Tài liệu Ung thư dạng tế bào nhẫn nguyên phát tại bàng quang. Báo cáo nhân một trường hợp lâm sàng: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018
Chuyên Đề Thận – Niệu 250
UNG THƯ DẠNG TẾ BÀO NHẪN NGUYÊN PHÁT TẠI BÀNG QUANG.
BÁO CÁO NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG
Phan Thành Thống*, Phan Đỗ Thanh Trúc**, Châu Hải Tân **, Lê Trung Trực**, Tô Quốc Hãn*,
Nguyễn Xuân Toàn**, Tô Quyền**, Lê Việt Hùng**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Ung thư dạng tế bào nhẫn nguyên phát tại bàng quang là một dạng ung thư biểu mô tuyến tiết
nhầy có tế bào nhẫn hiếm gặp tại bàng quang, chiếm từ 0,5% đến 2,0% tất cả các loại ung thư nguyên phát
của bàng quang. Khối u này thường có độ ác tính cao và xâm nhập vào thành bàng quang mà ít tạo nên sự
phát triển vào lòng bàng quang. Triệu chứng bệnh nghèo nàn dẫn đến chẩn đoán chậm và tiên lượng xấu.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Báo cáo một trường hợp.
Kết quả: Chúng tôi báo cáo một trường hợp nam 50 tuổi nhập viện vì phù toàn thân và tiểu máu. Kết
quả siêu âm và CT scan cho thấy dày thành bàng quang lan tỏa theo dõi u bàng qu...
4 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 334 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ung thư dạng tế bào nhẫn nguyên phát tại bàng quang. Báo cáo nhân một trường hợp lâm sàng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018
Chuyên Đề Thận – Niệu 250
UNG THƯ DẠNG TẾ BÀO NHẪN NGUYÊN PHÁT TẠI BÀNG QUANG.
BÁO CÁO NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG
Phan Thành Thống*, Phan Đỗ Thanh Trúc**, Châu Hải Tân **, Lê Trung Trực**, Tô Quốc Hãn*,
Nguyễn Xuân Toàn**, Tô Quyền**, Lê Việt Hùng**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Ung thư dạng tế bào nhẫn nguyên phát tại bàng quang là một dạng ung thư biểu mô tuyến tiết
nhầy có tế bào nhẫn hiếm gặp tại bàng quang, chiếm từ 0,5% đến 2,0% tất cả các loại ung thư nguyên phát
của bàng quang. Khối u này thường có độ ác tính cao và xâm nhập vào thành bàng quang mà ít tạo nên sự
phát triển vào lòng bàng quang. Triệu chứng bệnh nghèo nàn dẫn đến chẩn đoán chậm và tiên lượng xấu.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Báo cáo một trường hợp.
Kết quả: Chúng tôi báo cáo một trường hợp nam 50 tuổi nhập viện vì phù toàn thân và tiểu máu. Kết
quả siêu âm và CT scan cho thấy dày thành bàng quang lan tỏa theo dõi u bàng quang, 2 thận ứ nước nghi
do xâm lấn. Bơm rửa bàng quang thu được nhiều dịch nhầy màu trắng. Giải phẫu bệnh của khối u sau khi
cắt bỏ ghi nhận bướu bàng quang dạng carcinoma tuyến tiết nhầy, có thành phần tế bào nhẫn. Kết quả tầm
soát ung thư từ đường tiêu hóa và tuyến tiền liệt không ghi nhận bất thường. Hiện theo dõi sau 3 tháng
hậu phẫu, tình trạng bệnh nhân ổn định.
Kết luận: Ung thư dạng tế bào nhẫn nguyên phát tại bàng quang là một dạng hiếm gặp của ung thư bàng
quang, ít được báo cáo trong các tài liệu. Sự hiếm có và điều trị thành công bằng phẫu thuật cộng với hóa trị là hai
đặc điểm đáng chú ý trong trường hợp này.
Từ khoá: Ung thư biểu mô tuyến, ung thư bàng quang, ung thư dạng tế bào nhẫn nguyên phát tại bàng
quang.
ABSTRACT
PRIMARY SIGNET-RING CELL CARCINOMA OF THE URINARY BLADDER (PSRCC)
Phan Thanh Thong, Phan Do Thanh Truc, Chau Hai Tan, Le Trung Truc, To Quoc Han,
Nguyen Xuan Toan, To Quyen, Le Viet Hung.
