh đuổi” vợ. Khi Vũ Nương quyên sinh,
chàng Trương động lòng thương xót tìm vớt
thây nàng. Đây là một hành động đáng trân
trọng, thể hiện tình cảm của chàng với người
vợ bất hạnh. Sống trong sự dằn vặt, hối hận,
Trương Sinh đã lập đàn tràng giải oan cho Vũ
Nương tại bến Hoàng Giang. Có thể nói, đó là
cố gắng cuối cùng của chàng để níu kéo hạnh
phúc đã mất, nhưng tất cả đã quá muộn màng.
Qua những truyện viết về tình cảm vợ chồng
như Chuyện người con gái Nam Xương,
Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu,...
Nguyễn Dữ muốn nhắn gửi tới người đọc một
thông điệp: hãy biết trân trọng, xây dựng, bảo
vệ tình cảm gia đình, hạnh phúc lứa đôi.
Có thể nói, nếu ở thế kỷ XVI, Nguyễn Dữ đã
đề cập đến tình vợ chồng nhưng vẫn đậm chất
giáo huấn và màu sắc hoang đường kì ảo thì
từ thế kỷ XVIII trở đi, các nhà nho viết về
tình vợ chồng không còn là thứ tình e ấp,
bóng gió, kín đáo mà tình yêu luôn gắn với
khát khao hạnh phúc ái ân. Niềm khát khao
hạnh phúc ái ân ấy đã được các nhà thơ thể
hiện trong những thi phẩm hàng đầu của văn
chương thế kỷ XVIII – XIX như: Chinh phụ
ngâm khúc (Đặng Trần Côn - Đoàn Thị
Điểm), Truyền kỳ tân phả (Đoàn Thị Điểm),
Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều),
Truyện Kiều (Nguyễn Du),...
Chinh phụ ngâm khúc là lời than thở bi đát
về cuộc sống lẻ loi của người chinh phụ.
Chiến tranh đã làm cho vợ chồng nàng đang
sống hạnh phúc phải chia lìa đôi ngả. Người
chồng ra đi biền biệt, đến ngày hẹn mà vẫn
không trở về. Nàng sống trong tâm trạng
ngóng trông, chờ đợi, khát khao có được một
cuộc sống bình thường, vui vẻ hạnh phúc
bên người chồng. Năm tháng qua đi, nhớ
thương ngày một chất chồng trong lòng
người chinh phụ. Nàng tìm đến giấc mộng ái
ân với chồng để giải thoát cho nỗi nhớ mong
đằng đẵng của mình:
Duy còn hồn mộng được gần,
Đêm đêm thường tới giang tân tìm người.
Tìm chàng thuở Dương Ðài lối cũ,
Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa.
(Chinh phụ ngâm khúc) [10, tr.55]
Cung oán ngâm khúc là bài ca ai oán của
người cung nữ tài sắc lúc đầu được nhà vua
yêu chuộng, ái ân nồng nàn thắm thiết nhưng
chẳng bao lâu đã bị ruồng bỏ. Nàng đã sống
hết mình, yêu hết mình, nhưng tình yêu của
thân phận cung nữ đã không giúp nàng tìm
được hạnh phúc. Nàng sống trong tâm trạng
sầu tủi, buồn bã, nhớ nhung, giận hờn, trách
móc, thương cho tuổi xuân xanh của người
con gái trôi qua chóng vánh. Nàng khao khát
được yêu thương, được hòa hợp về thể xác và
tâm hồn với người mình yêu. Nàng thấp thỏm
chờ đợi sự đoái hoài của đấng quân vương.
Trong cuộc đời chờ đợi dài dằng dặc của
nàng, những giây phút cùng nhà vua chung
chăn chung gối được xem như một kỷ niệm
lớn. Mỗi khi hồi tưởng lại ngày đầu được nhà
vua sủng ái, người cung nữ vẫn còn rạo rực
khát khao:
Cái đêm hôm ấy đêm gì,
Bóng dương lồng bóng đồ mi trập trùng.
