Tài liệu Ứng dụng tầm soát trước sinh không xâm lấn trong phát hiện sớm lệch bội nhiễm sắc thể qua DNA thai tự do trong máu mẹ: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 478
ỨNG DỤNG TẦM SOÁT TRƯỚC SINH KHÔNG XÂM LẤN TRONG
PHÁT HIỆN SỚM LỆCH BỘI NHIỄM SẮC THỂ
QUA DNA THAI TỰ DO TRONG MÁU MẸ
Lê Thị Xuân Thảo**, Lương Bắc An*, Lê Thị Khánh Linh***, Trịnh Nhựt Thư Hương***,
Phan Thanh Bình***, Quách Thị Hoàng Oanh***, Nguyễn Khắc Hân Hoan***, Lê Quang Thanh***,
Đỗ Thị Thanh Thủy*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật giải trình tự thế hệ mới trong phát hiện sớm một số lệch bội
nhiễm sắc thể thai nhi thông qua DNA thai tự do có trong máu mẹ được xem là phương pháp tầm soát trước sinh
không xâm lấn (NIPT) có độ an toàn cao cho thai nhi mà vẫn đạt hiệu quả tốt. Đây cũng là phương pháp đã được
ứng dụng phổ biến ở các nước phát triển trong chương trình sàng lọc bất thường nhiễm sắc thể thai nhi ở thai
phụ nguy cơ cao.
Mục tiêu: Xác định độ nhạy, độ đặc hiệu của phương pháp NIPT trong phát hiện s...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 226 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng tầm soát trước sinh không xâm lấn trong phát hiện sớm lệch bội nhiễm sắc thể qua DNA thai tự do trong máu mẹ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Cơng Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 478
ỨNG DỤNG TẦM SỐT TRƯỚC SINH KHƠNG XÂM LẤN TRONG
PHÁT HIỆN SỚM LỆCH BỘI NHIỄM SẮC THỂ
QUA DNA THAI TỰ DO TRONG MÁU MẸ
Lê Thị Xuân Thảo**, Lương Bắc An*, Lê Thị Khánh Linh***, Trịnh Nhựt Thư Hương***,
Phan Thanh Bình***, Quách Thị Hồng Oanh***, Nguyễn Khắc Hân Hoan***, Lê Quang Thanh***,
Đỗ Thị Thanh Thủy*
TĨM TẮT
Đặt vấn đề: Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật giải trình tự thế hệ mới trong phát hiện sớm một số lệch bội
nhiễm sắc thể thai nhi thơng qua DNA thai tự do cĩ trong máu mẹ được xem là phương pháp tầm sốt trước sinh
khơng xâm lấn (NIPT) cĩ độ an tồn cao cho thai nhi mà vẫn đạt hiệu quả tốt. Đây cũng là phương pháp đã được
ứng dụng phổ biến ở các nước phát triển trong chương trình sàng lọc bất thường nhiễm sắc thể thai nhi ở thai
phụ nguy cơ cao.
Mục tiêu: Xác định độ nhạy, độ đặc hiệu của phương pháp NIPT trong phát hiện sớm lệch bội nhiễm sắc thể
thai nhi ở những thai phụ nguy cơ cao.
Phương pháp: Những thai phụ cĩ kết quả tầm sốt từ khoảng mờ da gáy (NT) và double test nguy cơ cao
với lệch bội nhiễm sắc thể thai nhi (T13, T18, T21), chưa thực hiện phân tích nhiễm sắc thể đồ (karyotype), và
đồng ý tham gia nghiên cứu, sẽ được thu thập mẫu huyết thanh nhằm tách chiết cfDNA và tiến hành phân tích
bằng phương pháp giải trình tự thế hệ mới. Chỉ số Z-score được tính tốn để phát hiện các trường hợp bất
thường. Kết quả NIPT sẽ được so sánh với kết quả karyotype phân tích nhiễm sắc thể đồ nhằm xác định độ nhạy,
độ đặc hiệu của NIPT.
Kết quả: Cĩ 124 thai phụ nguy cơ cao với lệch bội nhiễm sắc thể thai nhi đã được chọn vào nghiên cứu. Tuổi
mẹ trung bình 32,6±6,3 tuổi, tuổi thai trung bình 12,6±1,8 tuần, và độ mờ da gáy trung bình 4,1±1,7mm. Tỉ lệ
dương tính qua NIPT đối với trisomy 13 là 4:124, trisomy 18 là 13:124, và trisomy 21 là 17:124. Cĩ 01 trường
hợp âm tính giả T18 do thể khảm. Độ nhạy của NIPT trong phát hiện trisomy 13, 18, 21 là 97,1% (85,1% –
99,9%), độ đặc hiệu là 100% (95,9% – 100%).
