Ứng dụng nội soi trong điều trị lồng ruột

Tài liệu Ứng dụng nội soi trong điều trị lồng ruột: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 385 ỨNG DỤNG NỘI SOI TRONG ĐIỀU TRỊ LỒNG RUỘT Đinh Quang Lê Thanh*, Nguyễn Thị Bích Uyên**, Ngô Kim Thơi* TÓM TẮT Mở đầu: Mổ tháo lồng có ứng dụng nội soi là một cách tiếp cận mới trong điều trị phẫu thuật bệnh lồng ruột ở trẻ em. Tuy nhiên cho đến nay, tiêu chuẩn chung cho mổ hở và mổ nội soi tháo lồng vẫn chưa nhận được sự đồng thuận giữa các phẫu thuật viên. Nghiên cứu này nhằm đánh giá kết quả ban đầu của việc ứng dụng nội soi trong điều trị tháo lồng tại bệnh viện Nhi Đồng 1. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả phẫu thuật trong điều trị nội soi tháo lồng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả loạt ca. Kết quả: 12 trẻ bị lồng ruột được điều trị bằng nội soi tháo lồng trong khoảng thời gian từ 01/2015 đến 07/2016 tại bệnh viện Nhi Đồng 1. Nhỏ nhất là 6 tháng, lớn nhất là 13 tuổi. Có 9 nam, 3 nữ. Có 7(58,3%) bơm hơi tháo lồng thất bại...

pdf6 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 335 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng nội soi trong điều trị lồng ruột, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 385 ỨNG DỤNG NỘI SOI TRONG ĐIỀU TRỊ LỒNG RUỘT Đinh Quang Lê Thanh*, Nguyễn Thị Bích Uyên**, Ngô Kim Thơi* TÓM TẮT Mở đầu: Mổ tháo lồng có ứng dụng nội soi là một cách tiếp cận mới trong điều trị phẫu thuật bệnh lồng ruột ở trẻ em. Tuy nhiên cho đến nay, tiêu chuẩn chung cho mổ hở và mổ nội soi tháo lồng vẫn chưa nhận được sự đồng thuận giữa các phẫu thuật viên. Nghiên cứu này nhằm đánh giá kết quả ban đầu của việc ứng dụng nội soi trong điều trị tháo lồng tại bệnh viện Nhi Đồng 1. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả phẫu thuật trong điều trị nội soi tháo lồng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả loạt ca. Kết quả: 12 trẻ bị lồng ruột được điều trị bằng nội soi tháo lồng trong khoảng thời gian từ 01/2015 đến 07/2016 tại bệnh viện Nhi Đồng 1. Nhỏ nhất là 6 tháng, lớn nhất là 13 tuổi. Có 9 nam, 3 nữ. Có 7(58,3%) bơm hơi tháo lồng thất bại; 3(25%) tắc ruột do lồng ruột, 2(16,7%) lồng ruột tái phát nhiều lần sau bơm hơi tháo lồng. Đặc điểm lúc mổ: 9(75%) được sử dụng trocar nhiều cổng và 03 (25%) được sử dụng trocar 01 cổng. 4 (33,3%) lồng ruột non. 8(72,7%) phải mở cân rốn để tháo lồng bằng tay. 6 (50%) có nguyên nhân gây lồng. Một (9,1%) bị rách thanh mạc trong lúc tháo lồng qua nội soi. Về xử trí: 1 (8,3%) không có lồng ruột và không có nguyên nhân, được khâu cố định ruột; 5 (41,7%) được tháo lồng đơn thuần qua nội soi hay đưa qua rốn tháo lồng bằng tay; 6 (50%) có nguyên nhân được tháo lồng và cắt nối ruột. Không có TH nào phải chuyển qua mổ hở. Nguyên nhân gây lồng ruột gồm: 2 do túi thừa Meckel, 2 do polyp, 1 do lymphoma, 1 do nang ruột đôi manh tràng. Thời gian mổ 81,25 ± 45,48 phút. Thời gian ăn lại đường miệng có trung vị là 2 ngày. Thời gian nằm viện 7.33 ± 3.02 ngày. Thời gian từ lúc phẫu thuật cho đến lúc xuất viện 5.92 ± 2.35 ngày. Phần lớn (66,7%) có thời gian từ lúc phẫu thuật đến lúc xuất viện trong vòng 5 ngày. Kết luận: Có thể sử dụng nội soi an toàn và hiệu quả trong điều trị lồng ruột cho những trường hợp tháo lồng bằng hơi thất bại, lồng ruột tái phát nhiều lần, lồng ruột nghi có nguyên nhân thực thể và lồng ruột có tắc