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 22 - No 4- 2018: 250 – 253
Objectives: Primary signet-ring cell carcinoma (PSRCC) of the urinary bladder is a phenotype characterized
by signet-ring cells containing intracellular mucin-filled vacuole which is really rare, accounts for 0,5% - 2% of
all primary bladder cancers. PSRCC of the urinary bladder is a poorly differentiated adenocarcinoma and often
invase bladder wall instead of developing to cavity of bladder. The patients have no specific symptom which leads
to delayed diagnosis and poor prognosis.
Materials and methods: Case report
Results: We report a 50-year-old man hospitalized with edema and haematuria. Ultrasonography and
computed tomography scan revealed a bladder tumor diffusedly invading the bladder wall, thickened bladder wall.
We got a white mucous liquid from the bladder cavity. We decided to radical cystectomy, histopathological
examination revealed signet-ring cell adenocarcinoma. We checked for primary cancer from gastrointestinal tract,
* Bộ môn Tiết niệu ĐHYD TP.HCM **Khoa Ngoại-Tiết niệu BV Nhân Dân Gia Định
Tác giả liên lạc: BS. Phan Thành Thống ĐT: 0987797171 Email: phanthanhthong2009@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận – Niệu 251
prostate and no cancer from other organs was found. Our patient is in a stable state after 3-month follow-up post-
radical cystectomy.
Conclusions: PSRCC of the urinary bladder is really rare which is rarely reported in literature. The rarity
and the successful management with surgical and adjuvant chemotherapy are two characteristics described in this
report.
Keywords: Adenocarcinoma, bladder cancer, primary signet-ring cell carcinoma of the urinary bladder.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư dạng tế bào nhẫn nguyên phát tại
bàng quang là một dạng ung thư biểu mô tuyến
tiết nhầy có tế bào nhẫn hiếm gặp tại bàng
quang. Saphir báo cáo trường hợp đầu tiên vào
năm 1955(6). Đến năm 2014 có chưa tới 100
trường hợp được báo cáo. Chúng tôi trình bày
một trường hợp bướu nguyên phát tại bàng
quang dạng tế bào nhẫn được điều trị cắt bàng
quang tận gốc, mở hai niệu quản ra da, chúng tôi
lên kế hoạch hóa trị cho bệnh nhân này.
BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP
Bệnh nhân nam, 50 tuổi vào viện vì phù toàn
thân và tiểu máu. Cách nhập viện khoảng 3
tháng, bệnh nhân tiểu máu và không điều trị gì.
Khoảng một tuần trước nhập viện bệnh nhân
thấy phù toàn thân, tiểu máu toàn dòng, tiểu khó
nên nhập viện. Về tiền sử, bệnh nhân được mổ
mở lấy sỏi bàng quang cách 3 năm, tiền sử gia
đình không ghi nhận bệnh lý liên quan.
Cận lâm sàng ghi nhận bệnh nhân với tình
trạng suy thận (Creatinin > 11,3 mg/dL), rối loạn
điện giải, thiếu máu. Siêu âm: Hai thận ứ nước
độ III, dày thành bàng quang và máu cục lòng
bàng quang, tràn dịch đa màng. Bệnh nhân được
bơm rửa bàng quang thu được nhiều chất nhầy
màu trắng trong (Hình 1). Giải phẫu bệnh khảo
sát chất bơm rửa được cho kết quả hồng cầu, tơ
huyết, tế bào viêm đa dạng, bạch cầu đa nhân, tế
bào trung mạc.
MSCT hệ niệu có cản quang cho kết quả: Dày
không đều lan tỏa thành bàng quang, theo dõi u
bàng quang (Hình 2); hai thận ứ nước, niệu quản
2 bên dãn đến đoạn nội thành nghi do xâm lấn;
hạch phì đại cạnh động mạch chậu 2 bên.
Soi bàng quang
Ghi nhận bướu bàng quang to, thâm nhiễm
toàn bộ thành phải bàng quang, ăn lan ra vùng
cổ bàng quang, che lấp không khảo sát được 2
miệng niệu quản, sinh thiết 2 mẫu. Kết quả giải
phẫu bệnh: Bướu bàng quang dạng carcinoma
tuyến tiết nhầy, có thành phần tế bào nhẫn (Hình
3). Chúng tôi tiến hành nội soi đường tiêu hóa
đánh giá và xét nghiệm các marker ung thư
đường tiêu hóa, tuyến tiền liệt để loại trừ ung
thư từ nơi khác di căn đến nhưng không tìm
thấy dấu hiệu ung thư từ nơi khác. Vì vậy chúng
tôi chẩn đoán trường hợp này là ung thư nguyên
phát tại bàng quang.