Kết luận: Tầm sốt trước sinh khơng xâm lấn NIPT cĩ độ nhạy, độ đặc hiệu rất cao, nên được ứng dụng
trong sàng lọc sớm lệch bội nhiễm sắc thể, đặc biệt ở những thai phụ khơng muốn thực hiện thủ thuật xâm lấn
phục vụ xét nghiệm chẩn đốn.
Từ khĩa: NIPT, cfDNA, cffDNA, giải trình tự thế hệ mới, lệch bội nhiễm sắc thể thai nhi
ABSTRACT
APPLICATION OF NON-INVASIVE PRENATAL TESTING USING NEXT GENERATION
SEQUENCING TO DETECT ANEUPLOIDIES WITHIN CELL-FREE FETAL DNA
Le Thi Xuan Thao, Luong Bac An, Le Thi Khanh Linh, Trinh Nhut Thu Huong, Phan Thanh Binh,
Quach Thi Hoang Oanh, Nguyen Khac Han Hoan, Le Quang Thanh, Do Thi Thanh Thuy
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 3- 2019: 478-484
*Trung tâm Y Sinh học Phân tử, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
**Bộ mơn Hố Sinh, Khoa Y, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
***Bệnh viện Phụ Sản Từ Dũ TP. TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS.BS Lê Thị Xuân Thảo ĐT: 0932105465 Email: xuanthao.le@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Cơng Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 479
Background: Studying the application of next-generation sequencing technique in the early screening of
fetal aneuploidies from maternal blood was considered to be non-invasive prenatal testing (NIPT) which is safe
and highly effective for maternal. NIPT also a common test in many developed countries for screening on
aneuploidies in high-risk pregnancies.
Objectives: Determination of sensitivity and specificity of NIPT in prenatal screening of aneuploidies in
high-risk pregnancies.
Methods: Pregnant women who have a nuchal translucency (NT) and double test results with high-risk
screening for aneuploidies (T13, T18, T21), who have not performed a karyotype test, and agreed to participate in
this research by written informed consent, will be evaluated. Maternal blood was collected and extracted cfDNA.
And then, CfDNA were sequenced by using NGS technique. The z-score was calculated to detect chromosomal
aneuploidies. These results will be compared with the results of the karyotype to confirm the sensitivity and
specificity of the NIPT method.
Results: There were 124 high-risk pregnancies with aneuploidies selected for the study. The mean age of the
pregnancies was 32.6 ± 6.3 years old, mean gestational age was 12.6 ± 1.8 weeks, and the mean nuchal
translucency was 4.1 ± 1.7mm. By NIPT, the proportion of trisomy 13 positive cases was 4:124. Trisomy 18 was
13:124. Trisomy 21 was 17:124. A case of trisomy 18 was false negative by mosaicism. The sensitivity of NIPT in
detecting trisomy 13, 18, 21 was 97.1% (85.1%-99.9%), the specificity was 100% (95.9% - 100%).
Conclusion: Non-invasive prenatal testing with high sensitivity and specificity should be used in the
screening of aneuploidies on, especially the maternals did not agree with karyotyping tests.
Keywords: NT, NIPT, next-generation sequencing, cell-free fetal DNA, aneuploidies
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tầm sốt trước sinh là chương trình phổ
biến, được phát triển trên tồn thế giới, khuyến
cáo thực hiện cho tất cả thai phụ trong thời kỳ
mang thai, giúp dự đốn và xác định các điều
kiện di truyền, hạn chế những rủi ro tiền sản khi
thai nhi cĩ rối loạn di truyền hoặc trẻ sinh ra
mang dị tật bẩm sinh. Hiện nay, hầu hết thai
phụ đều được tầm sốt trước sinh bằng nhĩm kỹ
thuật khơng xâm lấn như siêu âm (đo khoảng
mờ da gáy NT) kết hợp xét nghiệm máu ở giai
đoạn thai từ 11 đến 13 tuần 6 ngày tuổi (xét
nghiệm Double test) và giai đoạn thai từ 15 đến
21 tuần (xét nghiệm Triple test). Các xét nghiệm
này nhằm đánh giá nguy cơ mang hội chứng
Down (trisomy 21), Edward (trisomy 18) và
Patau (trisomy 13) cĩ thể cĩ ở thai nhi. Những
thai phụ thuộc nhĩm nguy cơ cao hoặc đã cĩ
tiền sử sinh con dị tật sẽ được tư vấn thực hiện
xét nghiệm chẩn đốn cĩ tính xâm lấn như sinh
thiết gai nhau hoặc chọc ối nhằm xác định chính
xác đặc tính di truyền và bất thường nhiễm sắc
thể của thai nhi qua phân tích nhiễm sắc thể đồ
(karyotyping)(10), một kỹ thuật được xem là tiêu
chuẩn vàng trong chẩn đốn tiền sản(3). Tuy
nhiên, karyotyping địi hỏi kỹ thuật nhiều bước,
thời gian trả kết quả dài Vì vậy, với việc phát
hiện DNA tự do của thai nhi (cffDNA) trong
máu ngoại vi của mẹ đã tạo một bước tiến quan
trọng, gợi mở những phương pháp mới khơng
địi hỏi kỹ thuật xâm lấn, hướng đến hiệu quả và
an tồn khi thực hiện tầm sốt trước sinh(5,11,16).