(Cung oán ngâm khúc) [10, tr.147]
Đâu chỉ có Đăng Trần Côn, Nguyễn Gia
Thiều mới viết về niềm khao khát hạnh phúc
ái ân của vợ chồng, mà Nguyễn Du cũng đã
đề cập tới điều này trong Truyện Kiều. Dưới
ngòi bút tài tình của Nguyễn Du, tình cảm vợ
chồng Thúy Kiều - Thúc Sinh trong những
ngày đầu thật êm ấm và tràn ngập niềm hạnh
phúc ái ân, quấn quýt:
Ngô Thị Thanh Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 15 - 20
19
Một nhà sum họp trúc mai,
Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông.
Hương càng đượm lửa càng nồng,
Càng sôi vẻ ngọc càng lồng màu sen.
[11, tr.244]
hay đầy bịn rịn, lưu luyến trong buổi chia tay:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường
(Truyện Kiều) [11, tr.252]
Như vậy, tình cảm yêu thương, tình vợ chồng
nồng ấm, thiết tha của con người không chỉ
được phản ánh một cách trực tiếp qua những
câu chuyện cảm động của chính các nhân vật
trữ tình tự bạch - tác giả mà còn được thể hiện
một cách gián tiếp. Các tác giả văn học trung
đại đã mượn những nỗi niềm, những câu
chuyện của người khác để thể hiện những
cung bậc réo rắt của tình yêu nói chung, tình
vợ chồng nói riêng. Có thể nói đây là một
trong những âm hưởng đẹp nhất của văn học
thời kỳ này.
KẾT LUẬN
Qua các mặt phân tích của vấn đề, chúng tôi
nhận thấy, vượt qua những giáo lý “khắc kỷ,
phục lễ” khắc nghiệt của lễ giáo phong kiến,
các tác giả văn chương trung đại đã thể hiện rất
sâu sắc tình cảm vợ chồng qua các sáng tác của
mình bằng những phương thức khác nhau.
Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến hai
phương thức cơ bản: tự bạch (các tác giả tự
giãi bày câu chuyện tình vợ chồng của chính
mình) và nhập vai (mượn câu chuyện của
người khác để thể hiện tình cảm vợ chồng).
Qua hai phương thức phản ánh này, những
cung bậc và sắc thái khác nhau trong tình cảm
vợ chồng đã phản ánh sự phong phú của tâm
hồn con người Việt Nam. Từ những bài thơ
nhỏ lẻ mang ý vị tình yêu của Nguyễn Trãi đến
những truyện ca ngợi tình nghĩa vợ chồng
trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ, cho
thấy chủ đề tình vợ chồng dần dần đậm nét và
định hình trong văn học trung đại. Từ thế kỷ
XVIII trở đi, với sự phát triển mạnh mẽ của tư
tưởng nhân đạo, tinh thần dân chủ, chủ đề tình
yêu nói chung, tình vợ chồng nói riêng đã nở
rộ góp phần làm nên sự phong phú, đa diện của
văn học Việt Nam thời trung đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam - Viện Sử
học (1969), Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
2. Phạm Trọng Chánh (2015), Mối tình Nguyễn
Kiều và Đoàn Thị Điểm, Nguồn Chimviet.free.fr,
truy cập ngày 14/04/2018.
3. Trần Thị Băng Thanh (1992), Ngô Thì Sĩ –
Những chặng đường thơ văn, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
4. Phạm Nguyễn Du (2001), Đoạn trường lục,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
5. Lương Văn Đang - Nguyễn Thạch Giang -
Nguyễn Lộc (1994), Những khúc ngâm chọn lọc,
tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6.ựĐứchoàngđế/KhócBằn
gphi/poemS5saLcceaEp6YRNqcwaKrQ.
7. Lại Văn Hùng (giới thiệu và tuyển chọn)
(2009), Nguyễn Khuyến tác phẩm chọn lọc, Nxb
Giáo dục Việt Nam.