ruột nhưng bụng không trướng nhiều. Từ khóa: Lồng ruột, mổ tháo lồng. ABSTRACT LAPAROSCOPIC REDUCTION IN TREATMETN OF INTUSSUSCEPTION Dinh Quang Le Thanh, Nguyen Thi Bich Uyen, Ngo Kim Thoi * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 386 - 390 Background: Laparoscopic reduction is a new approach for treatment of intussusception in children. However, until now, there is no consensus of criteria for open and laparoscopic reduction. We conducted this study to assess the outcome of laparoscopic reduction at Children’s Hospital 1. Objectives: To evaluate outcome of laparoscopic reduction. Method: Retrospective case series. Results: There were 12 cases treated with laparoscopic reduction from 01/2015 to 07/2016 at CH1. Age range was from 6 mo to 13 yr. There were 9 male, 3 female. There were failure of pneumatic reduction in 7 (58.3%) cases, bowel obstruction in 3 (25%), recurrent intussusception after pneumatic reduction in 2 (16.7%). Intraoperative characteristics: 9(75%) using multiple cannula technique and 3 (25%) using single-port technique. * Khoa Ngoại Tổng Hợp – Bệnh viện Nhi Đồng 1 ** Bộ môn Ngoại Nhi – Đại học Y Dược Tp. HCM. Tác giả liên lạc: BS. Đinh Quang Lê Thanh ĐT: 0905911923 Email: dql.thanh@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 386 Seven cases (33.3%) had ileo-ileal intussusception. Eight cases (72.7%) needed to make a bigger incision at umbilical for open reduction. Six (50%) had pathologic lead points. One (9.1%) had serosa scratched during laparoscopic reduction. Operative management: 1 (8.3%) without intussusception and no lead point was fixed bowel to abdominal wall with suture, 5 (41.7%) had reduction only, 6(50%) with leadpoints had reduction and anastomosis. There was no case converted to laparotomy. Leadpoints included: 2 with Meckel’s diverticulum, 2 with polyp, 1 with lymphoma, 1 with duplication of cecum. Operative time 81.25 ± 45.48 phút. Time to full feed 2 days. LOS 7,33 ± 3.02. Discharge time from operation 5,92 ± 2,35 day. Most of cases (66.7%) had discharge time from operation within 5 days. Conclusion: Laparoscopic reduction can be used safely and effectively in cases with failure of pneumatic reduction, recurrent intussusception after pneumatic reduction, suspection of pathological lead point and bowel obstruction. Key words: Intussusception, surgery reduction. MỞ ĐẦU Lồng ruột là một trong những cấp cứu ngoại khoa thường gặp nhất ở trẻ em, đặc biệt là trẻ nhũ nhi và trẻ tập đi. Hiện nay điều trị lồng ruột gồm hai nhóm phương thức, nhóm điều trị không mổ và nhóm điều trị mổ. Với điều trị không mổ, ngày nay, trên thế giới, có nhiều phương tiện để tháo lồng như tháo lồng bằng barium dưới chụp X-quang, tháo lồng bằng nước dưới siêu âm hoặc nội soi và tháo lồng bằng hơi. Tỷ lệ thành công của tháo lồng không mổ hiện nay khá cao, tùy theo từng trung tâm và phương thức tháo lồng được sử dụng, nhưng nhìn chung tỷ lệ này đạt từ 80% trở lên(1,10). Về điều trị mổ, do tỷ lệ thành công của tháo lồng không mổ cao nên các bác sĩ chỉ đặt vấn đề mổ khi tháo lồng không mổ thất bại hay khi bệnh nhi có chống chỉ định với tháo lồng không mổ. Cho đến nay, đối với hầu hết các bệnh nhi có chỉ định mổ, mổ hở tháo lồng vẫn là phương pháp điều trị được lựa chọn của các phẫu thuật viên. Trong khoảng 20 năm trở lại đây, từ khi phẫu thuật nội soi được ứng