Sự ra đời của kỹ thuật tầm sốt trước sinh khơng
xâm lấn NIPT (Noninvasive prenatal testing), đã
mang đến tính khả thi về mặt kỹ thuật và kinh tế
khi thực hiện ở tất cả thai phụ trong tương lai.
Việc ứng dụng NIPT đã được phát triển rộng rãi
ở các quốc gia phát triển trên thế giới, và trong
những năm gần đây tại Việt Nam, NIPT đã xuất
hiện và thu hút sự chú ý của nhiều thai phụ.
Trên cơ sở đĩ, chúng tơi thực hiện nghiên cứu
“ứng dụng tầm sốt trước sinh khơng xâm lấn
trong phát hiện sớm một số lệch bội nhiễm sắc
thế qua DNA thai tự do trong máu mẹ” nhằm
cung cấp những bằng chứng khoa học và
khuyến cáo chung khi sử dụng phương pháp
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Cơng Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 480
NIPT trong phát hiện sớm một số lệch bội nhiễm
sắc thể qua DNA thai tự do trong máu mẹ, nhằm
giúp các bác sĩ sản khoa cĩ thêm những lựa chọn
khi tư vấn, thực hiện tầm sốt trước sinh phù
hợp cho từng thai phụ.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định độ nhạy, độ đặc hiệu của phương
pháp NIPT trong phát hiện sớm lệch bội nhiễm
sắc thể thai nhi ở những thai phụ nguy cơ cao.
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP
Nghiên cứu chẩn đốn.
Dân số mục tiêu
Các thai phụ đang mang thai cĩ nguy cơ cao
lệch bội nhiễm sắc thể đến khám tại Khoa Chăm
sĩc Trước sinh, Bệnh viện Từ Dũ trong thời gian
từ tháng 09/2017 đến tháng 9/2018.
Phương pháp chọn mẫu
Chọn tồn bộ thai phụ khi thỏa các tiêu chí
lựa chọn và khơng cĩ tiêu chí loại ra.
Tiêu chí chọn vào
Đơn thai từ 11 đến 13 tuần 6 ngày tuổi.
Cĩ một trong hai tiêu chí sau: Khoảng mờ da
gáy NT ≥ 3,5mm hoặc NT ≥ 3 mm và kết quả
Double test ở ba tháng đầu thai kỳ (PAPPA
(Pregnancy-Associated Plasma Protein A) và f
βHCG (Free beta HCG)) cĩ nguy cơ >1/150.
Đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chí loại ra
Khi đã được chọn vào nghiên cứu, nếu thai
phụ cĩ một trong số các tiêu chí hoặc chống chỉ
định như sau thì sẽ bị loại, bao gồm:
Thai phụ cĩ bệnh lí thai kì.
Các trường hợp chống chỉ định khi thực hiện
NIPT: thai phụ hoặc chồng cĩ bất thường cấu
trúc hoặc số lượng NST; đa thai; khơng phải là
mẹ sinh học của thai (xin trứng, mang thai hộ);
ghép tủy xương.