Bệnh nhân được chỉ định cắt bàng quang
toàn phần (Hình 4), nạo hạch và đưa hai niệu
quản ra da, trong quá trình phẫu thuật ghi nhận
hạch xâm lấn bó mạch chậu và thần kinh bịt hai
bên. Khối u được phân giai đoạn pT3bN1M0.
Hậu phẫu diễn tiến tốt, chức năng thận cải thiện
dần, bệnh nhân xuất viện sau mổ 5 ngày. Chúng
tôi lên kế hoạch hóa trị bổ trợ sau phẫu thuật.
Sau phẫu thuật 3 tháng, BN có tinh trạng
toàn thân tốt, chức năng thận cải thiện.
Hình 1. Bơm rửa bàng quang ra nhiều dịch nhầy
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018
Chuyên Đề Thận – Niệu 252
Hình 2. Hình ảnh MSCT dày không đều thành
bàng quang
Hình 3. Carcinoma tuyến tiết nhầy, có thành
phần tế bào nhẫn
Hình 4. Bàng quang sau phẫu thuật cắt bàng quang toàn phần
BÀN LUẬN
Ung thư dạng tế bào nhẫn nguyên phát tại
bàng quang là một dạng phụ hiếm gặp của
ung thư biểu mô và chỉ chiếm 0,24% đến 2%
của tất cả các khối u bàng quang(7,8). Cho đến
năm 2014 có ít hơn 100 trường hợp đã được
báo cáo trên thế giới kể từ khi Saphir báo cáo
trường hợp đầu tiên năm 1955(6).
Nhìn chung, khối u này xảy ra ở tuổi trung
niên (khoảng 50-60 tuổi) và thường được chẩn
đoán ở giai đoạn tiên triển, thường biểu hiện
tiên lượng xấu sau đó(1). Triệu chứng lâm sàng
của ung thư tuyến bàng quang không có sự
khác biệt với các khối u ác tính khác của bàng
quang(5). Triệu chứng chính bao gồm các triệu
chứng về kích thích đi tiểu và tiểu máu, các
triệu chứng đau hạ vị do tắc nghẽn ít gặp hơn.
Ung thư dạng tế bào nhẫn nguyên phát tại
bàng quang thường biểu hiện là thâm nhiễm ở
bàng quang và tổn thương thường liên quan
đến phần lớn bàng quang. Tổn thương cũng
được mô tả qua nội soi bàng quang bởi các
dạng: dạng polyp, dạng có cuống, không
cuống, dạng loét thâm nhiễm(9). Ung thư dạng
tế bào nhẫn nguyên phát tại bàng quang có
thể phát sinh ở bất kỳ vùng nào của bàng
quang nhưng thường tìm thấy vùng đỉnh bàng
quang(5). Điều đó làm ta khó phân biệt được với
ung thư có nguồn gốc từ ống niệu rốn.
Cần phải phân biệt Ung thư dạng tế bào
nhẫn nguyên phát tại bàng quang với ung thư
thứ phát do di căn từ nơi phát đến, vì chiến
lược điều trị hoàn toàn khác nhau. Ung thư
dạng tế bào nhẫn nguyên phát tại bàng quang
có cùng nguồn gốc mô học với carcinoma
tuyến của đường tiêu hóa, vú, phổi, túi mật và
tuyến tiền liệtDo đó, cần đánh giá để loại
trừ khả năng di căn từ nơi khác (9,5). Trong
một loạt nghiên cứu 282 bệnh nhân ung thư
tuyến bàng quang do di căn ghi nhận: Xâm lấn
trực tiếp từ đại tràng (21%), tuyến tiền liệt
(19%), trực tràng (12%) và cổ tử cung (11%). Di
căn xa từ ung thư dạ dày (4.3%), u sắc tố ác
tính (3,9%), phổi (2,8%) và vú (2,5%).