dụng trong ngoại nhi, khái niệm mổ tháo lồng qua nội soi bắt đầu được giới thiệu đến các phẫu thuật viên(10). Đến nay, tiêu chuẩn chung cho mổ hở và mổ nội soi tháo lồng vẫn chưa nhận được sự đồng thuận giữa các phẫu thuật viên. Tại bệnh viện Nhi Đồng 1, hiện nay, chúng tôi điều trị trẻ lồng ruột bằng bơm hơi tháo lồng đối với những trẻ không có chống chỉ định của tháo lồng không mổ, tỷ lệ thành công rất cao. Năm 2015, trong 1807 ca lồng ruột, 98,9% trường hợp tháo lồng bằng hơi thành công, chỉ 1,1% phải mổ để tháo lồng. Áp lực chúng tôi sử dụng cho trẻ tùy thuộc vào lứa tuổi và áp lực dao động từ 80 – 120 mmHg. Khi trẻ thất bại với tháo lồng bằng hơi biểu hiện qua: (1) các triệu chứng tháo lồng không rõ; (2) siêu âm vẫn còn khối lồng, trẻ sẽ được mổ tháo lồng. Trước đây, chúng tôi sử dụng mổ hở để tháo lồng với đường mổ ngang trên rốn lệch phải. Tuy nhiên, hai năm trở lại đây, chúng tôi bắt đầu ứng dụng nội soi để mổ tháo lồng cho trẻ có những chỉ định sau: (1) tháo lồng bằng hơi thất bại, (2) lồng ruột có nguyên nhân, (3) lồng ruột tái phát nhiều lần. Qua nghiên cứu này, chúng tôi muốn đánh giá kết quả bước đầu của việc ứng dụng nội soi trong điều trị tháo lồng. Chúng tôi không nhằm mục đích đưa ra tiêu chuẩn để mổ hở hay mổ nội soi. Mục tiêu nghiên cứu Đánh giá kết quả phẫu thuật trong điều trị nội soi tháo lồng. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Hồi cứu tất cả các trường hợp có chẩn đoán lồng ruột được điều trị bằng nội soi tháo lồng trong khoảng thời gian từ 01/2015 đến 07/2016 tại bệnh viện Nhi Đồng 1. Các thông số về đặc điểm của trẻ sẽ được thu thập. Ngoài ra để đánh giá kết quả mổ nội soi, chúng tôi thu thập thêm thời gian nằm viện, thời gian phẫu thuật, thời gian ăn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 387 lại bằng đường miệng, tỷ lệ biến chứng trong mổ và sau mổ. Kỹ thuật mổ nội soi Hiện nay, tại bệnh viện chúng tôi, có hai phương pháp đặt các trocar trong mổ nội soi tháo lồng. Cách vô 03 trocar, trong đó, 1 trocar (05/10mm) ở rốn, 02 trocar 05mm ở hai bên hố chậu (Hình 1). Cách đặt trocar này tương tự như cách đặt trocar khi mổ ruột thừa. Cách hai là cách vô trocar 01 cổng (Hình 2). Với cách này, chỉ cần một đường rạch da duy nhất ở quanh rốn, đặt túi dụng cụ 01 cổng, từ đó đưa dụng cụ tháo tác vào ổ bụng qua cổng này. Tùy tính chất khối lồng, nếu có thể tháo lồng qua nội soi và lồng ruột không có nguyên nhân, chúng tôi không mở rộng cân rốn để đưa ruột ra ngoài kiểm tra. Trong trường hợp, khối lồng chặt, không thể tháo lồng qua nội soi hoặc sau tháo lồng, nghi ngờ hay phát hiện có nguyên nhân gây lồng, chúng tôi sẽ mở rộng cân rốn khoảng 1-1,5cm để đưa ruột ra ngoài thao tác. Việc tháo lồng, xử trí nguyên nhân gây lồng bao gồm cắt nối ruột đều được thực hiện qua vết mổ này (Hình 3). KẾT QUẢ Hồi cứu hồ sơ trong khoảng 01/2015 – 07/2016, có tổng cộng 12 trẻ bị lồng ruột được điều trị với nội soi tháo lồng (Bảng 1). Trẻ nhỏ nhất là 6 tháng và lớn nhất là 13 tuổi. Tỷ lệ nam/nữ: 3/1 (9 nam; 3 nữ). Trong số các trẻ này, có 7 trẻ bơm hơi tháo lồng thất bại (58,3%); 3 trẻ được chẩn đoán tắc ruột do lồng ruột, không còn chỉ định bơm hơi tháo lồng (25%), 2 trẻ lồng ruột tái phát nhiều lần sau bơm hơi tháo lồng, nghi ngờ có nguyên nhân thực thể (16,7%). Trong 12 trẻ này, có 1 trẻ được mổ khi không có lồng ruột ở thời điểm đưa ra chỉ định nhưng trẻ đã được bơm hơi tháo lồng nhiều trong cùng đợt nhập viện này và trên siêu âm nghi ngờ có nguyên nhân gây lồng ruột. Bảng 1. Đặc điểm phẫu thuật 1 cổng 3 cổng Tổng cộng Tổng cộng 3 (25%) 9 (75%) 12 Có lồng 2 9 11 Tháo lồng bằng tay 1 7 8 (72,7%) Có nguyên nhân 1 5 6 (50%) Rách thanh mạc 0 1 1 (9,1%) Chuyển mổ hở 0 0 0 Về phương thức mổ, có 9 trẻ được sử dụng trocar nhiều cổng (75%) (Hình 1) và 03 trẻ được sử dụng trocar 01 cổng (25%) (Hình 2). Trong 11 trẻ có khối lồng lúc mổ, có 4 trường hợp lồng ruột non-ruột non chiếm 33,3%. Tỷ lệ phải mở cân rốn để tháo lồng bằng tay là 72,7% (8 trẻ) (Hình 3). Có 6 trường hợp có nguyên nhân gây lồng ruột (50%). 01 trường hợp bị rách thanh mạc trong lúc tháo lồng qua nội soi chiếm 9,1%. Hình 1. Trocar nhiều cổng (3 cổng). Hình 2. Trocar 1 cổng. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 388 Hình 3. Mở rộng cân rốn để tháo lồng và kiểm tra điểm khởi lồng. Về xử trí, trong 12 trẻ được mổ nội soi, 01/12 trẻ không có lồng ruột và không có nguyên nhân, được khâu cố định đoạn cuối hồi tràng vào manh tràng – manh tràng vào thành bụng phải. 05/12 trẻ tháo lồng đơn thuần qua nội soi hay đưa qua rốn tháo lồng bằng tay. 06/12 trường hợp còn lại có nguyên nhân được tháo lồng và xử lý nguyên nhân bao gồm có cắt nối ruột. Không có trường hợp nào phải chuyển qua mổ hở. Về nguyên nhân gây lồng ruột, 02 trường hợp do túi thừa Meckel, 02 trường hợp do polype ruột non, 01 trường hợp do lymphoma và 01 trường hợp do nang ruột đôi manh tràng. Thời gian mổ trung bình 81.25 ± 45.48 phút. Thời gian ăn lại đường miệng có trung vị là 2 ngày. Thời gian nằm viện trung bình là 7,33 ± 3.02 ngày. Thời gian từ lúc phẫu thuật cho đến lúc xuất viện trung bình 5,92 ± 2,35 ngày. Có 8 trẻ có thời gian từ lúc phẫu thuật đến lúc xuất viện trong vòng 5 ngày (66,7%). BÀN LUẬN Trong khoảng 50 năm trở lại đây, nội soi được ứng dụng nhiều trong phẫu thuật nhi và cho thấy những lợi ích nhất định. Nội soi được sử dụng để điều trị lồng ruột lần đầu tiên 1997 bởi tác giả Schier(10). Đến nay, nhiều trung tâm đã ứng dụng kỹ thuật này trong điều trị những trường hợp lồng ruột cần mổ. Chỉ định chính xác cho nội soi chưa được sự thống nhất, đồng thuận giữa các phẫu thuật viên, nhưng nhìn chung, có một số chỉ định thường được các nghiên cứu nhắc đến: tháo lồng không mổ thất bại, lồng ruột tái phát nhiều lần và lồng ruột có nguyên nhân(1,6). Trong nghiên cứu này của chúng tôi, các trường hợp được chỉ định can thiệp nội soi cũng rơi vào các chỉ định trên. Có 2 trường hợp chúng tôi chỉ định mổ ngay mà không tháo lồng bằng hơi vì trẻ đã có triệu chứng tắc ruột rõ và tình trạng bụng trướng không nhiều nên không cản trở tầm nhìn khi thao tác nội soi. Chúng tôi cho rằng với những trường hợp bụng trướng nhiều, chỉ định nội soi nên được cân nhắc kỹ lưỡng hơn do cái quai ruột trướng làm hạn chế không gian thao tác cũng như tầm nhìn của phẫu thuật viên. Một số tác giả cho rằng việc tháo lồng hoàn toàn bằng nội soi có thể làm tổn thương thành ruột như rách thanh mạc do các dụng cụ nội soi gây ra. Trong nghiên cứu này, chúng tôi chỉ ghi nhận 01 trường hợp duy nhất bị rách thanh mạc trong 4 trường hợp tháo lồng hoàn toàn bằng dụng cụ nội soi. 8 trường hợp còn lại, chúng tôi tháo lồng một phần bằng dụng cụ nội soi đến khi khối lồng di chuyển đến vùng manh tràng và hồi tràng. Ở thời điểm này, nếu việc tháo