Cách tiến hành
Tư vấn, thu thập thơng tin lâm sàng (tuổi
mẹ, tuổi thai, NT, kết quả Doule test) và lấy 10ml
mẫu máu thai phụ tham gia nghiên cứu. Mẫu
máu được lưu giữ trong ống Streck BCT, lập tức
đảo ống 180o khoảng 10 lần để máu trộn đều với
các chất bảo quản bên trong ống. Nếu chưa xử lý
kịp thời, cĩ thể lưu mẫu ở nhiệt độ phịng (18oC-
25oC) trong vịng 14 ngày. Li tâm ống máu thu
huyết tương. Trữ mẫu huyết tương trong tủ -
80oC. Tiến hành tách chiết cfDNA từ các mẫu
huyết tương qua hệ thống máy tách chiết tự
động Prepito-D (Chemagen/PerkinElmer) với bộ
kít Free circulating NA kit
(Chemagen/PerkinElmer). Chất lượng DNA sau
tách chiết được kiểm tra bằng hệ thống máy
quang phổ Qubit 3.0 (Thermo Fisher), sử dụng
bộ kít Qubit dsDNA HS (High Sensitivity) Assay
kit (Thermo Fisher). Mẫu cfDNA được tạo thư
viện giải trình tự bằng bộ kít Ion Plus Fragment
Library (ThermoFisher), cĩ gắn nhãn bằng bộ
mã vạch Ion Xpress Barcode Adaptors 1-16
(Thermo Fisher). Thư viện sau khi chuẩn bị sẽ
được kiểm tra chất lượng trên hệ thống điện di
mao quản LabChip GX Touch 24 (PerkinElmer)
sử dụng bộ kít DNA High Sensitivity Reagent
(PerkinElmer). Thư viện đạt chất lượng sẽ trải
qua bước làm giàu và nạp vào chip giải trình tự
thơng qua hệ thống chuẩn bị chip Ion Chef
(ThermoFisher). Chip sau chuẩn bị sẽ được tiến
hành giải trình tự trên hệ thống giải trình tự Ion
S5XL(ThermoFisher). Dữ liệu giải trình tự được
phân tích bằng phần mềm thương mại của cơng
ty YOUNGENE (Đài Loan), các thuật tốn tính
tốn hàm lượng DNA thai tự do (thuật tốn
SeqFF) và tính hệ số z-scores được tích hợp trong
phần mềm phân tích. Phần mềm tính tốn đúng
hệ số Z-score khi hàm lượng DNA thai phải đạt
được >3,5% mới cho đủ độ tin cậy trong phát
hiện thể lệch bội. Hệ số Z-score phản ánh khả
năng bất thường NST trong mẫu phân tích. Hệ
số Z-scores được tính cho mỗi NST trong đĩ cĩ
cả NST 13, 18 và 21. Về thuật tốn, người ta xem
xét hệ số biến thiên (coefficient of variation - CV)
phần trăm các đoạn trình tự duy nhất (unique
reads percentage - UR%) trên mỗi NST từ dữ
liệu, hệ số này sẽ mơ tả hiệu quả các thay đổi
tương đối UR% của các NST, cụ thể: Z-scores ≥
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Cơng Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 481
3,5 là thể lệch bội NST, 3,5 ≥ Z-scores ≥ 2,8 là
nghi ngờ cĩ lệch bội và -6 ≤ Z-scores ≤ 2,8 là bình
thường. Tồn bộ quy trình được thực hiện tại
Trung tâm Y sinh học phân tử - Đại học Y Dược
TP. Hồ Chí Minh và bệnh viện Từ Dũ TP. Hồ
Chí Minh.
Thực hiện sinh thiết gai nhau hoặc chọc hút
hút dịch ối và làm xét nghiệm NST đồ cho thai
phụ cĩ nguy cơ cao mang thai bị bất thường số
lượng nhiễm sắc thể đã chọn vào nghiên cứu.
Xét nghiệm này cho biết số lượng và cấu trúc
NST. Cho đến nay, kỹ thuật karyotype vẫn được
xem là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đốn trước
sinh nhằm phát hiện các bất thường NST. Quy
trình thực hiện cấy và làm NST đồ được thực
hiện theo quy trình thường quy của bệnh viện
Từ Dũ – Thành phố Hồ Chí Minh.
Tổng hợp, phân tích và so sánh kết quả của
hai phương pháp NIPT và NST đồ trong việc
phát hiện thai nhi bị một số rối loạn bất thường
nhiễm sắc thể.
Xử lý số liệu
Dữ liệu được lưu trữ bằng phần mềm Excel
2010 và xử lý phân tích bằng phần mềm Stata
13.0. Các biến số định lượng (tuổi mẹ, tuổi thai,
NT) được mơ tả bằng trung bình và độ lệch
chuẩn. Độ nhạy, độ đặc hiệu được mơ tả bằng
bảng 2x2 và khoảng tin cậy 95%.
Y đức
Nghiên cứu đã được thơng qua Hội đồng Y
đức của Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh.
KẾT QUẢ
Bảng 1: Các đặc điểm chung của đối tượng nghiên
cứu (n=124)
Trung
bình
Độ lệch
chuẩn
Giá trị
nhỏ nhất
Giá trị
lớn nhất
Tuổi mẹ 32,6 6,3 19 41
<25 11 (8,9)*
25-29 39 (31,4)*
30-34 25 (20,2)*
35-39 28 (22,6)*
≥40 21 (16,9)*
Tuổi thai (tuần) 12,6 1,8 11 22,5
Độ mờ da gáy (NT)
mm
4,1 1,7 1,1 8,5
*tần số và tỉ lệ phần trăm %
Nghiên cứu chọn được 124 thai phụ cĩ nguy
cơ cao mang thai lệch bội thỏa tiêu chí chọn
mẫu, và khơng cĩ thai phụ nào gặp tai biến sản
khoa khi tham gia nghiên cứu. Tuổi trung bình
của thai phụ là 32,6±6,3 tuổi. Trong đĩ, thai phụ
nhỏ tuổi nhất là 19 tuổi, và lớn tuổi nhất là 41
tuổi. Tuổi thai trung bình 12,6±1,8 tuần. Khoảng
mờ da gáy (NT) trung bình là 4,1±1,7 mm, trong
đĩ, NT nhỏ nhất là 1,1mm, lớn nhất là 8,5mm
(Bảng 1).