8. Nhóm bài thơ: Thơ chữ
Hán (Nguyễn Khuyến)
9. Vũ Văn Sỹ, Đoàn Ánh Dương (tuyển chọn và
giới thiệu) (2009), Trần Tế Xương tác phẩm chọn
lọc, Nxb Giáo dục Việt Nam.
10. Lương Văn Đang - Nguyễn Thạch Giang -
Nguyễn Lộc (1994), Những khúc ngâm chọn lọc,
tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
11. Nguyễn Du, Truyện Kiều (1975), Hà Huy Giáp
giới thiệu, Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú
thích, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp,
Hà Nội.
Ngô Thị Thanh Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 15 - 20
20
SUMMARY
A BRIEF DESCRIPTION OF THE MODES OF EXPRESSING CONJUGAL
SENTIMENTS IN THE VIETNAM MEDIEVAL LITERATURE
Ngo Thi Thanh Nga*, Pham Thi Hong Van
TNU - University of Education
Love in general, the conjugal sentiments in particular is the noble spirit of human beings.
Therefore, the hindrances of the harsh feudal doctrine can not be hidden by such sentiments. In
this article, we discuss some of the modes in which couples express feelings in the VietNam
medieval literatute, namely two basic ways: self-disclosure (self-confessed authors her husband)
and role play (borrowing stories of other people to express their feelings for the couple). Through
these two modes of reflection, the reader is able to see the deeply cherished feelings of deep
conjugal sentiments, at the same time to see the richness of the human soul in each age.
Keywords: Conjugal sentiments, Viet Nam medieval, literature, mode, self-disclosure.
Ngày nhận bài: 16/4/2018; Ngày phản biện: 06/5/2018; Ngày duyệt đăng: 29/6/2018
* Tel: 0982548560; Email: thanngamy@yahoo.com.vn
oµ soT T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ
SOCIAL SCIENCE – HUMANITIES – ECONOMICS
Content Page
Hoang Thi Phuong Nga - Literature tourism model “the old Vu Dai village” 3
Pham Thi Thu Hoai, Tran Thi Thanh - Slang in Van Thanh Le's stories about education problems 9
Ngo Thi Thanh Nga, Pham Thi Hong Van - A brief description of the modes of expressing conjugal
sentiments in the Vietnam medieval literature 15
Nguyen Thi Tham, Nguyen Minh Son - The opposite view of Nguyen Ngoc Tu to Vietnamese traditional
literature via the main female characters in Khong ai qua song 21
Dang Thi Thuy, Nguyen Dieu Thuong - The logic of “non logic” phenomenon in Vietnamese folk verses, proverbs 27
Dinh Thi Giang - Factors affecting current lifestyle of Vietnamese people in the northern delta 33
Nguyen Dieu Thuong, Nguyen Thi Lan Huong - Mechanisms creating implication in satirical jokes 39
Nguyen Thu Quynh, Vi Thi Hien - Household vocabulary of Thai language in Dien Bien province 45
Nguyen Thi Thu Oanh, Hoang Thi My Hanh - Position, role of the communist party of Vietnam in the period
1954 – 1975 and some lessons learned 51
Do Hang Nga, Pham Quoc Tuan - Collection of taxes in the villages through material of reformist village
convention in Thai Nguyen province 57
Le Van Hieu - The efficiency of the model "propaganda department" in communes, wards, township and
"commander" in villages, cities at the current period in Lao Cai province 63
Thai Huu Linh, Nguyen Thi Thu Hien, Nguyen Thi Thanh Ha - The role of the rear Bac Thai in the 1968
general offensive 69
Pham Anh Nguyen - The attraction in “Hai dam” of Phan Khoi 73
Nguyen Thi Huong, Nguyen Thi Mao, Nguyen Tuan Anh - Enhancing the efficiency of extracurrucular
activities in teaching civic education at high schools in thai nguyen city these days 79
Nguyen Van Dung, Dao Ngoc Anh - Physical status of non-sports students at Thai Nguyen University of Education 85
Tran Bao Ngoc, Le Ngoc Uyen, Bui Thanh Thuy et al - The reality of degree classification in non-
examination students at University of Medicine and Pharmacy – Thai Nguyen University in the period from
2013 to 2017 91
Nguyen Thuc Canh - The need for buiding an exercise system with practical content to teach mechanics
to high school 97
Ha Thi Kim Linh, Chu Thi Bich Hue - Educate legal knowledge for ethnic minority women in Vo Nhai
district, Thai Nguyen province 105
Nguyen Thi Thanh Hong, Nguyen Thi Khanh Ly, Vu Kieu Hanh - Improve students’ participation in
English learning activities in large mixed ability classes of the freshman students at Thai Nguyen University of
Medicine and Pharmacy 111
Pham Thi Huyen, Vu Thi Thuy - Manipulate exemplary style according to the President Ho Chi Minh’s
thought in building work style for key caders at present period 117
Dam Quang Hung - Science lesson planning for grade 4, 5 according to experimental research 123
Hoang Thi Thu Hoai - Difficulties in teaching and learning ESP vocabulary for nursing students at Thai
Nguyen Medical College and some solutions 129
Nguyen Lan Huong, Van Thi Quynh Hoa - Determinants affecting English speaking performance of the first-
year students at Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry 135
Journal of Science and Technology
183(07)
N¨m 2018
Vu Kieu Hanh - Determinants to the reading comprehension performance level of the second- year students at
Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry 141
Nguyen Thi Que, Hoang Thi Nhung - Asking the right question for successful self-studying and cooperative
learning - towards independent language learners in the context of ASEAN community and global integration 147
Ngo Thi Thu Ha, Nguyen Thi Hoai Thu - Apply interactive teaching methods to improve the quality of
teaching and learning Vietnamese to international students at Military Technical Academy 153
Duong Van Tan - An assessment of the effectiveness in application of games in general physical development
for students at Thai Nguyen University of Technology 159
Bui Thi Huong Giang - Improving intercultural communicative competence in foreign language teaching
and learning 165
Tran Hoang Tinh, Nong La Duy, Pham Van Tuan - Building self-managed platoon in disciplinary education
for students at the center for defense and security education in the current phase 171
Tran Thi Yen, Khong Thi Thanh Huyen - Improving academic writing performance for english majors
through intensive reading 177
Do Thi Hong Hanh, Hoang Mai Phuong - Vocational training for rural workers in Cho Moi district, Bac
Kan province 183
Tran Thuy Linh, Tran Luong Duc, Nguyen Thi Thuy Trang - European union competition law approach on
exploitative abuses 189
Nguyen Thi Thanh Ha, Pham Viet Huong - Setting up an appropriate set of economic criteria and indicators
for evaluating sustainable forest management in Dinh Hoa district 195
Dinh Thi Hoai - Marketing promotion for information - library product and service at the Learning Resource
Center of Thai Nguyen University 201
Nguyen Thi Thanh Xuan - Factors affecting customer satisfaction in hotels at Thanh Hoa province, Vietnam 207
Duong Thi Tinh - Contributions of goods export to the economic growth of Yen Bai province 213
Le Minh Hai, Tran Viet Khanh - Tourism space organization of Thai Nguyen province 219
Ha Van Vuong - Apply the ergonomics theory in working environment organization at the office of Song Cong
grarment branch II – TNG Investment and Trading Joint Stock Company 227
Mai Anh Linh, Nguyen Thi Minh Anh - Assessing service quality and customer satisfaction: an empirical
study at Lan Chi supermarket, Thai Nguyen city 233
Dinh Hong Linh, Nguyen Thu Nga, Nguyen Thu Hang - Applying logarithmic function to evaluate the
business efficiency of Vietnam banks 239
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 338_366_1_pb_613_2127090.pdf