lồng bằng các dụng cụ nội soi khó khăn, chúng tôi sẽ mở rộng cân rốn và đưa khối lồng ra ngoài. Thường kích thước khối lồng ở giai đoạn này không lớn, vừa đủ để đưa qua vết mổ vùng rốn có chiều dài 1-2cm. Chúng tôi nhận thấy, những trường hợp lồng ruột có nguyên nhân thực thể, khó có thể tháo lồng hoàn toàn bằng dụng cụ nội soi trong ổ bụng do nguyên nhân thực thể kẹt trong khối lồng. Những trường hợp này, nếu cố gắng thao tác bằng dụng cụ có thể làm rách thanh mạc hoặc thủng đoạn ruột lồng. Chúng tôi không ghi nhận có sự khác biệt về thời gian mổ giữa can thiệp nhiều cổng và một cổng. Điều này một phần tùy thuộc vào nguyên nhân có hay không và cách xử trí nguyên nhân gây lồng ruột. Nếu ngoài việc tháo lồng, phẫu thuật viên còn giải quyết nguyên nhân thì những trường hợp này thời gian phẫu thuật sẽ dài hơn so với những trường hợp chỉ tháo lồng đơn thuần. Về giải quyết nguyên nhân gây lồng, thời Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 389 gian ca mổ cần cắt nối ruột sẽ lâu hơn so với chỉ mở ruột để xử trí nguyên nhân mà không cần cắt nối ruột. Có một trường hợp không có lồng ruột nhưng thời gian mổ lâu nhất trong nhóm nghiên cứu này (165 phút). Trường hợp này không có lồng và không có nguyên nhân thực thể nhưng trên lâm sàng, trẻ tháo lồng nhiều lần (10 lần), nên chúng tôi đã khâu cố định manh tràng vào thành bụng phải và hồi tràng vào manh tràng qua trocar 1 cổng. Thao tác khâu qua trocar 1 cổng khá khó khăn khi các dụng cụ đều đồng trục với nhau nên việc tạo các nút buộc chỉ không dễ dàng. Chúng tôi nghĩ rằng việc thêm một trocar 5mm ở hố chậu phải sẽ giúp cho tháo tác thuận tiện hơn, rút ngắn thời gian phẫu thuật, đặc biệt là ở những cơ sở mới ứng dụng kỹ thuật nội soi trong điều trị các bệnh lý ngoại nhi như bệnh viện chúng tôi. Lợi điểm của trocar 1 cổng so với trocar 3 cổng là hạn chế được đường mổ và khi cần có thể đưa ruột ra ngoài kiểm tra hay thao tác dễ dàng. Chúng tôi nhận thấy với kỹ thuật nội soi, nhu động ruột hoạt động khá sớm và thời gian trẻ nằm viện sau mổ không dài. Đa số thời gian ăn lại sau mổ là 2 ngày và thời gian hậu phẫu là 5 ngày (3-11 ngày). Chúng tôi có 2 trường hợp có thời gian từ lúc mổ đến lúc xuất viện từ 10 ngày trở lên, cả hai trường hợp này đều có thời gian ăn lại sau mổ 2 ngày, nhưng do có bệnh lý nội khoa kèm theo nên thời gian hậu phẫu dài hơn so với những trường hợp khác. Có 3 trường hợp trẻ được nhập viện vài ngày trước khi được chỉ định mổ, 01 trẻ nằm tại khoa hô hấp do bệnh viêm hô hấp, 02 trẻ được tháo lồng bằng hơi nhiều lần trước khi chỉ định mổ. Diễn tiến sau mổ của tất cả các trường hợp này đều thuận lợi, không ghi nhận có biến cố nào xảy ra gồm cả biến cố nhiễm trùng vết mổ. Mổ nội soi đã được chứng minh trong các bệnh lý khác có tính thẩm mỹ cao hơn. Chúng tôi cũng nhận thấy kết quả tương tự trong nghiên cứu này. Với ba đường mổ trong trocar nhiều cổng trong đó một đường mổ được giấu hoàn toàn trong rốn với trường hợp không cần mở rộng cân rốn và 02 đường mổ 05mm được giấu dưới nếp bụng thấp, như vậy trên bụng trẻ gần như không thấy vết mổ. Trong những trường hợp can thiệp một cổng hoặc cần mở rộng cân rốn trong can thiệp nhiều cổng, vết mổ được nhìn thấy trên ổ bụng không rõ do vết mổ được giấu một phần trong rốn và phần nhìn thấy được nằm sát rốn, có chiều dài tối đa là 1-1,5cm. Với đường mổ ngắn như vậy, trẻ sẽ ít đau hơn