Bảng 2: So sánh kết quả NIPT và karyotype ở thai
phụ mang thai lệch bội NST 13 (n=4)
Trường
hợp
Tuổi mẹ NT
mm
Z-score NIPT Karyotype
1 35 6 4,3 T13 T13
2 36 6,3 4,8 T13 T13,XY
3 33 4,6 7,3 T13 T13,XX
4 35 2,2 8,0 T13 T13,XX
Phân tích giá trị z-scores của NST 13, NIPT
phát hiện 04 trường hợp lệch bội T13 (z-score
3,5). Khi so sánh với kết quả NST đồ thì 04
trường hợp này đều cĩ lệch bội NST 13 và
những trường hợp cịn lại (NIPT âm tính với giá
trị z-score < 3,5) đều cho kết quả NST đồ bình
thường. Tất cả các trường hợp trisomy 13 được
phát hiện đều cĩ tuổi mẹ ≥ 35 tuổi. Thai nhi cĩ
khoảng mờ da gáy thấp nhất là 2,2 mm và cao
nhất là 6,3 mm. Hầu hết các trường hợp lệch bội
NST 13 cĩ NT 3,5mm, và ghi nhận 01 trường
hợp cĩ NT = 2,2mm (Bảng 2).
Kết quả từ Bảng 3 cho thấy khi phân tích giá
trị z-scores của NST 18, NIPT ghi nhận 13 trường
hợp lệch bội NST 18 (T18) (z-score 3,5). Trong
các trường hợp bình thường (z-score < 3,5), NST
đồ ghi nhận 01 trường hợp cĩ bất thường trên
NST 18 (dạng thể khảm một phần trên NST 18).
Như vậy, khi so sánh kết quả NIPT với NST đồ
đã cho thấy NIPT cĩ 01 trường hợp âm tính giả.
Đa số trường hợp trisomy 18 được phát hiện
ở thai phụ ≥ 35 Tuổi, trong đĩ chủ yếu là người
mẹ 40 tuổi. Cĩ 04 trường hợp thai phụ < 35 tuổi.
Khoảng mờ da gáy thấp nhất là 1,1 mm và cao
nhất là 7,6mm. Phần lớn các trường hợp thai thai
lệch bội T18 đều cĩ NT 3,5 mm (Bảng 3).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Cơng Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 482
Bảng 3: So sánh kết quả NIPT và karyotype ở thai
phụ mang thai lệch bội NST 18 (n=14)
Trường
hợp
Tuổi
mẹ
NT mm Z-score NIPT Karyotype
1 37 7,3 13,8 T18 T18,XY
2 37 6,4 5,6 T18 T18,XX
3 40 7,6 5,5 T18 T18,XX
4 40 1,1 14,0 T18 T18,XX
5 40 - 11,8 T18 T18,XX
6 40 7,6 7,2 T18 T18,XX
7 41 1,7 10,7 T18 T18,XY
8 36 1,3 16,1 T18 T18,XX
9 28 - 12,4 T18 T18,XY
10 36 3,4 5,8 T18 T18,XY
11 39 3,3 4,4 T18 T18,XX
12 26 3,4 8,1 T18 T18,XY
13 28 4,6 1,1 - T18,XX
(khảm)
14 21 4,7 14,3 T18 T18,XX
Bảng 4: So sánh kết quả NIPT và karyotype ở thai
phụ mang thai lệch bội NST 21 (n=17)
Trường
hợp
Tuổi mẹ NT mm Z-score NIPT Karyotype
1 38 2,3 7,5 T21 T21,XY
2 39 2,3 10,5 T21 T21,XX
3 37 3,5 4,8 T21 T21,XY
4 39 4,3 5,9 T21 T21
5 30 4,7 13,3 T21 T21,XY
6 42 4,1 7,2 T21 T21,XY
7 36 3,7 5,5 T21 T21,XX
8 28 5,2 9,1 T21 T21,XX
9 42 6,6 7,8 T21 T21,XX
10 34 3,7 13,9 T21 T21,XX
11 37 3,1 4,3 T21 T21,XY
12 38 4,8 14,7 T21 T21,XX
13 27 3,9 5,4 T21 T21,XY
14 38 4,3 13,6 T21 T21,XX
15 47 4,8 3,9 T21 T21,XY
16 40 6,2 10,3 T21 T21,XY
17 27 4,1 8,6 T21 T21,XY
Trong phân tích giá trị z-scores của NST 21,
NIPT ghi nhận cĩ 17 trường hợp lệch bội T21 (z-
score 3,5). Khi so sánh với kết quả NST đồ thì
tất cả trường hợp z-score 3,5 (NST 21) đều cĩ
kết quả NST đồ lệch bội NST 21 và các mẫu cĩ z-
score < 3,5 đều mang kết quả NST đồ bình
thường. Đa số trường hợp trisomy 21 được phát
hiện thì tuổi mẹ ≥ 35 tuổi và cĩ 05 trường hợp
người mẹ < 35 tuổi. Khoảng mờ da gáy NT thấp
nhất là 2,3mm và cao nhất là 6,6mm. Phần lớn
các trường hợp lệch bội T21 đều cĩ giá trị NT
3,5 mm (Bảng 4).