Phương thức điều trị cho Ung thư dạng tế
bào nhẫn nguyên phát tại bàng quang bao
gồm phẫu thuật, xạ trị và hóa trị. Phẫu thuật là
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận – Niệu 253
biện pháp được lựa chọn xuyên suốt đầu tay
trong các báo cáo. Theo đánh giá của Erdogru
và cộng sự(2) việc cắt bàng quang toàn phần
đem lại lợi ích cho bệnh nhân. Một vài
phương pháp điều trị hiệu quả khác bao gồm
hóa trị nội động mạch với cisplatin và
methotrexate và xạ trị, hoặc chỉ xạ trị sau cắt
bàng quang toàn phần. Cho đến nay chưa có
phác đồ hoá trị liệu tiêu chuẩn tồn tại cho Ung
thư dạng tế bào nhẫn nguyên phát tại bàng
quang vì tính hiếm hoi của chúng. Một số
thuốc được áp dụng trong các trường hợp
được báo cáo như: 5FU, methotrexate,
cisplatin, mitomycin, doxocycline, tegafur,
cyclophosphamide và carboplatin(4). Chúng tôi
báo cáo trường hợp này với cắt bàng quang
toàn phần và lên kế hoạch hóa trị toàn thân
tuy nhiên chưa có phác đồ điều trị tiêu chuẩn
được thống nhất.
Theo dõi bệnh nhân sống được 8 tháng, hiện
tại chưa phát hiện dấu hiệu di căn qua MSCT.
Một phân tích năm 1991 dựa vào nhiều báo
cáo cho thấy PSRCC có độ ác tính cao, những
bệnh nhân không điều trị gì có thời gian sống
trung bình khoảng 3,5 tháng. Nhìn chung sau
điều trị, tỷ lệ sống 1 năm khoảng 60%(3).. Fiter và
cộng sự báo cáo tỷ lệ sống 5 năm lần lượt là 75%,
38% và 12% cho các giai đoạn II, III, IV(3). Một
thống kê gồm 54 bệnh nhân tại Nhật Bản cho
thấy tỷ lệ sống 5 năm ở giai đoạn I-III là 50%,
không có bệnh nhân nào ở giai đoạn IV sống quá
2 năm(3).. Một nghiên cứu khác trên 12 bệnh nhân
ghi nhận tỷ lệ sống trung bình là 8,9 tháng(3).
KẾT LUẬN
Ung thư dạng tế bào nhẫn nguyên phát tại
bàng quang là một dạng hiếm gặp của ung thư bàng
quang, ít được báo cáo trong các tài liệu. Nói chung
bệnh thường được phát hiện ở giai đoạn tiến triển do
độ ác tính cao và tiên lượng sống còn thường ngắn.
Hiện nay phẫu thuật đóng vai trò chủ yếu và chưa có
phác đồ hóa trị tiêu chuẩn cho Ung thư dạng tế
bào nhẫn nguyên phát tại bàng quang.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. El-Mekresh MM, El-Baz MA, Abol-Enein H, Ghoneim MA
(1998), Primary adenocarcinoma of the urinary bladder: a report
of 185 cases, British J Urol, 82, pp. 206-212.
2. Erdogru T, Kiligaslan I, Esen T(1995), Primary signet ring cell
carcinoma of the urinary bladder: review of the literature and
report of two cases, Urol Int, 55, pp. 34-37.
3. Grignon DJ, Ro J, Ayala A and Johnson D (1991), Primary
Signet-Ring Cell Carcinoma of the Urinary Bladder, Am J Clin
Pathol, 95: 13-20..
4. Hirano Y, Suzuki K, Fujita K, Furuse H, Fukuta K, Kitagawa M,
Aso Y (2002), Primary signet ring cell carcinoma of the urinary
bladder successfully treated with intra-arterial chemotherapy
alon, Urology, 59, pp.601.
5. Krichen Makni S, Ellouz S, Khabir A, Daoud J, Boudawara T
(2005), Primary signet ring cell carcinoma of urinary bladder. A
case report, CancerRadiother, 9, pp. 322-324.
6. Saphir O (1955), Signet ring cell carcinoma of the bladder, Am J
Pathol, 31, pp. 223-231.
7. Sunghwan J, Soojin J, Kweonsik M, Jae-il C, Sunghyup C, Dongil
K (2009), Primary signet ring cell carcinoma of the urinary
bladder, Korean JUrol, 50, pp.188-191.
8. Torenbeek R, Koot RA, Blonjous CE, De Bruin PC, Newling DW,
Meijer CJ (1996), Primary signet-ring cell of the urinary bladder,
Histopathology, 28, pp. 33-40.
9. Yamamoto S, Ito T, Akiyama A, Miki M, Tachibana M, Takase
M, MatsumotoT, Mochizuki M (2001), Primary signet-ring cell
carcinoma of the urinary bladder including renal failure, Int J
Urol, 8, pp.190-193.
Ngày nhận bài báo: 10/05/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 01/06/2018
Ngày bài báo được đăng: 20/07/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ung_thu_dang_te_bao_nhan_nguyen_phat_tai_bang_quang_bao_cao.pdf