và nhờ đó trẻ mau chóng trở lại sinh hoạt thường ngày hơn. Trước đây, khi còn mổ hở, chúng tôi chọn đường mổ ngang trên hoặc dưới rốn với đường mổ tốn thiểu để có thể thao tác và quan sát thương tổn là 4cm. Trong đó, có những trường hợp, khi đưa ruột ra ngoài đã không còn thấy khối lồng. Điều này có thể giải thích là do khi trẻ được gây mê với giãn cơ, động tác đưa từng quai ruột ra ngoài để kiểm cũng có tác dụng tháo lồng hoặc siêu âm cho kết quả dương tính giả trước mổ. Tuy nhiên, với kỹ thuật nội soi, chúng tôi vừa có thể chẩn đoán với những đường mổ tối thiểu và vừa có khả năng giải quyết khối lồng cũng như xử trí nguyên nhân, nhờ đó tránh được những nguy cơ liên quan đến vết mổ cho trẻ về sau như nguy cơ tắc ruột. Ngoài ra, trong mổ hở, việc chọn đường mổ giúp thao tác thuận tiện, dễ dàng và nhanh gọn thương tổn là điều rất quan trọng, nhưng với phẫu thuật nội soi, nhờ có sự hướng dẫn của camera định vị thương tổn toàn ổ bụng trước khi đặt các trocar thao tác nên vấn đề này không còn được đặt nặng. KẾT LUẬN Trong nghiên cứu này, với số liệu không nhiều và không so sánh với những trẻ được mổ hở nên chúng tôi chưa thể kết luận chắc chắn mổ nội soi hiệu quả và ưu thế hơn mổ hở. Tuy nhiên, với những kết quả đạt được và từ những nghiên cứu đã được thực hiện trên thế giới, chúng tôi nhận thấy có thể sử dụng nội soi để điều trị lồng ruột, một phương pháp an toàn và hiệu quả trong những trường hợp tháo lồng Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 390 bằng hơi thất bại, lồng ruột tái phát nhiều lần, lồng ruột nghi có nguyên nhân thực thể và lồng ruột có tắc ruột nhưng bụng không trướng nhiều. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Almaramhy HH (2011). "Laparoscopic reduction of intussusception in children: role in primary and revisional reduction after failed non-surgical therapies". Int J Health Sci (Qassim), 5(1):pp.71-8. 2. Apelt N, et al (2013), "Laparoscopic treatment of intussusception in children: a systematic review", J Pediatr Surg, 48(8):pp.1789-93. 3. Bonnard A, et al (2008). "Indications for laparoscopy in the management of intussusception: A multicenter retrospective study conducted by the French Study Group for Pediatric Laparoscopy (GECI)". J Pediatr Surg, 43(7):pp.1249-53. 4. Burjonrappa SC (2007). "Laparoscopic reduction of intussusception: an evolving therapeutic option". JSLS, 11(2):pp.235-7. 5. Cheung ST, et al (2007). "Minimally invasive approach in the management of childhood intussusception". ANZ J Surg, 77(9):pp.778-81. 6. Houben CH, et al (2016). "What is the role of laparoscopic surgery in intussusception?". ANZ J Surg, 86(6):pp.504-8. 7. Jiang J, et al (2013). "Childhood intussusception: a literature review". PLoS One, 8(7):pp.68482. 8. Kia KF, et al (2005). "Laparoscopic vs open surgical approach for intussusception requiring operative intervention". J Pediatr Surg, 40(1):pp.281-4. 9. Poddoubnyi IV, et al (1998). "Laparoscopy in the treatment of intussusception in children". J Pediatr Surg, 33(8):pp.1194-7. 10. Schier F (1997). "Experience with laparoscopy in the treatment of intussusception". J Pediatr Surg, 32(12):pp.1713-4. Ngày nhận bài báo: 17/10/2017 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20/12/2017 Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfung_dung_noi_soi_trong_dieu_tri_long_ruot.pdf
Tài liệu liên quan