Bảng 5: Độ nhạy, độ đặc hiệu của NIPT (n=124)
NIPT
Độ nhạy %
(Khoảng tin cậy
95%)
Độ đặc hiệu %
(Khoảng tin cậy
95%)
Trisomy 13 100 (39,8 – 100) 100 (95,9 – 100)
Trisomy 18 90,9 (58,7 – 99,8) 100 (95,6 – 100)
Trisomy 21 100 (73,5 – 100) 100 (95,6 – 100)
Chung (T13, T18,
T21)
97,1 (85,1 – 99,9) 100 (95,9 – 100)
Từ Bảng 5 cho thấy phân tích NIPT cho độ
nhạy 97,1%, độ đặc hiệu 100%, đặc biệt là trong
phân tích trisomy 13, trisomy 21 đều cĩ độ nhạy
và độ đặc hiệu là 100%.
BÀN LUẬN
Dân số nghiên cứu là những thai phụ cĩ
nguy cơ cao với trisomy (khoảng mờ da gáy NT
≥ 3,5mm, hoặc NT ≥ 3 mm và kết quả combined
test nguy cơ >1/150), mặc dù tuổi mẹ khơng
thuộc tiêu chí chọn vào nhưng kết quả cho thấy
tuổi mẹ trung bình là khá cao với 33±6 tuổi, đa
số thuộc nhĩm từ 35 tuổi trở lên. Đặc biệt, ở
những thai phụ mang thai lệch bội NST, chúng
tơi ghi nhận phần lớn đều > 35 tuổi. Điều này
hồn tồn phù hợp với y văn và các báo cáo
trong, ngồi nước khi tuổi mẹ càng cao, đặc biệt
là từ 35 tuổi trở lên, hay NT ≥ 3,5mm là các yếu
tố nguy cơ cao của trisomy và các rối loạn nhiễm
sắc thể khác(4,13).
Trong số 124 thai phụ được khảo sát thì cĩ 89
trường hợp NIPT cho kết quả bình thường,
tương đồng kết quả NST đồ. Một (01) trường
hợp NIPT khơng phát hiện trisomy 18 do thể
khảm (T18-partial). Mặc dù hàm lượng DNA
thai đạt 9,4% (lớn hơn ngưỡng yêu cầu của thuật
tốn là 3,5%) nhưng do sự bất thường chỉ xảy ra
tại một vùng nhỏ của NST 18 vị trí 18p11.31-
18p11.32 và kích thước vùng này chỉ chiếm
(6,15%) trong tổng số chiều dài NST 18 (khoảng
4,8 Mbases trong tổng số 78 Mbases của NST 18).
Chính vì vậy, thuật tốn phân tích khơng đủ cơ
sở dữ liệu để gọi được đúng thể lệch bội. Khơng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Cơng Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 483
cĩ kết quả dương tính giả nào được ghi nhận.
Khi so sánh NIPT với NST đồ, kết quả cho thấy
NIPT cĩ độ đặc hiệu và độ nhạy rất cao.
Các nghiên cứu gần đây khi sử dụng giải
trình tự gen thế hệ mới trong NIPT đã chứng
minh rằng hầu hết các trường hợp trisomy 21,
18, 13 cĩ thể được phát hiện từ việc phân tích
cfDNA huyết tương của mẹ với tỉ lệ dương tính
giả thấp, âm tính giả rất thấp(1,2,6,12). Nghiên cứu
của Bianchi và cộng sự (2012) cho kết quả NIPT
với độ nhạy và độ đặc hiệu 100% ở phân tích
trisomy 21, độ nhạy 97,2% ở trisomy 18 và 78,6%
ở trisomy 13(2). Tương tự, nghiên cứu của
Ashoor và cộng sự (2012) cũng cĩ kết quả NIPT
khi phân tích trisomy 21 đạt độ nhạy và độ đặc
hiệu 100%, nhưng với trisomy 18 chỉ đạt độ nhạy
98%(1).
Tầm sốt trước sinh khơng xâm lấn bằng
phương pháp giải trình tự gen thế hệ mới đã
được nghiên cứu phát triển mạnh mẽ với đặc
tính an tồn, độ nhạy, độ đặc hiệu cao, đặc biệt
trong tầm sốt trisomy 21, và đã được một số
quốc gia như Anh, Mỹ khuyến cáo thực hiện ở
những thai phụ nguy cơ cao, nhằm hạn chế
những rủi ro do kỹ thuật xâm lấn(17). Tại Việt
Nam, một số bệnh viện hay phịng khám đã ứng
dụng NIPT cho các thai phụ nguy cơ cao, nhưng
khơng phổ biến rộng rãi và thường phải gửi
mẫu phân tích sang nước ngồi hoặc hạn chế ở
một số trung tâm trong nước. Việc địi hỏi các
thiết bị cơng nghệ cao, phần mềm phân tích kết
quả và chi phí cao khi thực hiện NIPT là một trở
ngại cho việc ứng dụng rộng rãi NIPT. Do vậy,
khi phương pháp NIPT được nghiên cứu phát
triển và chứng minh đạt độ tin cậy khi thực hiện
tại Việt Nam sẽ thu hút nhiều thai phụ tham gia.
Khi đĩ, NIPT khơng chỉ giảm thiểu chi phí và
những thai phụ cĩ nguy cơ cao cĩ cơ hội được
lựa chọn một xét nghiệm tầm sốt trước sinh an
tồn, hiệu quả cao. Ngồi ra, NIPT cịn cĩ thể
ứng dụng phát hiện trong một số các rối loạn
hay bất thường liên quan nhiễm sắc thể, đột biến
gen khác như hội chứng Turner XO, thalassemia,
Huntington, xơ nang (Cystic fibrosis - CF) và
bệnh loạn dưỡng trương lực cơ(7,8)
Mặc dù NIPT là một giải pháp hữu hiệu so
với các xét nghiệm tầm sốt hiện nay như double
test, tripble test, thế nhưng NIPT vẫn cịn một số
điểm cần lưu ý như thu thập mẫu phải bảo quản
tốt, hàm lượng DNA thai phải 3,5% (tác động
của yếu tố như cân nặng hay chỉ số khối cơ thể
(BMI) cao của thai phụ, tuổi thai nhỏ, kiểu lệch
bội NST thai nhi)(15). Nhằm giảm thiểu sự ảnh
hưởng của các yếu tố này, NIPT thường được
khuyến cáo thực hiện khi thai phụ ở tuần thai
thứ 10 trở lên(14); những thai phụ cĩ BMI cao và
nồng độ cffDNA thai nhi thu nhận thấp sẽ được
lưu ý hơn khi thực hiện xét nghiệm. Thể khảm
trong lệch bội NST, thường gặp ở trisomy 13, 18
là yếu tố mà cho đến nay vẫn đang được nghiên
cứu cải thiện khi thực hiện NIPT. Trong nghiên
cứu của chúng tơi, kết quả cho thấy cĩ 01 trường
hợp âm tính giả trisomy 18 do thể khảm: thai
phụ 28 tuổi, tiền sử 2 lần sảy thai tự nhiên, NT
đo vào thời điểm 11 tuần 4 ngày là 4,6mm.
Nghiên cứu của chúng tơi thực hiện trên dân
số nguy cơ cao, do vậy, tần suất phát hiện các bất
thường trisomy chiếm tỉ lệ cao với 28,2% (35/124
trường hợp). Tần suất này khơng cĩ ý nghĩa để
áp dụng cho dân số chung mà chỉ nhằm mục
đích đánh giá tính ứng dụng về độ nhạy, độ đặc
hiệu của NIPT lần đầu thực hiện chính quy trên
dân số Việt Nam. Điểm mạnh của nghiên cứu là
đã minh chứng cho việc ứng dụng NIPT cho thai
phụ Việt Nam cũng cho kết quả tương tự như
nghiên cứu tại các nước khác. Khi so sánh với
kết quả phân tích nhiễm sắc thể đồ được thực
hiện độc lập thì NIPT đã cĩ kết quả gần như
tương đồng trong phát hiện thể lệch bội. Tuy
vậy, hạn chế của nghiên cứu này là cỡ mẫu nhỏ
và đối tượng là thai phụ nguy cơ cao nên kết quả
nghiên cứu cĩ thể cao hơn so với nghiên cứu mở
rộng thực hiện trên dân số chung.
KẾT LUẬN
NIPT là một xét nghiệm tiền sản khơng xâm
lấn mới, đáng tin cậy với độ nhạy, độ đặc hiệu
lần lượt đạt 97,1% và 100% trong tầm sốt
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Cơng Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 484
trisomy 13, 18, 21. Đối với những thai phụ nguy
cơ cao và từ chối thực hiện kỹ thuật xâm lấn
trong tầm sốt trước sinh thì NIPT là một lựa
chọn phù hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ashoor G, Syngelaki A, Wagner M, Birdir C, Nicolaides KH.
(2012). “Chromosome-selective sequencing of maternal plasma
cell-free DNA for first-trimester detection of trisomy 21 and
trisomy 18”. Am J Obstet Gynecol; 206:pp.321-5.
2. Bianchi DW, Platt LD, Goldberg JD et al. (2012). “Genome-wide
fetal aneuploidy detection by maternal plasma DNA
sequencing”. Obstet Gynecol; 119:pp.890-901.
3. Caine A, Maltby AE, Parkin CA, Waters JJ, Crolla JA (2005).
“Prenatal detection of Down's syndrome by rapid aneuploidy
testing for chromosomes 13, 18, and 21 by FISH or PCR without
a full karyotype: a cytogenetic risk assessment”. Lancet,
366:pp.123–128.
4. Guraya SS (2013). “The Associations of Nuchal Translucency
and Fetal Abnormalities; Significance and Implications”. J Clin
Diagn Res, 7(5):pp.936–941.
5. Herzenberg LA, Bianchi DW, Schrưder J, Cann HM, Iverson
GM (1979). “Fetal cells in the blood of pregnant women:
detection and enrichment by fluorescence-activated cell
sorting”. Proc Natl Acad Sci USA, 76:pp.1453–1455.
6. Hochstenbach R, Page-Christiaens GCML, van Oppen ACC et
al (2015). “Unexplained false negative results in noninvasive
prenatal testing: two cases involving trisomies 13 and 18”. Case
Rep Genet; pp.92654.
7. Hudecova I, Chiu RW (2017). “Non-invasive prenatal diagnosis
of thalassemias using maternal plasma cell free DNA”. Best
Pract Res Clin Obstet Gynaecol, 39:pp.63-73.
8. Lo YM (2000). Fetal DNA in maternal plasma: biology and
diagnosis applications. Clin Chem; 46(12):pp.1903–1906.
9. Manotaya S, Xu H, Uerpairojkit B et al (2016). “Clinical
experience from Thailand: noninvasive prenatal testing as
screening tests for trisomies 21, 18 and 13 in 4736 pregnancies”.
Prenat Diagn, 36(3):pp.224-31.
10. Morris JK, Waters JJ, de Souza E (2012).” The population impact
of screening for Down syndrome: audit of 19 326 invasive
diagnostic tests in England and Wales in 2008”. Prenat Diagn,
32:pp.596–601.
11. Morris JK, Waters JJ, de Souza E (2012).” The population impact
of screening for Down syndrome: audit of 19 326 invasive
diagnostic tests in England and Wales in 2008”. Prenat Diagn,
32:pp.596–601.
12. Poot M (2015). “To NIPT or Not to NIPT”. Mol Syndromol;
6(4):pp.153–155.
13. Schaelike M, Kossakiewicz M, Kossakiewicz A, Schild RL
(2009). “Examination of a first-trimester Down syndrome
screening concept on a mix of 11,107 high- and low-risk patients
at a private center for prenatal medicine in Germany”. Eur J
Obstet Gynecol Reprod Biol; 144(2):pp.140-5.
14. Srinivasan A, Bianchi D, Liao W, Sehnert A, Rava R (2013).
“Maternal plasma DNA sequencing: effects of multiple
gestation on aneuploidy detection and the relative cell-free fetal
DNA (cffDNA) per fetus”. Am J Obstet Gynecol; 2081:S31.
15. Suzumori N, Ebara T, Yamada T et al (2016). Fetal cell-free DNA
fraction in maternal plasma is affected by fetal trisomy. J Hum
Genet; 61(7):pp.647.
16. Thomas MR, Tutschek B, Frost A et al (1995). “The time of
appearance and disappearance of fetal DNA from the maternal
circulation”. Prenat Diagn, 15:pp.641–646
17. Vanstone M, Cernat A, Nisker J and Schwartz L (2018).
“Women’s perspectives on the ethical implications of non-
invasive prenatal testing: a qualitative analysis to inform health
policy decisions”. BMC Med Ethics, 19: 27.
18. Willems PJ, Dierickx H, Vandenakker ES, et al. (2014), “The first
3,000 Non-Invasive Prenatal Tests (NIPT) with the Harmony
test in Belgium and the Netherlands”. Facts Views Vis Obgyn,
6(1):pp.7–12.
Ngày nhận bài báo: 31/01/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 25/02/2019
Ngày bài báo được đăng: 20/04/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ung_dung_tam_soat_truoc_sinh_khong_xam_lan_trong_phat_hien_s.pdf